Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính sách việc làm cho người lao động là một vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. Thông qua tạo thêm việc làm và đảm bảo việc làm cho người lao động, chính sách việc làm có mục tiêu xã hội là nâng cao phúc lợi cho người dân, thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo cho người dân hoà nhập xã hội, giảm dần sự tách biệt xã hội. Chính sách việc làm ở nước ta thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm sâu sắc tới vấn đề này, thể hiện trong việc đề ra các chủ trương lớn như giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển, xây dựng hệ thống an sinh xã hội đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình lao động việc làm cụ thể.

Sự phát triển kinh tế-xã hội và quá trình đô thị hoá của thành phố Đà Nẵng trong những năm qua đã có những tác động tích cực: Thúc đẩy thị trường lao động phát triển, cơ cấu lại lực lượng lao động, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo môi trường và nhiều cơ hội cho người lao động tìm được việc làm, ổn định đời sống. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, quá trình đô thị hoá và phát triển của thành phố cũng làm nảy sinh một số khó khăn về việc giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động. Trong quá trình cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, một bộ phận lao động không đáp ứng yêu cầu sử dụng, nhưng không thể đào tạo lại, bị mất việc làm; vấn đề chuyển đổi ngành nghề, đào tạo, phục hồi thu nhập, tạo việc làm cho số lao động của các hộ trong diện di dời, chỉnh trang đô thị, còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường hàng năm, bộ đội xuất ngũ, lao động nhập cư cần tìm việc làm càng làm cho vấn đề giải quyết việc làm trở nên bức xúc. Thực hiện Nghị quyết số 25/2005/NQ-HĐND ngày 26/7/2005 của Hội đồng nhân dân thành phố khóa VII, kỳ họp thứ 5, nhiệm kỳ 2004-2009 về thực hiện Chương trình “Thành phố 3 có: Có nhà ở, có việc làm và có nếp sống văn hóa – văn minh đô thị”, UBND thành phố có Quyết định số 142/2005/QĐ-UBND ngày 03/10/2005 ban hành Đề án “Giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động của thành phố”. Nhờ đó, công tác giải quyết việc làm cho người lao động giai đoạn 2006 – 2010 đạt được kết quả tốt, với hơn 161.400 lao động được giải quyết việc làm.

Giai đoạn tiếp theo (2012 – 2015), thành phố Đà Nẵng tiếp tục mục tiêu: phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế – xã hội của miền Trung, là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của miền Trung và cả nước; đảm bảo tốc độ GDP bình quân tăng 13,5 – 14,5%, đến năm 2015 GDP tăng gấp 1,9 lần so với năm 2010; tạo nền tảng để xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.

Để đạt được mục tiêu đó, thành phố xác định năm hướng đột phá chiến lược; phấn đấu tạo một bước chuyển dịch về cơ cấu kinh tế; trên cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường đầu tư thuận tiện; nâng cao tiềm lực kinh tế – xã hội một cách vững chắc; tạo thêm chỗ làm mới và giải quyết việc làm một cách ổn định, bình quân đạt 3,2 – 3,4 vạn lao động/năm, góp phần hạ tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 4,5%. Từ mục tiêu đó, để giải quyết việc làm cho người lao động một cách hiệu quả và ổn định thì cần có chính sách cụ thể với lộ trình nhất định về giải quyết việc làm và những giải pháp thiết thực có tính khả thi cao. Từ đó, vấn đề giải quyết việc làm giúp tạo sự ổn định xã hội, góp phần thực hiện tốt chương trình giảm nghèo; giải quyết các vấn đề an sinh xã hội trên địa bàn thành phố.

Để chính sách việc làm đem lại hiệu quả trong thời gian đến, việc tìm hiểu vấn đề thiếu việc làm cho người lao động, các nguyên nhân thiếu việc làm, các giải pháp chính sách việc làm hiện nay luôn được quan tâm và đây cũng là nội dung nghiên cứu của đề tài này. Tuy nhiên, hiệu quả của một chính sách công, chính sách việc làm ở nước ta phải được đánh giá tích cực đầy đủ lý thuyết về phân tích chính sách công để thiết kế một chính sách phù hợp với thực tiễn. Vậy chính sách việc làm ở nước ta có được thể hiện đầy đủ các công đoạn quy trình chính sách hay không? Chính sách việc làm được tổ chức thực hiện ở các địa phương có đem lại hiệu quả như thiết kế ban đầu hay không? Bên cạnh những vấn đề đặt ra nêu trên, Đà Nẵng cũng là một trong những tỉnh thành đang thực thi chính sách việc làm theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đem lại những kết quả khả quan, tuy nhiên việc triển khai thực hiện chính sách việc làm vẫn còn nhiều bất cập, các cơ quan chuyên môn vẫn chưa được tiếp cận với lý thuyết của một quy trình chính sách công, do đó hiệu quả trong thực thi chính sách công nói chung, chính sách việc làm nói riêng chưa cao.

Nhằm đánh giá chung đúng thực trạng việc làm và việc thực thi chính sách việc làm để từ đó đưa ra những giải pháp chính chính sách nhằm đổi mới chính sách việc làm trong thời gian đến ở Đà Nẵng, tác giả luận văn đã chọn đề tài: “Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là quan trọng và cần thiết phục vụ hoàn thành các mục tiêu của Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX đã đề ra.

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chính sách lao động việc làm, quan niệm về việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích thực trạng chính sách tạo việc làm ở Đà Nẵng, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Đà Nẵng hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu đêm lại hiệu quả cao nhất cho việc giải quyết việc làm cho người lao động ở Đà Nẵng trong thời gian tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

– Nghiên cứu cơ sở lý luận, lý thuyết về chính sách việc làm.

– Vận dụng lý thuyết về chính sách công để nghiên cứu chính sách việc làm qua thực tế tại thành phố Đà Nẵng:

+ Nghiên cứu về vấn đề việc làm qua thực tế của Đà Nẵng.

+ Nghiên cứu thực trạng và các giải pháp, công cụ của chính sách việc làm hiện nay từ thực tế tại thành phố Đà Nẵng.

+ Nghiên cứu đưa ra giải pháp nhằm đổi mới việc xây dựng và thực hiện, đánh giá chính sách việc làm phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu:

Chính sách việc làm, cụ thể là nghiên cứu giải pháp và công cụ chính sách việc làm dưới góc độ khoa học chính sách công.

Phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu tại thành phố Đà Nẵng, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách việc làm từ năm 2006 đến nay và đề ra giải pháp hoàn thiện chính sách việc làm của thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

Thời gian nghiên cứu: Tháng 3/2014 đến tháng 9/2014

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận:

Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và luận văn triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.

Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp, được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách việc làm ở nước ta nói chung và thực tế thành phố Đà Nẵng nói riêng. Đồng thời, thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả quốc tế liên quan đến đề tài trong thời gian qua.

Thu tập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của ngành chính sách xã hội liên quan đến vấn đề chính sách việc làm

Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là phương pháp được dùng khá phổ biến trong nghiên cứu xã hội học, đó là phương pháp đối thoại với một đối tượng nhằm thu thập thông tin. Theo dự kiến thiết kế nghiên cứu có phương pháp điều tra bằng bảng hỏi đối với đối tượng là những người nằm trong độ tuổi lao động và những người chưa có việc làm và chưa qua đào tạo. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên tác giả tập trung vào phương pháp phỏng vấn sâu nghiên cứu chính sách.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn

Ý nghĩa lý luận văn:

– Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết về chính sách công.

– Kết quả đánh giá nghiên cứu làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết liên quan đến chính sách công, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành.

Ý nghĩa thực tiễn:

– Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng các lý thuyết về chính sách công để xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về chính sách việc làm ở thành phố Đà Nẵng để từ đó nâng cao hiệu quả chất lượng của chính sách trong những năm tiếp theo.

– Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành thành phố trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách một cách hiệu quả trong công cuộc phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM

1.1. Lý luận về chính sách việc làm

1.1.1. Khái niệm về chính sách việc làm

“Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp và công cụ thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” [Đỗ Phú Hải, 2012, 2014]. Như vậy, chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp hành động để thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội nhằm đạt một mục đích nhất định, góp phần thực hiện mục tiêu tổng thể đã xác định.

Việc làm là hoạt động lao động gắn với nghề nghiệp (mà không bị pháp luật cấm) tạo ra nguồn thu nhập đáp ứng những nhu cầu cơ bản của cuộc sống và sự phát triển toàn diện con người.

Khái niệm chính sách việc làm, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc từ các khái niệm “chính sách công” và “việc làm” nêu trên, có thể xem: chính sách việc làm là tập hợp các quyết định liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ thực hiện để tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động nhằm đáp ứng cơ bản về nhu cầu cuộc sống và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đặt ra.

Theo nghĩa đầy đủ hơn, chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực lượng lao động đó nhằm đáp ứng cơ bản về nhu cầu cuộc sống và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đặt ra.

Nói cách khác, chính sách việc làm là sách lược và kế hoạch dựa trên sự cụ thể hóa và thể chế hoá pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực lao động và việc làm, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động nhằm đạt một mục đích nhất định.

Chính sách việc làm có một mục tiêu cốt yếu là nhằm khuyến khích việc làm đầy đủ và việc làm bền vững, để kích thích thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống, đáp ứng nhu cầu nhân công và giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội. Chính sách việc làm mang tính tổng hợp về kinh tế – xã hội có nội dung bao hàm cả về cơ chế vận hành, chế độ và chính sách, nên nó phải đáp ứng về mức độ phù hợp với từng giai đoạn, với trình độ phát triển kinh tế của đất nước và thích ứng phù hợp với các quy ước quốc tế; cũng như cần đặt chính sách việc làm đồng bộ trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế – xã hội của quốc gia, đảm bảo mối quan hệ giữa các mục tiêu việc làm với các mục tiêu kinh tế – xã hội khác.

1.1.2. Vấn đề của chính sách việc làm tại Việt Nam

Sau 25 năm thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề lao động – việc làm ở nước ta đã từng bước được giải quyết theo hướng của quy luật khách quan về kinh tế hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt đưọc những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, thực trạng chính sách giải quyết vấn đề lao động việc làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều bất cập, chính sách có lúc chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau đây:

Mất cân đối lớn về cung cầu lao động, số người thất nghiệp khá cao (thành thị chiếm 41.7%, còn lại là nông thôn chiếm 58.3%), tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn chiếm 70.2% trong đó lao động nữ chiếm 48.5% (Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, Quý 3/2013). Tình trạng thiếu việc làm thường xuyên cao, chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động gắn bó tận tâm với công việc. Cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề thấp. Kỹ năng tay nghề, thể lực người lao động yếu, kỷ luật lao động và tác phong làm việc công nghiệp chưa cao.

Các văn bản của Nhà nước hướng dẫn thực hiện các luật về lao động, việc làm và thị trường lao động chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm minh, gây áp lực cho vấn đề giải quyết việc làm. Khả năng cạnh tranh yếu, nhất là ở những lĩnh vực yêu cầu lao động có trình độ cao. Cơ cấu ngành nghề đào tạo chuyên môn kỹ thuật chưa thể đáp ứng yêu cầu và mục tiêu của nền kinh tế.

Từ năm 2001 đến nay, hệ thống pháp luật kinh tế lao động – việc làm tiếp tục được hoàn thiện như Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thuế, Luật Phá sản, Luật bảo hiểm xã hội, Luật dạy nghề, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trường lao động – việc làm phát triển. Bộ Luật lao động được sửa đổi bổ sung năm 2002 và 2006, 2010, 2012 liên quan tới lao động, thị trường lao động và việc làm đã dần hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển, tăng cường cơ hội việc làm và hoàn thiện quan hệ lao động. Các chế độ về tiền lương, thu nhập, trợ cấp ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động.

Tuy nhiên, thể chế chính sách lao động – việc làm còn nhiều bất cập trước yêu cầu đáp ứng một thị trường lao động việc làm hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Biểu hiện ra là các chính sách lao động – việc làm còn chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể để giải quyết được vấn đề lao động – việc làm hiện tại; nhiều quy định mới chỉ được thể hiện bằng các văn bản dưới luật nên tính pháp lý chưa cao. Còn thiếu các giải pháp chính sách bình đẳng việc làm, việc làm an toàn, các quy định về việc làm đầy đủ, việc làm bán thời gian, các khái niệm, định nghĩa về thị trường lao động chưa được xác định rõ; các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn gây khó khăn trong hoạt động quản lý và tổ chức thực hiện chính sách lao động – việc làm. Cụ thể là quản lý nhà nước đối với thị trường lao động – việc làm và vai trò điều tiết của Nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động còn hạn chế. Sự kiểm soát, giám sát thị trường lao động, việc làm chưa chặt chẽ. Hệ thống giao dịch thị trường lao động còn yếu kém do thông tin thị trường lao động, việc làm chính thức chưa phát triển mạnh, chưa có các trung tâm giao dịch lớn đạt hiệu quả tầm khu vực.

Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn về phát triển kinh tế. Cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt từ cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp cho đến tổng thể nền kinh tế, từ bình diện trong nước cho đến ngoài nước. Một bộ phận doanh nghiệp không thích nghi kịp đã phá sản hoặc có nguy cơ phá sản, người lao động thất nghiệp hoặc có nguy cơ thất nghiệp cao, thiếu việc làm, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Chất lượng nguồn lực lao động nước ta chưa đáp ứng yêu cầu, gây trở ngại trong quá trình hội nhập quốc tế. Di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị vào các khu công nghiệp tập trung và di chuyển ra nước ngoài kéo theo hệ quả của nhiều vấn đề xã hội. Do đó trong bối cảnh công cụ Luật Việc làm ra đời tháng 11/2013 (Luật số 38/2013/QH13) đòi hỏi cần thiết nghiên cứu làm rõ những trở ngại về mặt chính sách lao động – việc làm để đưa ra những giải pháp chính sách và công cụ chính sách bổ trợ giúp cho giải quyết tốt vấn đề xã hội là vấn đề lao động – việc làm hiện tại.

Nguyên nhân của vấn đề chính sách: Những vấn đề đặt ra nêu trên, nó có nhiều nguyên nhân, trong đó có thể kể đến các yếu tố hình thành nên thị trường lao động – việc làm chưa đầy đủ, chưa đồng bộ dẫn đến chính sách quản lý nhà nước đối với thị trường lao động – việc làm chưa chặt chẽ ngay khâu kiểm soát và giám sát loại thị trường đặc biệt này, cũng như vai trò điều tiết của Nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động bị hạn chế; cơ sở dữ liệu quản lý dân cư chưa có khiến việc kiểm soát sự dịch chuyển lao động bị động và phân tích việc làm mới – cũ gặp nhiều khó khăn; chưa có định hướng về quy hoạch tổng thể phát triển việc làm dài hạn, quy hoạch phát triển vùng, ngành nghề sản xuất kinh doanh cho nên sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm và không ổn định, lao động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp, điều này đã và đang đặt ra áp lực lớn khi bối cảnh cơ cấu dân số nước ta đang chuyển từ giai đoạn cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu nguồn dân số vàng – “dư lợi dân số”; Chương trình quốc gia về việc làm còn hạn chế cả về nguồn vốn đầu tư, đối tượng được hưởng và mức được vay nên chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn giải quyết việc làm theo cơ chế thị trường; ngoài ra, còn do chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động gắn bó tận tâm với công việc.

Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1.1.3. Giải pháp và công cụ chính sách việc làm

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra mục tiêu: “Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%. Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích tạo thuận lợi để người lao động học tập nâng cao trình độ lao động, tay nghề; đồng thời có cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”. Để thực hiện mục tiêu này, các giải pháp chính sách lao động – việc làm cần thiết phải là:

Thứ nhất là, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội cần phải tính đến mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động. Nói cách khác cần xác định mục tiêu giải quyết việc làm trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch kinh tế – xã hội tổng thể và tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển “việc làm bền vững”, thì cần chủ động phát triển có tổ chức các thị trường lao động có nhiều tiềm năng và hiệu quả kinh tế cao, nhất là thị trường lao động chất lượng cao về kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động. Để nâng cao hiệu lực của chính sách việc làm cần có sự phối hợp đồng bộ các cấp, ngành và địa phương có liên quan, tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách, phát hiện những hạn chế, những ách tắc để xử lý kịp thời, qua đó để các chính sách đi vào cuộc sống có hiệu quả hơn. Trong đó cần có giải pháp chính sách khuyến khích thanh niên nông thôn tự tạo việc làm cho bản thân, gia đình.

Thứ hai là, tổ chức hệ thống đào tạo nghề bố trí nguồn lực để đầu tư đào tạo nghề cho thanh niên ngay từ khi còn trên ghế nhà trường ở bậc phổ thông trung học nếu họ không có ý định học lên bậc đại học. Mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ (sơ cấp, trung cấp và cao đẳng nghề). Công cụ chính sách không chỉ huy động tổ chức công tham gia đào tạo nghề cho thanh niên mà còn cần thiết tăng cường xã hội hóa công tác đào tạo nghề để cho khu vực doanh nghiệp và xã hội tham gia dịch vụ này. Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình độ cao, trình độ lành nghề, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đào tạo nguồn nhân lực nâng cao lao động chất lượng cho chính nhu cầu sử dụng lao động của họ. Để khuyến khích hỗ trợ cho doanh nghiệp và các tổ chức tư nhân tham gia vào đào tạo nghề qua việc sử dụng các công cụ chính sách về tài chính như miễn thuế, hỗ trợ tài chính.

Để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế thực sự, tránh hình thức và lãng phí của xã hội trong quá trình triển khai các đề án đào tạo nghề, cần bảo đảm đầu tư đủ mức theo yêu cầu dậy và học nghề. Mặt khác, cần tăng cường công tác tuyên truyền, linh hoạt và thiết thực về nội dung và phương thức đào tạo nghề, gắn với thực tế đối tượng học nghề, cũng như gắn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi địa phương, để các đối tượng lao động nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng núi không bị lúng túng trong việc xác định nghề học, sắp xếp thời gian học. Hơn nữa, cần chú ý dạy nghề theo hướng tạo việc làm tại chỗ, trong đó có đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn theo tinh thần “ly nông bất ly hương”, để người lao động sống ở nông thôn sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể tăng khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo lập công việc, thu nhập ngay tại quê nhà, không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi kinh tế lên các đô thị.

Thứ ba là, tăng cường giải pháp khuyến khích chú trọng đến chất lượng lao động – việc làm. Giải pháp chính sách là khuyến khích người lao động nâng cao trình độ và tay nghề thông qua đào tạo, dùng công cụ tổ chức công để xác định tay nghề cấp chứng chỉ nghề quốc gia cho lực lượng lao động trong đó cần phải chú ý phát triển nguồn nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như kinh tế nông nghiệp sử dụng công nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật, cũng như khai thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về nước sau khi kết thúc hợp đồng lao động ở nước ngoài. Mặt khác, cần tạo môi trường áp lực cao để người lao động Việt Nam khắc phục ảnh hưởng của lao động trong nền sản xuất nhỏ, tiểu nông, manh mún, được học tập và rèn luyện trong các trường dạy nghề trọng điểm chất lượng cao, trường đại học đẳng cấp quốc tế, được quản lý theo mục tiêu bảo đảm chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu của xã hội.

Thứ tư là, cần tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm phát triển thị trường lao động và bảo hiểm thất nghiệp. Khuyến khích tăng cường hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm cần chú trọng đến hoạt động tư vấn việc làm, cung cấp thông tin thị trường lao động. Khuyến khích tăng cường hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm với các doanh nghiệp hoặc người sử dụng lao động. Bên cạnh đó công cụ tổ chức Quỹ bảo hiểm thất nghiệp cần được củng cố và đảm bảo sự tham gia của đa số người lao động.

Thứ năm là, chính sách lao động – việc làm cần được thực hiện đồng bộ và đồng thời, thậm chí một số giải pháp phải đi trước một bước với các chính sách kinh tế khác. Đặc biệt, chính sách khuyến khích hỗ trợ công tác đào tạo nghề cần bám sát nhu cầu thị trường lao động – việc làm và đi trước, đón đầu các quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương, nhất là những địa bàn có tốc độ đô thị hóa và tốc độ tái cấu trúc kinh tế – xã hội nhanh. Cần có cơ sở pháp lý cho việc hậu kiểm giám sát đánh giá thực hiện chính sách lao động – việc làm qua việc thực hiện chế độ thống kê, báo cáo nghiêm túc.

Thứ sáu là, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các chính sách cấu thành như chính sách tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất, tạo việc làm, chính sách hỗ trợ học nghề, hỗ trợ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ưu tiên cho người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn, khuyến khích và hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số bằng các công cụ tài chính.

Về mặt tổng thế, các giải pháp chính sách lao động – việc làm cần phải phát huy được các nguồn lực của xã hội vào việc tạo việc làm và đảm bảo việc làm. Tăng cường huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp và các tổ chức cho đào tạo nâng cao trình độ người lao động. Vận dụng các công cụ chính sách tài chính ưu đãi bao gồm những giải pháp ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về đào tạo nhân lực chất lượng cao thuộc ngành nghề mũi nhọn để khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo với các hình thức khác nhau như đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã hội. Huy động các nguồn vốn của xã hội để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, tổ chức các loại quỹ khuyến học, khuyến tài cho đào tạo nghề. Những giải pháp chính sách cần được tiến hành đồng bộ và có hiệu quả nhất với sự nỗ lực của toàn xã hội, của toàn hệ thống chính trị trong quá trình thực hiện chính sách lao động – việc làm của nước ta trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động xã hội để phát triển nền kinh tế nước ta, hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. [10, tr.7-10]

1.1.4. Thể chế chính sách việc làm

Môi trường thể chế là tổng hợp các nhân tố pháp lý và những điều kiện tác động đến sự tồn tại và vận động của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế – xã hội nhằm đạt được mục tiêu kinh tế xã hội đặt ra.

Môi trường thể chế chính sách công bao gồm thể chế chính trị, luật pháp, kinh tế, hành chính và bộ máy, đội ngũ cán bộ của nó. Cụ thể hơn, môi trường thể chế chính sách công đó là hệ thống tổng hợp chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý và bộ máy tổ chức quản lý Nhà nước áp dụng trên phạm vi toàn quốc, cùng với tập quán và các quy định thỏa ước của cộng đồng có liên quan trực tiếp/gián tiếp. Trong đó:

(1) Hệ thống luật và chính sách công tác động trực tiếp/gián tiếp nhằm tạo môi trường hành lang pháp lý và các điều kiện thiết yếu của đời sống xã hội;

(2) Hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước làm nhiệm vụ soạn thảo, ban hành, sửa đổi các văn bản pháp quy, thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các luật và chính sách;

(3) Cơ chế quản lý vận hành các hoạt động dựa theo các nguyên lý và quy tắc được tuân thủ của mỗi tổ chức và cá nhân;

(4) Những quy định, nội quy, quy chế và điều lệ của các tổ chức xã hội, tập quán và thỏa ước được hình thành trực tiếp từ cộng đồng.

Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Chính sách việc làm từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Với một môi trường thể chế như vậy, nó chi phối toàn bộ quá trình chính sách công nói chung và chính sách việc làm nói riêng. Môi trường thể chế và chất lượng thể chế không chỉ là yếu tố tự thân tác động, bởi nó còn có tầm ảnh hưởng quyết định đến môi trường kinh tế, xã hội và việc làm, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp và là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả lợi thế quốc gia. Không thể có năng lực cạnh tranh cao, nếu không có một thể chế chất lượng cao và một nền quản trị quốc gia hiện đại.

Trong môi trường thể chế chính sách đã xác lập về quyền lao động và đảm bảo việc làm của người lao động thông qua sự khẳng định của Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và đã được cụ thể hoá trong Bộ luật Lao động đầu tiên ở nước ta, và rộng hơn là việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách hành chính đã tiến lên từng bước. Trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”, cùng với các chính sách phát triển kinh tế, Việt Nam đã ban hành một hệ thống chính sách xã hội hướng vào phục vụ lợi ích và phát triển toàn diện con người, trong đó có các chính sách lao động – việc làm và thu nhập, giáo dục, chăm sóc bảo vệ sức khỏe. Việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động hiện là một trong những ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế – xã hội nước ta.

Tuy nhiên, nhìn chung thể chế luật pháp, chính sách về lĩnh vực lao động -việc làm đưa ra các quy định để thực hiện chỉ thiên về những văn bản mang tính chất hành chính để điều hành. Hơn nữa, những khó khăn cản ngại phải đối mặt trong xây dựng và hoàn thiện cải cách thể chế nhà nước ta do mang đặc điểm của sự chuyển đổi nền kinh tế xã hội từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, hướng đến mục tiêu phát triển một nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng với kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh Việt Nam là một thành viên WTO, thể chế chính sách chưa theo kịp sự phát triển của xã hội và chịu nhiều tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường. Thể chế chính sách việc làm là để thúc đẩy thị trường lao động phát triển nhằm gắn kết giữa cung – cầu lao động, song trong thực tiễn sự gắn kết giữa cung – cầu lao động dường như đang gặp phải tình trạng lúng túng và bị động từ hệ thống các chính sách. Do vậy, sự cần thiết phải có hướng cải cách môi trường thể chế chính sách (thể chế luật pháp, cơ chế chính sách, tổ chức bộ máy) theo hướng làm tốt chức năng kiến tạo phát triển, như: xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của cá nhân mình và đóng góp cho xã hội; môi trường cạnh tranh bình đẳng, kiểm soát chặt chẽ và xoá bỏ độc quyền; bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chính sách đào tạo nguồn nhân lực, quyền tham gia xây dựng chính sách, quyền lựa chọn người đại diện của mình, cũng như tạo động lực cho xã hội phát triển. Nói cách khác, môi trường thể chế chính sách xã hội (bao hàm cả thể chế chính sách việc làm) phải dựa trên nền tảng cốt lõi nhất là coi trọng yếu tố con người và phát huy đến mức cao nhất tiềm năng của con người, bảo đảm các yêu cầu có tính nguyên tắc, đó là: Mọi người có việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống hàng ngày.

Sự đồng bộ về khung khổ thể chế và cơ chế chính sách việc làm trên các khía cạnh là hết sức quan trọng: (1) đảm bảo các quyền lao động và việc làm (cả trực tiếp và gián tiếp), tạo khung khổ cho việc xây dựng và thực hiện các loại hợp đồng và cung cấp đầy đủ thông tin cho các chủ thể; (2) tạo ra sự công khai, minh bạch trong các chính sách và hoạt động của bộ máy công quyền; và (3) tạo điều kiện cho sự tham gia của dân cư vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách việc làm.

Môi trường thể chế việc làm cần phải làm rõ để phân định vai trò nhà nước và vai trò thị trường theo hướng tôn trọng và phát huy mặt tích cực của quy luật thị trường (hình thành đầy đủ các yếu tố thị trường lao động – việc làm). Các chính sách mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra gây ảnh hưởng các vấn đề xã hội như Lao động – việc làm. Cải cách thể chế đi vào tập trung cải thiện các chức năng trong chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó có đóng góp vào cải thiện về chức năng nâng cao giá trị của ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc thúc đẩy đầu tư, việc làm và năng suất trong toàn bộ nền kinh tế mang tính minh bạch và cạnh tranh lành mạnh. Đặc biệt, cải cách môi trường thể chế chính sách phải đi vào ổn định để xác lập môi trường đầu tư – kinh doanh ổn định, cải thiện chi phí giao dịch và thủ tục pháp lý, dỡ bỏ được các rào cản gia nhập thị trường nhằm thu hút và kích thích đầu tư của doanh nghiệp trong và ngoài nước trong tính dài hạn, để mở ra nhiều cơ hội về việc làm bền vững. Đây là cơ sở tạo nên các tác động trực tiếp vào việc giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Cải cách thể chế chính sách việc làm thông qua xây dựng một khung pháp lý phù hợp tác động đối với thị trường lao động, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế. Phát triển đầy đủ yếu tố thị trường lao động thông qua áp dụng phổ biến chế độ hợp đồng lao động trong xã hội, kể cả các đơn vị sự nghiệp công lập và khu vực kinh tế nhà nước. Chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động ổn định cuộc sống cho bản thân, gia đình và không nên lệ thuộc vào hộ khẩu thường trú (bởi đã có luật cư trú rồi). Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, phải bảo đảm được tái sản xuất mở rộng sức lao động và được hình thành theo quy luật của thị trường lao động. Để đạt được sự mong đợi về chính sách việc làm bền vững cao hơn, cần phát triển các chiến lược cải cách môi trường thể chế có chiều sâu trên thực tế sẽ tạo ra sự hưởng ứng mạnh mẽ từ bên cung, tức là các doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn trong nền kinh tế, cả trong và ngoài nước, là cần thiết để tăng việc làm, nó có tác động thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu, tăng trưởng và việc làm.

1.1.5. Các chủ thể chính sách việc làm

Chủ thể chính sách việc làm là hệ thống cơ quan lập, ban hành và thực thi chính sách việc làm thường là Nhà nước, Quốc hội và ủy ban chuyên trách, hệ thống cơ quan hành chính là Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội, Bộ Nội vụ và bộ, ngành liên quan như bộ Giáo dục – Đào tạo, chính quyền địa phương, Sở Nội vụ và Sở Lao động – Thương binh & Xã hội, đội ngũ thực thi chính sách việc làm là cán bộ công chức – viên chức, đặc biệt là cán bộ quản lý công chức Nhà nước và chính quyền các cấp, những người đứng đầu doanh nghiệp Nhà nước.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CUA NGUYEN\TRAN VAN MINH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *