Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa

  1. 1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày 26/3/1975, Thừa Thiên Huế được giải phóng hoàn toàn, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất đất nước, Năm 1976 cả nước có 38 đơn vị hành chính trong đó có tỉnh Bình Trị Thiên. Sau này vào năm 1989 thì chia làm 3 tỉnh Thừa Thiên Huế ,Quảng Bình, Quảng Trị. Thừa Thiên Huế là một tỉnh ven biển Bắc Trung bộ thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền trung, có một số lợi thế về vị trí địa lý, về tài nguyên thiên nhiên, về nguồn lực khoa học và công nghệ, về văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội, thu hút đầu tư. Hiện tỉnh có 9 đơn vị hành chính, gồm thành phố Huế, 6 huyện đồng bằng là Hương Thuỷ, Hương Trà, Quảng Điền, Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc và 2 huyện miền núi là Nam Đông, A Lưới với 98 xã và 47 phường, thị trấn.

Vượt qua những khó khăn sau chiến tranh, Thừa Thiên Huế đã không ngừng nổ lực để bắt kịp nhịp độ phát triển của cả nước, nổ lực vượt qua khó khăn, thử thách, đạt được những thành tự to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng, đưa Thừa Thiên Huế ra khỏi tỉnh nghèo, kém phát triển; Bên cạnh đó, dưới tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự du nhập của những yếu tố văn hóa, tinh thần không phù hợp trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội khiến cho tình hình an ninh trật tự trên địa bàn diễn biến ngày càng phức tạp, ảnh hưởng đến sự ổn định về an ninh, kinh tế – xã hội của tỉnh. Đặc biệt là tội phạm xâm phạm sở hữu nhất là tội LĐCĐTS. Theo số liệu thống kê xét xử từ năm 2015 đến năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy trung bình mỗi năm ngành Tòa án thụ lý bình quân 39,8 vụ án với 48,6 bị cáo bị xét xử về tội LĐCĐTS. Mặc dù số vụ án, số bị can chiếm tỷ lệ không cao so với các địa bàn khác trong cả nước nhưng gây hậu quả nghiêm trọng đến tình hình an ninh, kinh tế và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân.

Nhận thầy tầm quan trọng về vị trí, vai trò của công tác phòng ngừa tội phạm. Hội đồng nhân dân, Ủy Ban nhân dân, các ban ngành, đoàn thể trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa THTP nói chung và tình hình các tội xâm phạm sở hữu cũng như tội LĐCĐTS tài sản nói riêng. Từ đó đã góp phần ổn định tình hình, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các tội xâm phạm sở hữu đặc biệt là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót: Công tác tuyên truyền, công tác phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan chức năng; công tác thông tin, trao đổi tình hình, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm vẩn còn bị động, chưa có chiều sâu … Từ thực tế trên cho thấy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm LĐCĐTS để rút ra những tồn tại hạn chế và từ đó đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa đối với tội LĐCĐTS là vô cùng quan trọng. Chình vì vậy, đề tài “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa” đã được lựa chọn nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học.

  1. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài
  2. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, đánh giá những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở tỉnh Thừa Thiên Huế, luận văn đưa ra dự bào và đóng góp một số giải pháp phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận về tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;

Thứ hai, căn cứ các số liệu thống kê hình sự, đánh giá tình hình, nguyên nhân và điều kiện phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2015 – 2019;

Thứ ba, dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở tỉnh Thừa Thiên Huế và đề xuất các giải pháp phòng ngừa.

  1. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình, nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

– Không gian nghiên cứu là địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

– Thời gian nghiên cứu: Luận văn sử dụng số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của TAND cấp huyện và TAND tỉnh Thừa Thiên Huế đối với các tội xâm phạm sở hữu từ năm 2015 đến 2019.

  1. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng các vấn đề của tội phạm học, vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để giải quyết về tình hình, nguyên nhân và điều kiện, đưa ra giải pháp phòng ngừa phù hợp với đặc thù của tỉnh Thừa Thiên Huế.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu chọn lọc một số vụ án điển hình, phương pháp dự báo, hệ thống hóa, so sánh tổng kết thực tiễn dựa trên chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

  1. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn là công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh thừa Thiên Huế dưới góc độ tội phạm học góp phần làm rõ hơn các đặc điểm tội phạm học của loại tội này trong thực tiễn, từ đó tìm ra các giải pháp phòng ngừa nguyên nhân và điều kiện phạm tội .

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đồng thời có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo liên quan đến chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

  1. 7. Cơ cấu của luận văn

Bố cục luận văn được chia thành 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tình hình, nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Chương 2: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Chương 3: Dự báo tình hình và các giải pháp phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

    1. 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
      1. 1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội phạm là hành vi gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại nhất định cho một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ. Những quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những quan hệ xã hội được xác định trong BLHS như quyền nhân thân, quyền sở hữu.

Về nhóm các tội phạm xâm phạm đến quan hệ sở hữu. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không đưa ra khái niệm hay điều luật cụ thể thế nào là các tội xâm phạm sở hữu. Khái niệm này chỉ có thể hiện trong một số tài liệu, giáo trình của một số trường luật và của các tài liệu khoa học. Theo một số nhà nghiên cứu có thể hiểu “các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi do người có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân”.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa

Thông qua quan hệ sở hữu xác lập ba quyền năng: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Hành vi gây thiệt hại, đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu đó là những hành vi xâm phạm đến các quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản.

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu do vậy khái niệm của nó phải thỏa mãn các đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu đồng thời phải mang trong mình những đặc điểm riêng có, khác biệt để phân biệt với các tội phạm khác thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu.

Tại Điều 174 BLHS năm 2015 quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

Trên cơ sở các nội dung, khái niệm, cách hiều thì có thể tổng hợp khái niệm tội LĐCĐTS như sau: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện bằng thủ đoạn gian dối xâm phạm vào quan hệ sở hữu tài sản của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản”.

1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại tới, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại trong chừng mực nhất định.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì tài sản có thể được hiểu dưới các dạng cụ thể sau: vật (vàng, trang sức, xe ôtô…), tiền, giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu…) và quyền tài sản (bất động sản, …).

Tội LĐCĐTS trực tiếp xâm hại đến quan hệ sở hữu đối với tài sản. Đối tượng tác động của nó là tài sản của người khác có thể là cá nhân, của tổ chức cũng như của nhà nước. Những quan hệ sở hữu đối với tài sản này đều được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Tuy nhiên, quan hệ sở hữu tài sản này phải là quan hệ hợp pháp. Một số có quan hệ sở hữu không hợp pháp thì không được nhà nước bảo vệ nên nó không là khách thể trong tội phạm này.

1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm mà con người có thể nhận thấy được.

Mặt khách quan của tội phạm gồm hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện, hoàn cảnh… thực hiện tội phạm.

– Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hai hành vi này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lừa dối là hành vi có ý nghĩa là để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

+ Hành vi gian dối là việc đưa ra những thông tin không đúng với sự thật bằng các hình thức thủ đoạn khác nhau (đưa ra các thông tin giả như bằng lời nói, các giấy tờ giả mạo, giả danh…) làm cho người chủ tài sản tin đó là sự thật, sau đó người chủ tài sản tự nguyện giao tài sản của mình cho người có hành vi gian dối. Như vậy hành vi gian dối có trước, sau đó mới nhận và chiếm đoạt được tài sản của nạn nhân giao cho.

+ Thông thường tội LĐCĐTS thực hiện hai hành vi gian dối và chiếm đoạt tài sản kế tiếp nhau, nhưng cũng có trường hợp hai hành vi được thực hiện đan xen hoặc lại có khoảng cách về mặt thời gian. Tuy nhiên, trong trường hợp này tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành từ lúc chiếm đoạt được tài sản. Chiếm đoạt được tài sản được xem là chuyển dịch tài sản của người khác một cách bất hợp pháp thành tài sản của mình. Hoăc có thể xem là hành vi tước đoạt quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) của người khác thành của mình.

– Về hậu quả BLHS quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2 triệu đồng trở lên. Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng phải thuộc một trong các trường hợp sau đây thì mới bị coi là tội phạm.

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.

+ Đã bị kết án về các tội xâm phạm sở hữu hoặc tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

Việc định tội LĐCĐTS ngoài việc xác định hậu quả còn đòi hỏi phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, hành vi gian dối là nguyên nhân chủ yếu để quyết định việc chiếm đoạt của người phạm tội.

Thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện, điều kiện, hoàn cảnh… thực hiện tội phạm. Các dấu hiệu này nói chung không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội LĐCĐTS nhưng chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm.

1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội LĐCĐTS được thực hiện dưới lỗi cố ý trực tiếp. Đối với tội phạm này người phạm tội luôn luôn nảy sinh ý định từ trước (ý định chiếm đoạt tài sản) khi thực hiện hành vi gian dối và mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Xem xét yếu tố lỗi cố ý trực tiếp và ý định chiếm đoạt trước hay sau khi thực hiện hành vi có ý nghĩa trong việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định đúng loại tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội từ đó xác định đúng nguyên nhân, điều kiện phòng ngừa có hiệu quả.

1.1.2.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà theo quy định của luật hình sự thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó.

Chủ thể của tội LĐCĐTS theo quy định tại các Điều 174, BLHS năm 2015 được xác định như sau:

Người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi nếu thực hiện hành vi phạm tội quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 174 BLHS.

Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình một cách đúng đắn theo những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội, của pháp luật.

    1. 1.2. Khái niệm, đặc điểm của tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.2.1.1. Khái niệm

Tội phạm học là một ngành khoa học pháp lý – xã hội nghiên cứu nguồn gốc, bản chất, các hình thức biểu hiện và các loại tình hình tội phạm, các quy luật xuất hiện, tồn tại và thay đổi của tình hình tội phạm; các nguyên nhân, điều kiện và cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện đó đến tình hình tội phạm; nhân thân người phạm tội; các biện pháp phòng ngừa và khắc phục tình hình tội phạm xảy ra trong xã hội và những vấn đề khác có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm [49,tr 5]. Như vậy để làm rõ nội dung của luận văn thì ngoài yêu cầu nhận diện được tội LĐCĐTS thì ta cần phải nhận thức được, giải thích thế nào về tình hình tội LĐCĐTS; nguyên nhân và điều kiện của tội LĐCĐTS; phòng ngừa tội LĐCĐTS?

Tình hình tội phạm là một khái niệm cơ bản của tội phạm học, có ý nghĩa nhận thức phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng. Hiện nay các nhà lý luận còn có những quan điểm khác nhau về THTP.

Có quan điểm cho rằng. THTP là hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự có sự thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp, gồm tổng thể thống nhất hữu cơ các tội phạm đã xảy ra và những người đã thực hiện chúng trên phạm vi địa bàn (lãnh thổ) nhất định trong khoảng thời gia nhất định. [30, tr 01]

Trong cuốn “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” GS.TS Nguyễn Xuân Yêm lại đưa ra định nghĩa như sau: “THTP là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định” [53].

Theo quan điểm của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh thì “THTP là một khách thể nghiên cứu cơ bản của tội phạm học và là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng tâm – sinh lý – xã hội tiêu cực, có tính lịch sử và lịch sử cụ thể, pháp lý hình sự và giai cấp, được biểu hiện bằng tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra và các chủ thể thực hiện các hành vi đó trong một đơn vị hành chính – lãnh thổ nhất định và trong một thời gian nhất định.[34, tr 80]

Các quan điểm, định nghĩa trên dù còn khác nhau tuy nhiên đều thừa nhận tình hình tội phạm với tư cách là một hiện tượng xã hội được biểu hiện thông qua các đặc điểm và thông số về lượng và chất của nó. Trên cơ sở kế thừa các quan điểm về THTP, có thể đưa ra khái niệm về tình hình tội phạm LĐCĐTS như sau: “Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hiện tượng pháp luật – xã hội, có thể thay đổi về mặt lịch sử, tiêu cực phổ biến bao gồm tổng thể các tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên một địa phương nhất định trong một giai đoạn nhất định”.

1.2.1.2. Đặc điểm của tình hình các tội LĐCĐTS

Tình hình tội phạm LĐCĐTS là một hiện tượng xã hội. Trước hết đó là một hiện tượng xã hội, chứ không phải là một hiện tượng sinh vật học, vật lý, hóa học, vũ trụ học v.v[49, tr 55]. Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội bởi vì nó tồn tại, có nguyên nhân xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện xã hội và phản ảnh thực trạng xã hội: Tình hình tội phạm sẽ thay đổi và mất đi cùng với sự thay đổi hiện tượng xã hội (kinh tế, chính trị, tâm lý, tư tưởng…). Nó được hình thành từ các hành vi phạm tội của những con người cụ thể chống lại nhà nước và xã hội, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội, phá vỡ những giá trị xã hội. Đó là hệ quả tất yếu của các tác động tiêu cực, biểu hiện ở việc gây ra thiệt hại vật chất và tinh thần cho xã hội.

– Tình hình tội LĐCĐTS là một hiện tượng pháp lý hình sự: BLHS năm 2015 quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự. Tình hình tội LĐCĐTS là các hành vi tiêu cực, gây nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại cho các quan hệ tồn tại trong xã hội, xâm phạm đến các giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội đã có được. Hậu quả ở đây là những tác hại về mọi mặt do chúng gây ra. Tình hình tội LĐCĐTS là một mặt tất yếu của hiện tượng, chứ không phải là một sự kiện riêng biệt và cũng không chỉ đơn thuần là tổng cộng các thiệt hại do từng tội phạm cụ thể gây ra [48, tr57].

– Tình hình tội LĐCĐTS là hiện tượng pháp lý hình sự mang tính lịch sử. Theo quan điểm Mác – Lênin thì mọi hiện tượng trong xã hội và tự nhiên không phải ở trạng thái tĩnh tại, bất biến, mà thường xuyên biến đổi và thay đổi [49, tr55]. Do vậy, tình hình các tội XPSH như là một hiện tượng xã hội có sự thay đổi về mặt lịch sử. Kéo theo đó nên dấu hiệu, đặc điểm của tình hình các tội XPSH cũng thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của hình thái kinh tế – xã hội. Tình hình phạm tội LĐCĐTS cũng không phải là trường hợp ngẫu nhiên, không phải là một tổn số cơ học các tội phạm đã thực hiện mà là một tổng thể thống nhất. Do đó, nếu có sự thay đổi của dấu hiệu, đặc điểm nào đó thì tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của các dấu hiệu, đặc điểm khác của hiện tượng nói chung.

1.2.1.3. Các yếu tố của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Các yếu tố của THTP đó chính là các thông số (chỉ số) về chất và lượng của THTP. Chỉ số về chất của THTP là làm sáng tỏ cơ cấu và tính chất của các tội phạm đã thực hiện. Chỉ số về lượng của THTP là thực trạng và diễn biến của THTP. Các thông số này có mối quan hệ, tác động lẫn nhau thành một thể thống nhất biện chứng. Đó là các yếu tố chung của tình hình tội phạm và để hiểu được THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thì ta cũng phải xuất phát, tìm hiểu, đánh giá dựa trên sự phân tích các chỉ số về lượng (thực trạng, diễn biến), về chất (cơ cấu, tính chất) của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nội dung của các yếu tố này bao gồm:

– Thực trạng (mức độ):

Thực trạng của THTP là chỉ số về lượng đầu tiên và tổng hợp của THTP. Thực trạng của THTP là khái niệm tổng hợp. Tính tổng hợp của các chỉ số này dựa trên nhiều tiểu chỉ số (các chỉ số cấu thành). Dựa trên cách tiếp cận tổng thể mới có thể đánh giá một cách khách quan thực trạng hiện thực của THTP trong đất nước, trong vùng, trong đơn vị lãnh thổ hành chính nhất định hoặc một điểm dân cư cụ thể và trong một thời gian nhất định. THTP có THTP rõ và THTP ẩn. Thực tế rất khó để xem xét các chỉ số ẩn của THTP, thường chúng ta căn cứ vào số liệu tội phạm rõ, đó là số liệu thống kê được.

Do đó để đánh giá mức độ THTP LLĐCĐTS trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ta cần đánh giá định lượng dựa vào các con số thống kê đã được đăng ký và xác định chính xác những người thực hiện tội phạm trong một số nội dung cần so sánh sau:

+ Tỷ trọng các loại tội phạm: Cần quan tâm đến các tiểu chỉ số cụ thể như theo mức độ nghiêm trọng (các tội ít nghiêm trọng, các tội nghiêm trọng, các tội rất nghiêm trọng…); theo chủ thể của tội phạm (nam giới, nữ giới, người dưới 18 tuổi, người không có việc làm, người nước ngoài, …); theo nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu (lừa đảo, trộm cắp, cướp, …); theo hình phạt đã tuyên (tù chung thân, tử hình, dưới 15 năm…); theo thời gian; theo đồng phạm hay riêng lẻ.

+ Sự phân bố của tình hình tội phạm: Xác định các số liệu thống kê theo lãnh thổ hành chính, thành phố, huyện, thị.

– Diễn biến:

Diễn biến của tình hình tội phạm là chỉ số về lượng – chất của tình hình tội phạm. Theo thời gian cả thực trạng của THTP (chỉ số về lượng) lẫn cơ cấu của THTP (chỉ số về chất) đều được thay đổi. Khoảng thời gian tiếp nhận thường là một năm. Để đánh giá những thay đổi của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thì có thể được tính trong vòng 05 năm để thấy được diễn biến của THTP. Số lượng số vụ án, số bị cáo thực hiện tội LĐCĐTS trong các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019 trên địa bàn toàn tỉnh cũng như từng ranh giới hành chính địa phương cụ thể. Việc so sánh số vụ/số bị can đã được thống kê chỉ ra rằng diễn biến của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế tăng hay giảm; thấy được diễn biến của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên từng huyện, thị xã với cường độ khác nhau như thế nào, nhịp độ tăng hay giảm của từng huyện, thị xã.

Ngoài ra cũng cần xem xét diễn biến của THTP thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu để có cái nhìn tổng quát rõ hơn về sự thay đổi cơ cấu của từng loại tội phạm khác nhau.

Để tránh sự cồng kềnh, sự so sánh các chỉ số theo các năm đòi hỏi phải có sự tính toán tương ứng. Do đó, để đơn giản, dễ thấy, dễ hiểu diễn biến của tình hình tội phạm thông thường được thể hiện bằng các chỉ số tương đối, trong các phần trăm được tính toán theo năm đầu tiên, thường được gọi là năm định gốc (cơ sở không thay đổi) hoặc theo năm trước đó (phương thức dây xích, cơ sở thay đổi).

Qua xem xét thực trạng và diễn biến của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giúp ta chứng minh không chỉ những thay đổi tính tích cực hoặc tiêu cực, mà còn về những xu hướng phát triển của THTP và ngay cả những quy luật thay đổi của THTP, mà dựa vào các xu hướng và các quy luật có thể dự báo về sự phát triển của nó trong tương lai gần.

– Cơ cấu:

Cơ cấu của THTP được đo lường trong/bằng tỷ trọng hoặc các phần của các nhóm và các loại tội phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng trong một khoảng thời gian nhất định và ở một lãnh thổ nhất định.

Theo đó để xác định cơ cấu của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần nghiên cứu làm rõ các thông số sau: Thông số phản ánh tỷ trọng giữa số vụ và số người phạm tội LĐCĐTS với tổng số vụ và số người phạm tội nói chung; Tỷ trọng giữa số vụ LĐCĐTS với các tội khác trong nhóm tội xâm phạm sở hữu; tỷ trọng về mức độ xử lý (hình phạt) đối với tội LĐCĐTS trong năm năm qua; Cơ cấu theo độ tuổi người phạm tội; Cơ cấu theo giới tính, học vấn, tái phạm hay không tái phạm…

Việc nghiên cứu, phân tích các chỉ số về cơ cấu của tình hình tội LĐCĐTS chỉ rõ đặc điểm lượng – chất, tính nguy hiểm cho xã hội của tình hình các tội xâm phạm sở hữu. Điều này có ý nghĩa lớn đối với việc xây dựng biện pháp phòng ngừa và tổ chức phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời định hướng cho công tác đấu tranh với các tội phạm này.

– Tính chất:

Tính chất của tình hình tội LĐCĐTS được làm sáng tỏ thông qua mức độ, diễn biến và cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu. Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ mức độ, diễn biến, cơ cấu cho thấy số lượng của các tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội, đặc điểm nhân thân của những người thực hiện… và tỷ trọng của chúng trong tổng số các tội xâm phạm sở hữu.

Tính chất của THTP được thể hiện trong các đánh giá về chất như: Tính nguy hiểm cho xã hội; phương thức, thủ đoạn phạm tội; tính nghiêm trọng/ mức độ nghiêm trọng của tội phạm; tính tái phạm; hậu quả của hành vi mức độ thiệt hại)…

      1. 1.2.2. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.2.2.1. Khái niệm

THTP nói chung và tình hình tội LĐCĐTS nói riêng là một hiện tượng xã hội, nó nảy sinh và tồn tại trong xã hội, do đó nó không thể không chịu sự tác động, chi phối của môi trường xã hội. Đó là môi trường sống, môi trường hình thành nhân cách cá nhân, môi trường làm nảy sinh, tồn tại các loại hành vi của con người trong đó có hành vi phạm tội.

Vì vậy nguyên nhân và điều kiện và điều kiện THTP có những đặc điểm chung sau: Thứ nhất, nguyên nhân và điều kiện THTP là những hiện tượng và quá trình xã hội. Thứ hai, đây là những hiện tượng mang tính tiêu cực luôn thể hiện ở xu thế chống đối, đi ngược lại quá trình vận động phát triển của xã hội. Thứ ba, đây là những hiện tượng phổ biến và tồn tại tương đối ổn định.

Ngoài các đặc điểm chung thì nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tội LĐCĐTS có những đặc điểm khác biệt sau: Đặc điểm cá nhân của người phạm tội và những tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài, trong sự tác động lẫn nhau dẫn đến việc thực hiện hành vi.

Đặc điểm cá nhân người phạm tội đến từ những nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội: Đặc điểm sinh học, giới tính; đặc điểm xã hội, học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình; đặc điểm tâm lý như nhu cầu bản thân, hệ thống các giá trị, quan điểm sống, lối sống, sở thích v.v. Ngoài ra còn nhiều yếu tố như tình huống, hoàn cảnh cụ thể cũng làm phát sinh nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.

Hiện nay các nhà nghiên cứu có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau để tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện của THTP như là. Một số xuất phát từ cách tiếp cận xã hội học lý giải nguyên nhân và điều kiện của THTP như là sản phẩm của sự tác động qua lại của các hiện tượng xã hội tiêu cực, như là mặt trái của quá trình phát triển xã hội và qua đó lý giải nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Cách lý giải nguyên nhân và điều kiện của tội phạm dựa vào quan điểm thần học thì cho rằng tội phạm là hành vi của những cá nhân con người làm sai, làm không đúng xâm hại đến các chuẩn mực giáo lý thần quyền và nguyên nhân của việc đó là do quỹ dữ ám nhập họ, cho nên họ phạm tội và để đấu tranh xử lý nó thì phải trừng trị quỷ dữ để làm cho con người trở về với con người (cái thiện)… Trong các cách nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của THTP thì hiện nay cách nhận thức trên quan điểm triết học Mác – Lênin, dựa vào việc sử dụng các cặp phạm trù triết học, đặc biệt cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả là cách nhận thức khoa học nhất. Việc sử dụng cách tiếp cận triết học cho phép nhà nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của nguyên nhân và điều kiện, không sử dụng cách tiếp cận triết học thì người nghiên cứu không thể lý giải, giải phẩu nguyên nhân và điều kiện với tư cách là một hiện tượng xã hội (đây là yếu tố động), kết quả (hệ quả) của mâu thuẩn xã hội, xung đột xã hội. Đây chính là lý luận triết học nhưng cũng chính là phương pháp luận nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.

– Khi đề cập đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm, mà là hỗ trợ, làm dễ dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân” [49, tr 75].

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa

Đây là những khái niệm về nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung từ đó có thể vận dụng để mà nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của từng nhóm tội phạm cũng như nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể.

Tội phạm học thường phân chi nguyên nhân và điều kiện tội phạm làm ba loại: Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung, nguyên nhân và điều kiện của một nhóm tội phạm; nguyên nhân và điều kiện của một tội phạm cụ thể. Là môt hiện tượng xã hội, tình hình tội phạm bao giờ cũng có có nguyên nhân và điều kiện xã hội riêng của mình. Điều kiện phạm tội là những hiện tượng xã hội tiêu cực nhưng không sinh ra tội phạm mà chỉ là yếu tố xúc tác hỗ trợ, thúc đẩy tình hình tội phạm. Tuy nhiên trên thực tế, phân định rõ đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện của tình hình tội LĐCĐTS là việc rất khó. Trong một số trường hợp phạm tội, một yếu tố nào đó có thể là nguyên nhân, nhưng trong các trường hợp khác, yếu tố đó chỉ là điều kiện phạm tội phạm này là nguyên nhân. Vì vậy sự phân biệt trên lý thuyết giữa nguyên nhân và điều kiện của tội phạm chỉ là tương đối. Yêu cầu đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi phải loại trừ cả cả nguyên nhân và điều kiện tội phạm. Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội LĐCĐTS như sau: “Nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tổng hợp những hiện tượng xã hội tiêu cực mà từ đó trực tiếp hoặc góp phần làm phát sinh tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1.2.2.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện phạm tội

– Căn cứ vào mức độ tác động: Có thể phân chia thành nguyên nhân, điều kiện chủ yếu và nguyên nhân, điều kiện thứ yếu. Nguyên nhân, điều kiện chủ yếu làm phát sinh tình hình tội LĐCĐTS là những yếu tố có vai trò chủ đạo, chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số các yếu tố phát sinh tình hình tội phạm này. Còn nguyên nhân và điều kiện thứ yếu là những yếu tố có vai trò hạn chế, chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng số các yếu tố phát sinh tình hình tội LĐCĐTS.

– Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tội phạm: Có thể phân chia thành nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống; nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội .

Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống là tổng hợp các hiện tượng xã hội tiêu cực hình thành, tồn tại trong môi trường sống của cá nhân có thể tác động, ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ nhất định từ đó làm phát sinh tội LĐCĐTS. Ví dụ như các hành vi lệch chuẩn trong gia đình, ngoài xã hội, nhà trường…Nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội là tổng hợp những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân của họ tác động đến việc phát sinh tội LĐCĐTS.

– Căn cứ lĩnh vực hình thành nguyên nhân, điều kiện phạm tội:

+ Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế – xã hội như nạn thất nghiệp, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, phân tầng xã hội…

+ Nguyên nhân về văn hóa giáo dục như: Trình độ quản lý nhà nước về văn hóa, giáo dục, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn hóa, giáo dục, chính sách hỗ trợ giáo dục, hiện tượng tái mù chữ…

+ Nguyên nhân về chính sách pháp luật như chậm giải quyết những bức xúc xã hội hoặc xử lý chưa nghiêm, chưa kiên quyết triệt để trong đấu tranh với tội phạm có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tình hình tội LĐCĐTS nói riêng, các tội xâm phạm sở hữu nói chung.

1.2.3. Khái niệm, một số nội dung liên quan đến phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.2.3.1. Khái niệm phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

THTP là một hiện tượng tiêu cực nguy hiểm lớn nhất cho xã hội; gây ra cho xã hội thiệt hại lớn trên nhiều mặt kể cả về giá trị vật chất và tinh thần. Chính vì vậy, một trong những yêu cầu cấp bách là phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn hay nói cách khác phải làm tốt công tác phòng ngừa THTP. Phòng ngừa THTP là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng bằng cách đó là làm giảm và dần dần loại bỏ THTP. [49, tr155].

Liên quan đến khái niệm PNTP, các nhà nghiên cứu nhìn chung đều thống nhất, không có sự khác biệt đáng kể về khái niệm phòng ngừa THTP đó là việc sử dụng những biện pháp nhà nước và xã hội tác động vào nguyên nhân và điều kiện của THTP nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ THTP ra khỏi đời sống xã hội.

Qua tham khảo các khái niệm trên kết hợp với khái niệm về LĐCĐTS được trình bày ở phần 1.1.1, tác giả đưa ra khái niệm như sau: “Phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động sử dụng các biện pháp mang tính chất nhà nước và xã hội nhằm tác động vào nguyên nhân và điều kiện của THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm hạn chế, giảm dần và từng bước tiến tới loại trừ THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1.2.3.2. Phân loại các biện pháp phòng ngừa tội phạm

– Căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động: Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm chung (ví dụ: Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế); Các biện pháp phòng ngừa các nhóm tội phạm (ví dụ: Phòng ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế); Các biện pháp phòng ngừa các tội phạm cụ thể (ví dụ: Phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế).

– Căn cứ vào nội dung và tính chất của các biện pháp phòng ngừa tội phạm: Các biện pháp về kinh tế xã hội; Các biện pháp về chính trị tư tưởng (Ví dụ : bình đẳng giới tính, tôn giáo ); Các biện pháp về văn hóa tâm lý; Các biện pháp về tổ chức, quản lý xã hội; Các biện pháp về pháp luật và phát hiện xử lý tội phạm.

– Căn cứ vào đối tượng tác động của các biện pháp phòng ngừa: Các biện pháp phòng ngừa áp dụng chung cho mọi đối tượng trong xã hội: Tuyên truyền giúp đỡ (nâng cao dân trí, dạy nghề …); Các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho đối tượng có nhân thân xấu dễ phạm tội (biện pháp trách nhiệm hình sự); Các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho người đã phạm tội; Các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội.

– Căn cứ vào địa bàn và lĩnh vực cần phòng ngừa tội phạm: Các biện pháp phòng ngừa áp dụng chung trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia; Các biện pháp phòng ngừa áp dụng riêng cho từng địa phương và vùng miền; Các biện pháp phòng ngừa áp dụng riêng cho từng ngành và từng lĩnh vực họat động.

1.2.3.3. Các nguyên tắc phòng ngừa tội phạm

– Nguyên tắc pháp chế: Mọi hoạt động PNTP của các cơ quan nhà nước, tổ chức và của công dân phải dựa trên cơ sở pháp luật. Phải tôn trọng hiến pháp và pháp luật.

– Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa: Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để tất cả các chủ thể có điều kiện tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm. Từ đó mới huy động tổng hợp mọi nguồn lực xã hội, tạo ra sức mạnh nhằm đẩy lùi tội phạm và từng bước loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.

– Nguyên tắc nhân đạo: Đảm bảo quyền con người, coi trọng cả mục đích trừng trị và giáo dục, đề cao tính hướng thiện, tạo điều kiện để con người phát triển.

– Nguyên tắc khoa học và tiến bộ: Khi xây dựng các biện pháp phòng ngừa thì phải được nghiên cứu, đánh giá trên cơ sở cơ sở khoa học. Vận dụng, ứng dụng các thành tựu khoa học trong đời sống vào phòng ngừa tội phạm.

– Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong công tác PNTP: Mỗi chủ thể khi tham gia PNTP phải làm tốt công tác phòng ngừa trong phạm vi từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực mà mình quản lý. Cần tăng cường mối quan hệ phối kết hợp để thực hiện hoạt động PNTP một cách đồng bộ, mang lại hiệu quả cao nhất.

– Nguyên tắc cụ thể hóa trong PNTP: Mỗi địa phương, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực trong PNTP phải đưa ra giải pháp phòng ngừa phù hợp, rõ ràng, chứa đựng tính khả thi trên cơ sở xem xét mối liên hệ với điều kiện đặc thù về PNTP ở từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực.

– Nguyên tắc quốc tế: Trong PNTP thì các nguyên tắc, định hướng, chính sách hình sự, chính sách về PNTP phải phù hợp với xu hướng và điều ước khu vực và thế giới. Không ngừng hợp tác để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, khoa học kỹ thuật trên thế giới và khu vực để PNTP.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *