Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Rừng được xem là lá phổi xanh của thế giới giúp điều hoà khí hậu, cân bằng sinh thái cho môi trường. Việc bảo vệ và phát triển rừng đã trở thành một yêu cầu, nhiệm vụ tất yếu trongsựpháttriển của các quốc gia trước thực trạng môi trường sống của con người đang bị suy giảm nghiêm trọng. Đối với Việt Nam – một nước đang phát triển và đang trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề bảo vệ và phát triển rừng thực sự cấp bách.

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, trong đó Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết làm nền tảng cho việc bảo vệ rừng, trong đó Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Bộ Chính trị về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã quy định: “Chú trọng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và các lĩnh vực có liên quan…”. Trên tinh thần của nghị quyết trên, Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật quản lý và bảo vệ rừng. Đồng thời, Nhà nước ta ban hành Bộ luật hình sự quy định tội hủy hoại rằng, qua đó góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội cũng như góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Theo thống kê, số vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng trên phạm vi cả nước ngày càng tăng, chỉ tính từ năm 2013 đến năm 2017, cả nước đã có hơn 35.000 ha rừng bị chặt phá, hủy hoại trái phép, trung bình mỗi năm từ năm 2013 đến 2017 có hơn 32.500 vụ vi phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng [89, tr.01]. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội phạm hủy hoại rừng đồng thời, đảm bảo thực hiện việc xử lý tội phạm và nâng cao công tác thi hành pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng đang được sự quan tâm rất lớn ở Việt Nam. Đáp ứng nhu cầu đó, BLHS năm 2015 về tội hủy hoại rừng có một số quy định mới, thể hiện sự tiến bộ trong trình độ lập pháp của nước ta, cũng như thể hiện tính phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng nói riêng và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành được 02 năm, do đó việc áp dụng các quy định của pháp luật trong thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng chưa mang lại hiệu quả, đồng thời, các quy định của pháp luật hình sự còn tồn tại sự bất cập, thiếu đồng bộ, và rõ ràng.

Những năm gần đây, mặc dù các cơ quan chức năng ở địa phương đã có nhiều nỗ lực, tuy nhiên công tác bảo vệ rừng vẫn còn gặp nhiều khó khăn.Với diễn biến ngày càng phức tạp, hành vi phạm tội ngày càng tinh vi thì hậu quả của việc hủy hoại rừng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như đời sống của người dân trên địa bàn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, hiểu biết của người dân về tội hủy hoại rừng và tác động của việc hủy hoại rừng đến tình hình kinh tế – xã hội vẫn còn hạn chế, đồng thời các giải pháp phòng ngừa tình hình tội hủy hoại rừng trên địa bàn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam vẫn chưa đạt hiệu quả mong muốn. Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hủy hoại rừng cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam;

– Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hủy hoại rừng trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới;

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu sau:

– Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam;

– Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn năm 2015 đến năm 2019;

– Chỉ ra được những kết quả đạt được; những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng;

– Đưa ra dự báo và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại rừng từ thực tiễn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung: Tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại rừng trong giai đoạn xét xử

– Về địa bàn: Đề tài được thực hiện trong phạm vi huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Về thời gian: Từ năm 2015 đến 2019.

– Về chủ thể: Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung; tội hủy hoại rừng nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như:

– Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đưa ra các định nghĩa; đặc điểm, ý nghĩa và các dấu hiệu pháp lý (CTTP) của tội hủy hoại rừng. Đồng thời, đưa ra các đánh giá về thực tiễn áp dụng PLHS trong hoạt động xét xử tội hủy hoại rừng thông qua định tội danh và quyết định hình phạt để đưa ra các vướng mắc, tồn tại, và đề xuất các giải pháp hoàn thiện PLHS.

– Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp các số liệu về thực trạng áp dụng của tội hủy hoại rừng nhằm đánh giá tình hình xét xử tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn Huyện Nông Sơn giai đoạn năm 2015-2019.

– Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng để phân biệt các quy định về tội hủy hoại rừng với các loại tội phạm khác trong BLHS năm 2015 và các quy định về tội hủy hoại rừng được quy định trong các BLHS qua các thời kỳ;

– Phương pháp nghiên cứu điển hình để đưa ra một số vụ án điển hình, nhằm đánh giá làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định củaphápluật hình sự về tội hủy hoại rừng qua giai đoạn xét xử trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ 2015 – 2019.

– Phương pháp tiếp cận tài liệu để nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội hủy hoại rừng trong các Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ, các bài viết đăng tải trên tạp chí khoa học chuyên ngành Luật, các chuyên khảo về LHS. Đồng thời, tiếp cận tài liệu để thu thập các số liệu về công tác kiểm sát VKSND Huyện Nông Sơn trong các phiên toàn xét xử hình sự, và các bản án xét xử các vụ án hình sự của TAND Huyện Nông Sơn, TAND Tỉnh Quảng Nam về tội hủy hoại rừng giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 để chứng minh cho các đánh giá, phân tích bình luận về thực tiễn áp dụng PLHS.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của khoa học pháp lý hình sự nói chung; lý luận về tội phạm và cấu thành tội phạm nói riêng. Đồng thời, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự hiện hành đối với tội hủy hoại rừng.

Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa như là một tài liệu tham khảo về mặt lý luận và có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các sinh viên, học viên chuyên ngành luật hình sự trên các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về tội hủy hoại rừng được khách quan, công bằng và có căn cứ pháp luật.

7. Cơ cấu của Luận văn

Ngoài phần Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các bảng biểu, Mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, Kết luận, nội dung Luận văn được cấu trúc thành ba chương:

Chương 1. Những vấn đề chung về tội hủy hoại rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam.

Chương 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về tội hủy hoại rừng và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Huyện Nông Sơn, Tỉnh Quảng Nam

Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG THEO

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

    1. 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng

1.1.1. Khái niệm tội hủy hoại rừng

Theo Phùng Ngọc Lan, Hoàng Kim Ngũ: Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. GS.TS Morozov (Liên Bang Nga) đưa ra khái niệm: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong khi quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý [46, tr. 459-520].

Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng tự nhiên và rừng trồng được phân thành 03 loại: Rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Trong đó: Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để cung cấp lâm sản; sản xuất, kinh doanh lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí; cung ứng dịch vụ môi trường rừng [50].

Rừng là nguồn cung lương thực, nhiên liệu, nơi trú ẩn, quần áo và thuốc men cho rất nhiều người. Từ thời xa xưa, con người đã phụ thuộc rất nhiều vào rừng và vai trò của rừng trong việc giữ gìn không khí, đất và nước sạch sẽ là không thể chối bỏ. Để ghi nhận vai trò sinh thái, văn hóa và kinh tế độc đáo của rừng, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) đã chọn ngày 21/3 hằng năm làm Ngày quốc tế về rừng [60]. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) thì rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa môi trường, sinh vật và có vai trò đặc trưng sau:

Thứ nhất, Rừng được ví như lá phổi xanh của trái đất bởi chúng có nhiều cây xanh.Cây xanh trong quá trình quang hợp hấp thụ khí cacbonic và nhả ra khí oxi, đây là nguồn cung cấp phần lớn oxi để đảm bảo sự sống của con người và các loại sinh vật khác trên Trái đất.

Thứ hai, Rừng có tác dụng lọc sạch không khí, giữ lại bụi bẩn và tiêu diệt các vi trùng gây hại trong không khí. Mang đến một không khí trong lành hơn cho con người và các loài sinh vật khác.

Thứ ba, Rừng nơi sinh sống của rất nhiều các loại động thực vật khác nhau, trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Đây là nơi cung cấp nguồn thực phẩm, nguyên liệu quý hiến cho con người, và đặc biệt cũng là nơi lưu trữ của nhiều nguồn gen quý hiếm

Thứ tư, Rừng bảo vệ và ngăn chặn hiện tượng xói mòn đất nguy hiểm.

Bảo vệ rừng là thực hiện việc bảo vệ và kiểm soát một cách có hiệu quả tình trạng suy thoái rừng trên phạm vi cả nuớc, trong đó quy định cụ thể nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khi khai thác sử dụng từng loại rừng [32, tr.05].

Trong nhiều thập kỷ qua, với những nỗ lực không ngừng của Chính phủ Việt Nam và sự hỗ trợ có hiệu quả của cộng đồng Quốc tế, công tác bảo vệ rừng trong các khu rừng phòng hộ, đặc dụng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhận thức về rừng của toàn xã hội được nâng cao, quan điểm đổi mới xã hội hoá được triển khai thực hiện có hiệu quả; hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ngày càng hoàn thiện; chế độ chính sách lâm nghiệp, nhất là chính sách về đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội tham gia vào các hoạt động lâm nghiệp, bảo vệ sinh thái môi trường; cung cấp các dịch vụ môi trường rừng; góp phần vào việc thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Vai trò, trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của các ngành, chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội ngày càng được làm rõ và nâng cao. Nhà nước đã tăng cường đầu tư thông qua nhiều chương trình, dự án đã làm cho công tác bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, ngày càng chuyển biến tích cực.

Như vậy, chúng ta cần phải có những biện pháp cụ thể trong việc quản lý và bảo vệ rừng. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều hành vi hủy hoại rừng đã xảy ra hết sức phức tạp với những thủ đoạn tinh vi, hậu quả của tội phạm gây ra hết sức nặng nề, trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường và đời sống của nhân dân, làm môi trường sống của chúng ta đang ở mức báo động. Do tính nguy hiểm của hành vi này, cho nên trong pháp luật hình sự của các quốc gia trên thế giới đều ban hành quy định pháp luật nhằm nghiêm trị hành vi hủy hoại rừng và áp dụng hình phạt đối với chủ thể thực hiện hành vi đó. Nếu hành vi hủy hoại rừng dù nguy hiểm đến đâu cũng chỉ dừng lại ở việc xử lý kỉ luật, xử phạt hành chính hay trách nhiệm dân sự… mà không truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ không đủ sức răn đe, không tương xứng với tính nguy hiểm của hành vi dẫn đến không phòng ngừa và dần loại bỏ được những hành vi này trong thực tế.

Pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [65, tr.07]. Do vậy, việc quy định tội hủy hoại rừng trong pháp luật hình sự để đấu tranh phòng ngừa và chống hành vi nguy hiểm này là thực sự đúng đắn và cần thiết đáp ứng đòi hỏi cả về mặt lý luận và thực tiễn [47, tr.15].

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì “hủy hoại” có nghĩa là làm cho hư hỏng đi, phá đi, cho tan nát [91, tr. 416]. Theo quy định của pháp luật nước ta thì rừng là một loại tài sản. BLDS năm 2015 định nghĩa tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản [52].Vật là một bộ phận quan trọng của thế giới vật chất, được tồn tại ở mọi trạng thái vật chất khác nhau như rắn; lỏng; khí. Vật được coi tài sản phải là vật hữu hình cảm nhận được bởi giác quan của con người. Vật hữu hình được coi là tài sản khi nó đó đáp ứng được một phần hoặc toàn bộ nhu cầu của con người dưới dạng nhu cầu về tinh thần; hoặc các nhu cầu về vật chất [43, tr.121]. Do đó, để hiểu được hành vi hủy hoại rừng thì cần hiểu thế nào là hành vi hủy hoại tài sản.

Trong khoa học pháp lý, khái niệm tội hủy hoại rừng được các luật gia nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.

Tác giả Lê Thị Phương Minh định nghĩa Tội hủy hoại rừng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS Việt Nam do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm các quan hệ xã hội về bảo vệ rừng của Nhà nước, gây những thiệt hại cho môi trường sinh thái [47, tr.23].

Tác giả Hoàng Văn Vân nhận định tội phạm hủy hoại rừng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện có lỗi, xâm hại tài nguyên rừng làm cho rừng mất hoàn toàn giá trị hoặc làm suy giảm đáng kể giá trị của rừng [87, tr.8].

Dựa vào các định nghĩa trên, có thể đưa ra khái niệm huỷ hoại rừng là hành vi đốt, phá rừng trái phép rừng hoặc có hành vi khác làm cho rừng mất hoàn toàn giá trị hoặc làm cho rừng giảm giá trị đáng kể [66, tr.196].

Tội phạm hủy hoại rừng có thể hiểu: “là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện có lỗi, xâm hại tài nguyên rừng làm cho rừng mất hoàn toàn giá trị hoặc làm suy giảm đáng kể giá trị của rừng”.

1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng

1.1.2.1. Đặc điểm của tội hủy hoại rừng

Từ định nghĩa trên cho thấy tội hủy hoại rừng có các đặc trưng của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự như sau:

Thứ nhất, Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định, bởi nó là thuộc tính và nội dung của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định là tội phạm bởi bản thân nó có tính nguy hiểm [72, tr. 62-64]. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi hủy hoại rừng đó là những hành vi cố ý đốt, phá rừng trái phép hoặc có những hành vi khác làm cho rừng bị hủy hoại, bị hư hỏng. Từ đó dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về mặt môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của rừng, đây là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, không phải hành vi hủy hoại rừng nào cũng được xem là tội phạm, mà hành vi đó phải gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại “đáng kể” cho xã hội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Thứ hai, Tính trái pháp luật hình sự, là hành vi phạm tội trái với quy định của BLHS. Nghĩa là, khi BLHS quy định một hành vi nào đó bị cấm thì người phạm tội thực hiện hành vi đó. Quy định tính trái pháp luật của tội phạm là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm được thống nhất [4, tr.119].

Hành vi hủy hoại rừng là hành vi trái pháp luật hình sự (còn gọi là hành vi “bị luật hình sự cấm”). Chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã hội đáng kể bị luật hình sự cấm – bị nhà làm luật coi là tội phạm và quy định hình phạt đối với việc thực hiện hành vi đó trong pháp luậthình sự thì việc thực hiện một cách có lỗi nó (hành vi) mới bị coi là phạm tội. Có thể hiểu, khi thực hiện hành vi hủy hoại rừng tuy rằng có ảnh hưởng xã hội nhưng chưa quy định trong BLHS thì hành vi này không phải là tội phạm, đồng thời, nếu hành vi hủy hoại rừng được quy định trong BLHS nhưng không phải là hành vi nguy hiểm đáng kểthì cũng không phải là tội phạm.

Thứ ba, Hành vi bị coi là tội phạm bởi vì về nội dung của nó có tính nguy hiểm cho xã hội và nó là tội phạm nên mới chịu hình phạt. Hình phạt là biện pháp xử lý nghiêm khắc của nhà nước, được pháp luật quy định do các cơ quan nhà nước áp dụng đối với người bị xử lý và được thể hiện ở việc tước bỏ, hoặc hạn chế quyền và lợi ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm, bảo đảm cho luật hình sự thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm [75, tr. 155].

Hình phạt là dấu hiệu biểu hiện hệ quả tất yếu của tội phạm, và chỉ có tội phạm mới có thể chịu hình phạt, một hành vi dù là nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải là tội phạm thì không có đặc điểm này. Thực tế có những trường hợp có hành vi phạm tội nhưng không bị áp dụng hình phạt bởi được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt, chứ không phải tội phạm đó không có kèm theo hình phạt được quy định trong BLHS. Do đó, phải nhìn nhận rằng giữa tội phạm và hình phạt có mối liên hệ, hình phạt luôn gắn liền với tội phạm và chỉ có thể áp dụng hình phạt đối với người phạm tội [4, tr. 124-125].

Thứ tư, Tội hủy hoại rừng có thể được thực hiện bởi bất cứ chủ thể nào vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ rừng ngay trong khu vực do họ trồng hoặc được giao quản lý rừng.

Chủ thể của tội phạm bao giờ cũng phải có năng lực TNHS và chứa đựng yếu tố lỗi là thái độ tâm lý đối với hành vi phạm tội hủy hoại rừng do người có năng lực TNHS thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó, được thực hiện dưới hình thức cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp [47, tr.22].

Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

Đối với cá nhân có năng lực TNHS là người ở một độ tuổi nhất định và là người có khả năng nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội và tính chất trái pháp luật của hành vi do mình thực hiện (về lý trí) cũng như điều khiển được hành vi đó (về ý chí) [72, tr. 65-66].

Hành vi phạm tội của pháp nhân do người quản lý, điều hành pháp nhân pháp nhân đó thực hiện. Người quản lý, điều hành của pháp nhân được hiểu thông thường đó là những người đại điện theo pháp luật của pháp nhân như giám đốc, tổng giám đốc [79, tr. 25 – 34]. Quan điểm này xuất phát từ việc áp dụng lý thuyết về đại diện (agency theory). Lý thuyết đại diện đã khẳng định:” công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua con người cụ thể – những người quản lý công ty. Vì vậy, công ty luôn cần có người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình” [29, tr.21-27].

1.1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng

Thứ nhất, Hủy hoại rừng được hiểu là việc một người đã có hành vi đốt, phá rừng trái pháp luật hoặc có các hành vi khác gây thiệt hại cho rừng và thiệt hại về môi trường đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các quy định đó có thể là các quy định cụ thể của các cơ quan pháp luật Nhà nước hay của các cơ quan tổ chức được Nhà nước trao quyền và thông qua công tác tuyên truyền phổ biến đến mọi người dân và buộc phải tuân thủ và thực hiện các quy định đó.

Trên thực tế có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau song một bộ phận người dân đã có những hành vi đốt, chặt phá rừng hoặc có những hành vi khác hủy hoại rừng gây ra những hậu quả ở nhiều mức độ khác nhau từ bị xử phạt hành chính đến bị truy cứu trách nhiệm hình sự [87, tr.13].Nhằm kịp thời ngăn chặn, xử lý cũng như đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng,chống các loại tội phạm hủy hoại rừng thì pháp luật hình sự đã hình sự hóa các hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm và quy định một điều luật riêng biệt tại Điều 243 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổsung năm 2017) là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng [55, tr.82];

Thứ hai, Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, cần có sự trừng trịnghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với những tội phạm hủy hoại rừng, cũng chính vì nguyên do như trên mà chính sách hình sự của nước ta đã hình sự hóa hành vi hủy hoại rừng quy định tại Điều 243 của BLHS năm 2015. Việc quy định tội phạm này có ý nghĩa rất to lớn đối với việc duy trì và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, và là căn cứ để xử lý, trừng trị nghiêm minh những kẻhủy hoại rừng, cũng là hồi chuông cảnh tỉnh đối với những kẻ vi phạm rằng mọihành vi hủy hoại rừng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật và bị xử lý bằng chếtài nặng nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam là chế tài hình sự, chính vì lẽ đó,nó cũng mang ý nghĩa giáo dục, tuyên truyền, ngăn ngừa các hành vi vi phạm gópphần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng.

Xuất phát từ cơ sở lý luận đó, Nhà nước ta đã quy định các hành vi xâm hạiđến tài nguyên rừng là tội phạm hình sự được quy định trong BLHS, để răn đe trấn ápcác hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời góp phần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm [61]. Thông qua đó nhằm duy trì trật tự quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, góp phần cải thiện môi trường sống, bảo vệ nguồntài nguyên rừng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển toàn diện, bền vững.

    1. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của tội hủy hoại rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam

1.2.1. Quy định về tội hủy hoại rừng giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội hủy hoại rừng từ khi thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến khi BLHS đầu tiên được chính thức thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ 01/01/1986. Trong BLHS năm 1985 chưa thể hiện rõ tính cấp bách và tầm quan trọng đặc biệt của việc đấu tranh với các hành vi xâm hại môi trường. Điều này không chỉ thể hiện qua việc BLHS 1985 chưa dành riêng một chương cho các tội phạm về môi trường, mà chỉ quy định tại một Điều 195 “Tội vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng gây hậu quả nghiêm trọng” trong Chương VIII – Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính. Một số tội phạm về môi trường được gộp lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là những tội phạm về môi trường [47, tr.17].

Do đó, ngày 21 tháng 12 năm 1999, tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã thông qua BLHS năm 1999 và được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi là BLHS năm 1999). Đến BLHS năm 1999 chính sách hình sự của Việt Nam trong việc bảo vệ và phát triển rừng có sự đột phá quan trọng với việc xây dựng một chương riêng cho các tội phạm về môi trường (Chương XVII) với 10 tội độc lập. Theo Điều 189 BLHS năm 1999 thì tội hủy hoại rừng được hiểu là hành vi đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm [44, tr.141].

Theo Chánh án Tòa hình sự TANDTC Đinh Văn Quế thì tội huỷ hoại rừng là tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng quy định tại Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985. Do tính chất của hành vi và thiệt hại do hành vi huỷ hoại rừng gây ra nên nhà làm luật quy định hành vi huỷ hoại rừng là tội phạm về môi trường [66, tr.196]. Tội hủy hoại rừng được quy định tại Điều 189 của BLHS năm 1999 là tội xâm phạm đến chế độ quản lý rừng của Nhà nước, xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác cho đời sống xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm này chính là rừng bao gồm: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất. Người phạm tội huỷ hoại rừng có thể thực hiện một hoặc một số hành vi khách quan sau: (i) Đốt rừng; (ii) Phá rừng là chặt phá cây trong rừng hoặc khai thác tài nguyên của rừng không được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép như: khai thác gỗ, khai thác các lâm sản trái phép; (iii) Hành vi khác hủy hoại rừng khác như: dùng hoá chất độc phun hoặc rải xuống đất làm cho cây rừng bị chết khô, thả gia súc vào rừng mới trồng để gia súc phá hoại cây rừng,

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này; nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại rừng thì phải gây hậu quả nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Gây hậu quả nghiêm trọng ở đây được hiểu là hủy hoại từ 2 ha đến dưới 05 ha đối với rừng sản xuất; từ 01 ha đến 5 ha đối với rừng phòng hộ, từ 0,8 ha đến dưới 1,5 ha đối với rừng đặc dụng hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng. Dấu hiệu đã bị xử phạt vi phạm hành chính về mộ trong các hành vi nói trên mà còn vi phạm được hiểu tương tự như các Điều luật nói trên [44, tr.143].

Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật. Người có hành vi huỷ hoại rừng nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu trước đó họ đã bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại rừng mà còn vi phạm. Khi xác định chủ thể của tội phạm này cần chú ý: người được giao trồng rừng, quan lý và chăm sóc rừng (chủ rừng) mà có hành vi huỷ hoại rừng do chính mình trồng, được giao quản lý, chăm sóc thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. đối với người đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm và chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì điều luật không quy định trường hợp “đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Có lẽ đây cũng là vấn đề cần xem xét khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, vì không có lý do gì mà một người chỉ bị xâm phạm hành chính về hành vi huỷ hoại rừng mà còn vi phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn người đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự [78, tr.34-35].

Tội phạm hủy hoại rừng được thực hiện với lỗi cố ý, có nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi hủy hoại rừng của mình, nhận thấy trước hậu quả của hành vi đó hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra và mong muốn hoặc không mong muốn những vẫn có ý thức để cho hậu quả xảy ra.

Điều 189 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) quy định ba khung hình phạt, Khung hình phạt cơ bản ở khoản 1 có mức phạt tiền từ mười hai triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm

Khung 2 có mức phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với mội các trường hợp sau: Có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dung danh nghĩa của cơ quan tổ chức; Hủy hoại diện tích rừng rất lớn. Diện tích rừng rất lớn được hiểu là từ 05 đến dưới 10 ha đối với rừng sản xuất; từ 3 ha đến dưới 5 ha đối với rừng phòng hộ; từ 1.5 ha đến dưới 3 ha đối với rừng đặc dụng; Chặt phá các loại thực vật quý hiếm thuộc danh mục quy định của Chính phủ; Gây hậu quả rất nghiêm trọng được hiểu là gây thiệt hại về tài sản từ 200 đến dưới 500 triệu đồng.

Khung 3 có mức phạt từ từ 07 năm đến 15 năm đối với các trường hợp phạm tội sau đây: Hủy hoại diện tích rừng đặc biệt lớn được hiểu là diện tích rừng từ 10 ha trở lên đối với rừng sản xuất, từ 5ha trở lên đới với rừng phòng hộ, và từ 03 ha trở lên đới với rừng đặc dụng; Hủy hoại rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng được hiểu là gây thiệt hại tài sản từ 500 triệu đồng trở lên

Theo khoản 04 đối với người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 05 đến 50 triệu đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.

1.2.2. Quy định về tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong những năm qua, mặc dù BLHS năm 1999 đã phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần quan trọnggiữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp phápcủa công dân.

Tuy nhiên, sau gần 14 năm thi hành BLHS năm 1999, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt nên BLHS đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập[7]. Theo số liệu thống kê cho thấy, tình hình tội hủy hoại rừng ở Tây Nguyên so với cả nước là đáng báo động. Chỉ riêng các tỉnh Tây Nguyên, tình hình tội hủy hoại rừng đã chiếm 28,8% so với tổng số vụ hủy hoại rừng của cả nước, số người phạm tội chiếm tới 48,1% so với tổng số người phạm tội hủy hoại rừng của cả nước[55, tr.27].

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015. Tuy nhiên, do phát hiện một số vấn đề lỗi kỹ thuật cho nên được tiến hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung; đến ngày 20/6/2017 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV ban hành Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 và sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là BLHS năm 2015).

So với Bộ luật Hình sự 1999 thì Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xây dựng một số điểm mới thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp của nước ta trong tội hủy hoại rừng, cụ thể như:

Thứ nhất, Định khung cơ bản. Khoản 1 Điều 189 BLHS năm 1999 quy định cấu thành cơ bản của tội hủy hoại rừng thuộc hai trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng” và tuy chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. BLHS 1999 chưa quy định như thế nào là tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, tại tiểu mục 3.4, mục 3, Phần IV Thông tư 19/2007 có giải thích cho tình tiết này. Tuy nhiên, việc quy định trong hai văn bản khác nhau và việc quy định giải thích chưa rõ ràng, gây khó khăn cho công tác điều tra – truy tố – xét xử loại tội này. Khắc phục bất cập này, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới dấu hiệu phạm tội theo định khung cơ bản tại Khoản 1 Điều 243 khác biệt hoàn toàn so với quy định tại Khoản 1 Điều 189 BLHS 1999. Điểm đáng chú ý, BLHS năm 2015đã bổ sung mới tình tiết định khung cơ bản tại điểm e Khoản 1 Điều 243 BLHS năm 2015 về các loài thực vật rừng thuộc danh mục loài nhóm IA, nhóm IIA với giá trị thiệt hại cụ thể, tương ứng theo nhóm IA hoặc IIA. Đồng thời, xây dựng điểm g Khoản 1 Điều 243 quy định tình tiết “bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”, so với Khoản 1 Điều 189 BLHS 1999 thì điểm g Khoản 1 Điều BLHS năm 2015 bổ sung mới tình tiết “…hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” bên cạnh tình tiết “bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”, đây là quy định mới phù hợp với thực tiễn, và đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.

Thứ hai, Định khung tăng nặng ở Khoản 2. Khoản2Điều 189 Bộ luật Hình sự 1999 quy định 05 tình tiết định khung tăng nặng, trong đó có 03 tình tiết định khung tăng nặng Bộ luật Hình sự 1999 như “ Huỷ hoại diện tích rừng rất lớn ”, “ Chặt phá các loại thực vật quý hiếm thuộc danh mục quy định của Chính phủ ”, “ Gây hậu quả rất nghiêm trọng ” chưa có giải thích cụ thể, mà phải nghiên cứu tại tiểu mục 3.4, tiểu mục 3.5, mục 3, phần IV Thông tư 19 /2007, nhưng cũng chưa rõ ràng nên gây khó khăn cho hoạt động tiến hành tố tụng trong thực tế. Khoản 2 Điều Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung mới hoàn toàn so với BLHS 1999, theo đó đã xây dựng thêm các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i; đây chính là các tình tiết thuộc các tình tiết “Huỷ hoại diện tích rừng rất lớn”, “Chặt phá các loại thực vật quý hiếm thuộc danh mục quy định của Chính phủ”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” quy định tại Khoản 2 Điều 189 BLHS 1999 nhưng BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn, phù hợp hơn, không còn phụ thuộc vào Thông tư 19/2007theo các căn cứ định tội định khung: “tái phạm nguy hiểm” – lần đầu tiên quy định trong tội hủy hoại rừng; diện tích rừng bị thiệt hại; giá trị lâm sản bị thiệt hại.

Thứ ba, Định khung tăng nặng cao nhất. Khoản 3, Điều 243 Bộ luật Hình sự năm 2015 căn cứ vào diện tích rừng bị thiệt hại,giá trị lâm sản bị thiệt hại và thực vật thuộc danh mục quy định để làm căn cứ định tội theo khung tăng nặng, đây là sửa đổi, bổ sung thể hiện kỹ thuật lập pháp cao của Bộ luật Hình sự 2015, tạo sự thuận lợi trong quá trình áp dụng luật vào thực tiễn.

Thứ tư, Hình phạt chính. Có thể thấy, khung dao động hình phạt tại Điều 189 BLHS 1999 là rất lớn, gây khó khăn cho quá trình áp dụng hình phạt của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong nhiều trường hợp dẫn đến thiếu công bằng cho những người thực hiện hành vi hủy hoại rừng như nhau, nhưng mức hình phạt áp dụng lại khác nhau ở nhiều địa phương.

Thứ năm, Hình phạt bổ sung. Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước được luật quy định, do tòa án nhân danh nhà nước áp dụng bổ sung cho hình phạt chính trong bản án kết tội đối với người phạm tội và được thể hiện ở việc tướcbỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích nhất định của họ nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính và phòng ngừa tội phạm [76, tr.52]. Khoản 4 Điều 189 BLHS 1999 quy định về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội hủy hoại rừng “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm ”. So với BLHS 1999 thì , BLHS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung mới theo hướng tăng mức phạt tiền lên từ “20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”, đây là mức phạt tiền phù hợp, đảm bảo tính răn đe khi tác động vào mặt vật chất của người phạm tội.

Thứ sáu, Bổ sung chủ thể phạm tội mới. BLHS năm 2015 đã quy định nhiều nội dung mới mà BLHS năm 1999 chưa quy định, trong đó có “pháp nhân thương mại”. Đây là một nội dung quan trọng, làm thay đổi cơ bản chính sách hình sự truyền thống, bên cạnh nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự (TNHS), luật hình sự Việt Nam đã đặt ra trách nhiệm hình sự đối với thực thể mà BLHS năm 2015 gọi là “ Pháp nhân thương mại ” trong một số tội. Điều này, đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về xử lý và phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ mới [15, tr. 17-22].

Nghiên cứu so sánh, trách nhiệm hình sự pháp nhân đã được các nước Common Law sáng tạo ra từ khoảng thế kỷ 19 với khởi đầu là trách nhiệm thay thế (vicarious liability) ở Hoa Kỳ và học thuyết đồng nhất hóa (Indentification theory) ở Anh với các tội do luật định (statutory offences) lúc ban đầu, sau đó mở rộng tới các tội có ý định phạm tội (mens rea offences), và được tiếp thu vào BLHS 1950 của Hà Lan rồi lan rộng ra thế giới[14, tr.9-18].Theo Khoản 5, Điều 243 BLHS năm 2015 pháp nhân thương mại phạm tội có thể bị phạt tiền (khi áp dụng hình phạt chính) đến 7.000.000.000 đồng, bị đình chỉ hoạt động có thời hạn đến 03 năm hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại xuất phát từ thực tế trong những năm qua, không ít pháp nhân thương mại đã thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng đặc biệt nghiêm trọng nhưng do BLHS năm 1999 chưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nên việc xử lý gặp nhiều khó khăn và không đạt hiệu quả. Cho nên việc bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại của BLHS năm 2015 đối với tội hủy hoại rừng là bước tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật lập pháp của nước ta [89, tr.22]

    1. 1.3. Phân biệt tội hủy hoại rừng với một số tội phạm khác

1.3.1. Phân biệt tội hủy hoại rừng với tội hủy hoại tài sản

Khi phân biệt tội hủy hoại tài sản và tội hủy hoại rừng, thường phải căn cứ vào một số dấu hiện sau:

Thứ nhất, Khách thể tội hủy hoại rừng là chế độ bảo vệ rừng của Nhà nước. Đối tượng tác động là rừng trồng và rừng tự nhiên bao gồm rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất. Khách thể tội hủy hoại tài sản là xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản. Tội hủy hoại tài sản được quy định tại Điều 178, Chương XVI – Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 2015.

Thứ hai, Chủ thể của tội hủy hoại tài sản là cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đã thực hiện. Tuy nhiên, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 178 BLHS năm 2015.

Chủ thể của tội hủy hoại rừng là tất cả các cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS đối với mọi hành vi được quy định tại Điều 243 BLHS năm 2015 ; tất cả các pháp nhân thương mại phải chịu TNHS khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015 ;

Thứ ba, Mặt khách quan của tội hủy hoại tài sản là làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng không thể khôi phục lại được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn. Hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện như: Đốt cháy, đập phá, dùng thuốc nổ, dùng chất độc, hoá chất hoặc lợi dụng thiên tai để huỷ hoại tài sản.

Mặt khách quan của tội hủy hoại rừng là đốt rừng, phá rừng; hoặc các hành vi khác hủy hoại rừng như: dùng hoá chất độc phun hoặc rải xuống đất làm cho cây rừng bị chết khô, thả gia súc vào rừng mới trồng để gia súc phá hoại cây rừng.

Thứ tư, Hình phạt áp dụng tội hủy hoại tài sản là hình phạt tù, mức phạt cao nhất là 20 năm. Đồng thời, người bị kết án còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như phạt tiền với mức cao nhất là một trăm triệu đồng; hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, làm công việc nhất định;

Hình phạt áp dụng đối với tội hủy hoại rừng phụ thuộc vào chủ thể thực hiện tội phạm. Trường hợp cá nhân thì áp dụng hình phạt tù, mức phạt cao nhất là 15 năm. Đồng thời, người bị kết án bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như phạt tiền với mức cao nhất là một trăm triệu đồng; hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, làm công việc nhất định;

Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thì áp dụng hình phạt tiền với mức cao nhất là bảy tỉ đồng; đình chỉ hoạt động có thời hạn; bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Đồng thời, pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn trong thời hạn nhất định.

1.3.2. Phân biệt tội hủy hoại rừng với tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

Khi phân biệt tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản và tội hủy hoại rừng, thường phải căn cứ vào một số dấu hiện sau:

Thứ nhất, Khách thể tội hủy hoại rừng là chế độ bảo vệ rừng của Nhà nước. Đối tượng tác động là rừng trồng và rừng tự nhiên bao gồm rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất. Do đó, tội hủy hoại rừng được quy định tại Chương XIX – Các tội phạm về môi trường của BLHS năm 2015.

Khách thể của tội vi phạm các quy định về khai thác , bảo vệ rừng và quản lý lâm sản xâm phạm các quy định củanhànướcvềquản lý,bảovệ rừng và quản lýlâmsản. Do đó, tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản được quy định tại Điều 232 Chương XVIII – Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 2015.

Thứ hai, Mặt khách quan của tội hủy hoại rừng là đốt rừng, phá rừng; hoặc các hành vi khác hủy hoại rừng như: dùng hoá chất độc phun hoặc rải xuống đất làm cho cây rừng bị chết khô, thả gia súc vào rừng mới trồng để gia súc phá hoại cây rừng.

Mặt khách quan tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản là các hành vi khai thác trái phép cây rừng; vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép; và vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng.

Thứ ba, Hình phạt áp dụng đối với tội hủy hoại rừng phụ thuộc vào chủ thể thực hiện tội phạm. Trường hợp cá nhân thì áp dụng hình phạt tù, mức phạt cao nhất là 15 năm. Đồng thời, người bị kết án bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như phạt tiền với mức cao nhất là một trăm triệu đồng; hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, làm công việc nhất định. Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thì áp dụng hình phạt tiền với mức cao nhất là bảy tỉ đồng; đình chỉ hoạt động có thời hạn; bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Đồng thời, pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn trong thời hạn nhất định.

Hình phạt được áp dụng tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản phụ thuộc vào chủ thể thực hiện tội phạm. Trường hợp cá nhân thì áp dụng hình phạt tù, mức phạt cao nhất là 10 năm. Đồng thời, người bị kết án bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là phạt tiền với mức phạt cao nhất là năm mươi triệu đồng. Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thì áp dụng hình phạt tiền với mức cao nhất sáu tỉ đồng; đình chỉ hoạt động có thời hạn. Đồng thời, pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn trong thời hạn nhất định.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN/PHAN DUY CONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *