Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Công cuộc đổi mới trên đất nước ta đã đi được chặng đường hơn hai mươi năm, chặng đường đầy cam go, thử thách, đến nay đã đạt những thành quả rất đáng tự hào, bộ mặt đất nước, đời sống nhân dân được đổi thay từng ngày. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã và đang đứng vững trước những thách thức thời đại, dần từng bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với những mặt tích cực công cuộc đổi mới, mở cửa đất nước, những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng xuất hiện, tình hình vi phạm, tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất thủ đoạn ngày càng tinh vi đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến thành quả chung của công cuộc đổi mới đất nước.

Thực tế những năm qua cho thấy, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và tăng cường lónh đạo đối với các cơ quan tư pháp, kiên quyết đấu tranh chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống tội phạm Cướp tài sản nói riêng, qua đó góp phần đảm bảo an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên tình hình tội phạm trong những năm gần đây, đặc biệt là tội Cướp tài sản và cướp giật (gọi chung là phạm xâm phạm sở hữu) vẫn có chiều hướng gia tăng về số vụ, quy mô tổ chức ngày càng cao và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng. Cụ thể tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, ngày 13 tháng 11 năm 2018, trong phần, mục Báo cáo công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật và công tác thi hành án năm 2018 cho thấy một số loại tội phạm tăng như: cướp tài sản tăng 5,1%, giết người tăng 3,9% [39]. Do vậy việc áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng luôn là vấn đề cần thiết đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp của nhà nước ta.

Thành phố Đà Nẵng là một thành phố lớn tại Việt Nam, đồng thời cũng là một trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, giáo dục quan trọng của khu vực Miền Trung và Tây Nguyên. Chính vì thế số lượng người lao động, học sinh, sinh viên di cư về học tập, sinh sống và làm việc tại thành phố ngày càng đông, cùng với sự phát triển của nền kinh tế kéo theo các ngành dịch vụ đi kèm (khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, cầm đồ…) phục vụ nhu cầu của đông đảo nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những người đến học tập, sinh sống làm việc thì cũng có một bộ phận không có công ăn việc làm đến sinh sống làm nảy sinh nhiều vấn đề gây phức tạp cho an ninh trật tự trên địa bàn thành phố. Thực tế trong thời gian qua, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có chiều hướng tăng, phức tạp, đáng chú ý là tội cướp tài sản có chiều hướng phức tạp, số vụ tuy không tăng nhưng tính chất manh động, liều lĩnh gây hoang mang cho quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự xã hội.

Trước tình hình đó việc triển khai và áp dụng có hiệu quả các chủ trương chính sách của cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố Đà Nẵng đối với công tác phòng chống tội phạm là hết sức cấp thiết, và đã đạt những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn chưa có sự đồng thuận triệt để, thực hiện thống nhất có hiệu quả các chủ trương, chính sách, mục tiêu, giải pháp. Vì vậy, kết quả đạt được chưa cao, tính chất mức độ nguy hiểm đối với tội này đang dần tăng. Từ thực tiễn trên, nhằm phân tích, đánh giá, để có cơ sở dự báo, đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội cướp tài sản là một vấn đề cấp thiết. Từ luận giải trên, học viên chọn nghiên cứu đề tài “Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ về mặt lý luận tội cướp tài sản để đóng góp những giải pháp giải quyết các khó khăn trong đấu tranh với tội phạm này trong thực tiễn đấu tranh trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa cơ sở lý luận và phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản.

– Phân tích, đánh giá thực trạng tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.

– Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản và thực trạng áp dụng pháp luật trong phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi không gian: Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.

– Phạm vi thời gian: Trong thời gian 05 năm (2015-2019).

– Phạm vi nội dung: Phân tích thực tiễn đấu trang phòng chống tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với loại tội phạm này.

5. Cơ sở l ý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở l ý luận

Luận văn được sẽ được học viên vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, Lênin – tư tưởng HCM và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời học viên cũng vận dụng lý luận khoa học của các lĩnh vực có liên quan như khoa học LHS và LTTHS…

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện, nghiên cứu vận dụng một số phương pháp cụ thể sau đây: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, quy nạp, diễn giải, chuyên gia… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

– Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng trong Chương I của luận văn, nhằm làm rõ những điểm giống và khác nhau, từ đó phân biệt tội cướp tài sản với một số tội phạm khác.

+ Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong Chương II của luận văn, nhằm làm rõ tình hình tội cướp tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019.

+ Phương pháp tư duy logic, quy nạp, diễn giải, chuyên gia: Các phương pháp này được sử dụng trong Chương III của luận văn, nhằm làm rõ cơ sở đề xuất, dự báo tình hình và qua đó đưa ra một số giải pháp về nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng nói riêng; Nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử loại tội này.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo, học tập cho sinh viên, học viên các trường luật, cán bộ làm công tác thực tiễn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, nghiên cứu khoa học…Các giải pháp được đề xuất trong luận văn có giá trị tham khảo trong quá trình đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm III chương, cụ thể:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản

1.1.1. Khái niệm tội phạm

“Tội phạm” với phương diện là một thuật ngữ pháp lý, được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 như sau:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [36].

Xét về bản chất nội dung chính trị – xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm là hiện tượng xã hội được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt. Nếu nghiên cứu về mặt cấu trúc, tội phạm đều hợp thành bởi bốn yếu tố là chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và khách thể. Để hiểu rõ về khái niệm của tội phạm đã nêu ở trên cần phân tích những đặc điểm (dấu hiệu của tội phạm) như sau:

Tính nguy hiểm cho xã hội: Là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Nguy hiểm cho xã hội, về khách quan có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là căn cứ để phân biệt với hành vi vi phạm khác mà còn là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự được chính xác.

Về tính có lỗi: Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

Tính trái pháp luật: Tính trái pháp luật là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội, là dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội của tội phạm. Việc quy định tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm được thống nhất, bảo đảm cho quyền dân chủ của công dân khỏi bị xâm phạm bởi hành vi xử lý tùy tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội.

Tính phải chịu hình phạt: Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như hai dấu hiệu trên. Do vậy, Điều 8 BLHS 2015 không đề cập dấu hiệu này trong định nghĩa tội phạm. Tính phải chịu hình phạt đi liền với tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính chất này không những chỉ thể hiện ở chỉ hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt mà còn thể hiện ở chỗ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính chịu hình phạt trong từng trường hợp phạm tội cụ thể. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt; không có tội phạm thì cũng không có hình phạt.

Khái niệm về tội phạm được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự Việt Nam. Nội dung của khái niệm tội phạm là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lí khác.

1.1.2. Khái niệm tội Cướp tài sản

Cướp là gì?

Theo từ điển tiếng việt thì Cướp hay cướp tài sản trong luật hình sự là một tội danh chỉ người nào sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng ngay tức khắc vũ lực đối với người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ phạm gây ra vụ cướp gọi là tên cướp. Bạo lực là dấu hiệu phổ biến nhất của bọn cướp, trong trường hợp xảy ra giết người thì tội danh biến thành cướp của giết người. Cướp thường xảy ra ở nơi có nhiều tài sản (dễ bị tấn công) như vùng đô thị thành phố. Nhiều nhất ở những nơi tối tăm, nhiều người ở lễ hội, công viên, siêu thị, bến xe buýt…

Cướp là hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của họ.

Cướp là một trong những hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm mục đích tư lợi cho mình hoặc là đem tặng, cho, biếu, cấp phát… cho những người mà mình quan tâm. Cướp của cải (tài sản) đã xuất hiện ngay từ khi có chế độ tư hữu và xã hội phân chia thành những người giàu và người nghèo.

Cướp là một loại tội phạm chiếm đoạt tài sản nghiêm trọng nhất trong các tội chiếm đoạt tài sản. Nó trực tiếp đe doạ đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần và tài sản của con người. Do vậy, trong Bộ luật hình sự của Việt Nam cũng như của nhiều Nhà nước khác trên thế giới có một hoặc một số điều luật quy định về tội cướp (cướp tài sản Nhà nước – tài sản xã hội chủ nghĩa và cướp tài sản của công dân). Phương thức cướp tài sản thường là sử dụng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) để đè bẹp sự chống cự hoặc làm tê liệt sự phản kháng, chống đối lại của người có tài sản. Đe dọa dùng vũ lực là hành vi của người cướp tài sản đã sử dụng lời nói hoặc cử chỉ hay hành động đe dọa xâm phạm ngay đến tính mạng, sức khỏe và làm tê liệt ngay ý chí chống cự – phản kháng của người có tài sản. Hành vi đe doạ dùng vũ lực ở đây có đặc điểm là ngay tức khắc. Đặc điểm này dùng để chỉ sự khẩn trương, nhanh chóng có thể xảy ra chớp nhoáng ngay về mặt thời gian, đồng thời đặc điểm này còn dùng để chỉ về sự mãnh liệt của sự đe doạ ở mức độ có thể xảy ra ngay lập tức làm cho người bị đe doa tê liệt ý chí chống cự, phản kháng của mình.

Các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là những hành vi mà khi sử dụng đến thì nó có khả năng cản trở được sự phản kháng hay chống đối của người có tài sản, chẳng hạn: hành vi đầu độc bằng thuốc mê hoặc là giam, giữ người để chiếm đoạt tài sản của họ…

Tài sản là gì?

Với tư cách là khách thể quyền sở hữu, đã được Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 xác định như sau: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai [38]

Vật

Vật là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, vật với ý nghĩa vật lý ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).

Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, vật là một bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.

Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển… không được coi là vật. Nhưng nếu đóng vào bình nước, hay được làm nóng, làm lạnh… lại được coi là vật.

Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con ngưòi, vật có thực với tính cách là tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đăc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự.

Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lý cũng được mở rộng.

Ví dụ: Phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật, nhưng bình thường không được coi là vật.

Vật là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả những vật (hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Điều 175 BLDS đã xác định loại tài sản này là: hoa lợi và lợi tức. Đây chính là sự gia tăng của tài sản trong những điều kiện nhất định. Tương tự, tiền và những loại giấy tờ có giá cũng được xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt.

Phân biệt tài sản và hàng hóa

Cần phân biệt tài sản với khái niệm hàng hóa trong khoa học chính trị kinh tế học (là sản phẩm do con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hóa được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên là vật (tài sàn) nhưng không phải hàng hóa vì không gắn với lao động xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diện rộng hơn khái niệm hàng hóa.

Quyền tài sản

Ngoài vật, tiền – tài sản còn được xác định là quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” [38].

Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu nguời khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản. Trên cơ sở quan niệm như vậy, Luật La mã phân loại quyền tài sản (quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà không phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu .Vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài sản.

Điều 115 BLDS 2015 quy định quyền tài sản là quyền trị giá bằng tiền. Theo quy định này, Nhà lập pháp muốn nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ thể đối với một chủ thể khác và quyền này trị giá bằng tiền.

Vậy, theo quy định tài Điều 115 BLDS 2015, thì quyền tài sản là quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ có giá trị bằng một khoản tiền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu người khác chuyển giao giá trị của một vật. Ví dụ quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản chung.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lỷ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu – là không hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kỳ một loại tài sản nào, miễn là pháp luật không cấm lưu thông dân sự.

Mặc dù pháp luật hình sự Việt Nam chưa có Điều luật riêng để quy định về khái niệm hoặc định nghĩa về Tội cướp tài sản. Tuy nhiên trong BLHS 2015 thì Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168, với cấu thành 6 khoản. Trong đó khoản 1 Điều 168 BLHS 2015 là cấu thành cơ bản của Tội cướp tài sản, cụ thể:

Điều 168 BLHS 2015, quy định: Tội cướp tài sản

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm” [36].

Từ những sự phân tích nêu trên và theo quy định của BLHS hiện hành, ta có thể đưa ra khái niệm về tội “Cướp tài sản” như sau: “Tội cướp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công (bị hại) lâm vào vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm tài sản, trực tiếp gây thiệt hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân”.

1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản

1.2.1. Lịch sử hình thành các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội Cướp tài sản, giai đoạn trước năm 1945

Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, đảm bảo giữ vững thành quả của cách mạng, duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi công dân được sống trong một môi trường xã hội lành mạnh.

Do vậy sự hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam nói chung và những quy định của pháp luật hình sự về tội cướp tài sản nói riêng trong lịch sử luôn gắn liền với nhu cầu quản lý xã hội bằng luật và sự quan tâm của chính quyền phong kiến trung ương đối với vấn đề này. Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng rất chú trọng đến ban hành các đạo luật, bộ luật như Bộ Hình thư đời Lý, đời Trần, Bộ Quốc Triều hình luật thời Lê, Bộ Hoàng Việt luật lệ nhà Nguyễn và các văn bản pháp luật hình sự đơn hành như Chiếu, Lệnh của nhà Vua… Như dưới thời vua Lý Thái Tông (năm 1028) ban hành Lệnh xử phạt binh lính cướp của dân, có nội dung vua ra lệnh: “Ai cướp bóc của dân thì chém”. Hay như trong Bộ luật Hồng Đức, năm 1483 thời nhà Lê- tiền Lê (hay còn gọi là Quốc triều hình luật), tại Điều 426 quy định: “Những kẻ cướp thường (ban đêm cầm khí giới giết người lấy của) thủ phạm xử chém, tòng phạm xử giảo, đền tang vật lấy cướp, điền sản bị sung công. Cướp của còn giết người thị bị chém bêu đầu, tòng phạm xử chém, phải nộp bồi nhân mạng và đền tiền tang vật trả gấp đôi, cho khổ chủ. Ai chứa chấp cướp lâu ngày thì xử đồng tội” [18, tr.233] …

Đến giai đoạn thực dân Pháp đô hộ (là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884 khi Pháp ép triều đình Huế chấp nhận sự bảo hộ của Pháp cho đến 1945 khi Pháp mất quyền cai trị ở Đông Dương), đã làm thay đổi sâu sắc pháp luật Việt Nam trên cả ba phương diện: tính chất, nội dung và hình thức pháp luật. Trước đây, hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam không có sự phân chia thành các ngành luật cụ thể mà đều được thể hiện dưới dạng quy phạm của luật hình. Bằng việc ban hành ba Bộ luật hình sự áp dụng trên ba miền Bắc – Trung – Nam, người Pháp đã xác định lại giới hạn của Luật hình sự trong phạm vi điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước bảo hộ với người mà Nhà nước coi là đã thực hiện hành vi phạm tội.

1.2.2. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

Ngay sau khi nước Việt nam dân chủ cộng hòa được thành lập (Ngày 02 tháng 9 năm 1945) nước ta lúc bấy giờ vẫn chưa ban hành được Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Nhà nước cũng đã quan tâm đến việc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, nhằm ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân.

Do hoàn cảnh lịch sử, nên nhiệm vụ trọng tâm lúc bấy giờ tập trung vào việc củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ vừa mới được thành lập, nên việc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng chưa được đặt lên hàng đầu. Tuy được Nhà nước quan tâm, nhưng chủ yếu ở các loại tội phạm xâm hại về an ninh chính trị và các loại tội đặc biệt nghiêm trọng khác như: giết người, hiếp dâm, gián điệp, phản bội tổ quốc … có thể bị tuyên đến án tử hình. Do đó, các qui định của pháp luật hình sự về Cướp tài sản từ năm 1945 đến năm 1954 chủ yếu được qui định trong các sắc luật, mà cụ thể là:

–  Sắc lệnh số 26/SL ngày 25 tháng 2 năm 1946, về các tội phá hoại công sản;

–  Sắc lệnh số 247/SL ngày 15 tháng 6 năm 1946, về âm mưu và hành động phá hoại tài sản của nhà nước, hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước;

– Sắc lệnh số 73/SL ngày 17 tháng 8 năm 1947 và Sắc lệnh số 12/SL ngày 12 tháng 3 năm 1949 quy định trừng trị rất nặng tội trộm cắp vặt, tội trộm cắp tài sản của nhà binh

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (Ngày 07 tháng 5 năm 1954) thực dân pháp bị thất bại trên toàn mặt trận và buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị Giơ-ne -vơ. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền. miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh. Pháp luật thời kỳ này được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm chú trọng, bởi nó là công cụ sắc bén không thể thiếu của chính quyền cách mạng. Do đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý đất nước, trong đó có nhiều văn bản liên quan trong lĩnh vực hình sự quy định về tội Cướp tài sản, cụ thể là:

– Pháp lệnh số 149-LCT này vào ngày 21 tháng 10 năm 1970 về Trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, đã quy định 03 Điều luật về các Tội cướp tài sản sản, gồm:

Điều 4. Tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa.

1. Kẻ nào dùng bạo lực để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Có tổ chức;

c) Dùng vũ khí hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác,

d) Gây thương tích nặng hoặc làm chết người;

đ) Cướp một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.

Điều 5. Tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa.

1. Kẻ nào cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Có tổ chức;

c) Hành hung để tẩu thoát;

Thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.

Điều 9. Tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.

1. Kẻ nào đe doạ dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản xã hội chủ nghĩa nhằm chiếm đoạt tài sản đó thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;

Thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm [Pháp lệnh 149/1970]

Đến năm 1975, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước nhà được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ này, đất nước tạm thời tồn tại hai Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền nam Việt Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng. Tuy nhiên, thời kỳ này vẫn chưa có Bộ luật hình sự chính thức, mà được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, cho nên về cơ bản vẫn chưa có quy định riêng về Tội cướp tài sản.

– Giai đoạn từ năm 1975 đến trước năm 1985:

 Do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử Nước ta vừa giải phóng, nhiệm vụ trọng tâm của Nước ta thời kỳ này chủ yếu tập trung cho việc tái thiết đất nước và củng cố chính quyền cách mạng, nên chưa kịp thời xây dựng Bộ luật hình sự với đúng nghĩa của nó và cũng chưa có các văn bản pháp luật cụ thể để xử lý các tội phạm xâm hại sở hữu nói chung và tội cướp tài sản nói riêng. Vì vậy, pháp luật thời kỳ này vẫn duy trì các qui định của pháp luật trước đây. Đồng thời chủ yếu là áp dụng tiền lệ pháp để xử lý hành vi phạm tội nói chung, phạm tội Cướp tài sản nói riêng. Tuy nhiên giai đoạn này cũng có thể kể đến việc ngày 15 tháng 3 năm 1976 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban Sắc luật số 03-SL/76, quy định về các tội phạm và hình phạt.

1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành

Đến năm 1985, nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển nhất định, đời sống kinh tế của người dân được nâng lên. Tuy nhiên nạn trộm cắp, cướp bóc tài sản của Nhà nước cũng như của công dân có chiều hướng tăng nhanh. Một phần do tác động của kinh tế thị trường cũng như việc du nhập của các băng đảng tội phạm bên ngoài vào. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương phải nhanh chóng ban hành BLHS để có căn cứ xử phạt nghiêm minh. Ngày 27/06/1985 Quốc Hội đã thông qua BLHS 1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây là bộ luật được ban hành trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta được ban hành từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cũng như thể chế hóa chính sách hình sự của Nhà nước ta trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên CNXH. Lần đầu tiên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một bộ luật, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc trong lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta.

Bộ luật hình sự năm 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm sở hữu, chương IV phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”, chương VI phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Việc giành riêng hai chương quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trong thực tiễn cũng như sự cần thiết phải xác lập một cơ sở pháp lý thống nhất để xử lý hành vi phạm tội. Cụ thể là quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 về loại tội phạm trong lĩnh vực xâm phạm sử hữu nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng. Tuy có thể do sự ảnh hưởng của yếu tố lịch sử về công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới nền kinh tế (trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15-18/12/1986), cho nên trong quá trình dự thảo và ban hành Bộ luật hình sự 1985, các nhà làm luật đã quy định nội dung của tội Cướp tài sản và hai Điều luật, về tội Cướp tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 129) và Tội Cướp tài sản công dân (Điều 251), cụ thể là:

Điều 129 BLHS 1985. Tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa

1- Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

a) Có tổ chức;

b) Dùng vũ khí hoặc phương tiện, thủ đoạn nguy hiểm khác;

c) Gây thương tích nặng, gây tổn hại nặng cho sức khoẻ hoặc gây chết người;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

Và Điều 151 BLHS 1985 “Tội cướp tài sản công dân” qui định:

1- Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Có tổ chức;

b) Dùng vũ lực hoặc phương tiện, thủ đoạn nguy hiểm khác;

c) Gây thương tích nặng, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây chết người;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;

đ) Tái phạm nguy hiểm [27]

Việc qui định trong bộ luật hình sự 1985 thành 2 Điều luật riêng về tội Cướp tài sản xã hội chủ nghĩa và Cướp tài sản công dân, trong thời kỳ đổi mới, đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với tội phạm Cướp tài sản nói riêng và tội phạm xâm hại sở hữu nói chung, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm Cướp tài sản bằng pháp luật hình sự được tốt hơn.

Tuy nhiên nhược điểm của các điều luật luật là không mô tả cụ thể hành vi phạm tội. Hiện tượng này cũng rất phổ biến trong Bộ luật hình sự năm 1985, đòi hỏi phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành nếu không sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng luật hình sự vào thực tiễn xét xử, và trên thực tế việc xác định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó vẫn dựa trên quy định của hai Pháp lệnh năm 1970. Hình phạt đối với các tội xâm phạm tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với các tội xâm phạm tài sản của công dân, điều đó thể hiện định hướng xây dựng CNXH, phát huy tính chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Trong bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, BLHS năm 1985 là công cụ sắc bén của Nhà nước, của nhân dân, đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Do sự phát triển của kinh tế xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi cho phù hợp. BLHS năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Các lần sửa đổi này chỉ sửa đổi, bổ sung khung tăng nặng mà không sửa đổi, bổ sung cấu thành cơ bản, chưa khắc phục được thiếu sót trong quy định về mặt khách quan của hành vi phạm tội. Sau hơn mười năm thi hành BLHS và đã qua 4 lần sửa đổi, BLHS năm 1985 đã có những đóng góp đáng kể nhưng đứng trước sự thay đổi lớn lao của nền kinh tế, ngoài khu vực kinh tế nhà nước kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển vượt bậc.

Và đến những năm cuối thập kỷ 90, thế kỷ 20, nền kinh tế nước ta có nhiều biến chuyển tích cực, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh. Điều này kéo theo tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng ngày càng diễn biếp phức tạp. Yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế BLHS lại được đặt ra với nhiệm vụ đó, trong quá trình dự thảo và lấy ý kiến góp ý các nhà làm luật đã xem xét đến việc hợp nhất 2 Điều luật quy định về tội Cướp tài sản tại Điều 129 và Điều 251 BLHS 1985 để hợp nhất thành 1 Điều luật trong BLHS mới. tác giả sẽ nêu và phân tích về tội Cướp tài sản (là tội danh được hợp nhất) được quy định tại Điều 133 BLHS 1999, tại mục 1.1.4 của luận văn.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ DANG DUC CHINH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *