Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo Điều 107, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đây được xem là chức năng, nhiệm vụ hiến định của VKSND. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. [20, tr.3].

Với vị trí và vai trò của mình, VKSND tiến hành các hoạt động TTHS xuyên suốt ngay từ quá trình nhận thông tin tố giác tội phạm cho đến khi bản án, quyết định được thi hành. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố của VKS thể hiện thông qua việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Bên cạnh đó, VKS còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Để đảm bảo việc pháp luật được thực hiện nghiêm minh, đúng đắn, trong trường hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLHS hay BLTTHS, hoặc sau phiên tòa XXST mà phát hiện thấy quá trình TTHS từ khi khởi tố VAHS đến khi truy tố, xét xử có VPPL cả về hình thức và nội dung thì VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp sử dụng quyền KNPT để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định đó. Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một trong những hoạt động quan trọng nhằm thể hiện chức năng của ngành Kiểm sát nhân dân.

Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, tỉnh lỵ của Bình Định là thành phố cảng Quy Nhơn và được xem như cửa ngõ của các tỉnh Tây Nguyên. Đây là nơi xuất phát và là thủ phủ của phong trào nông dân Tây Sơn cuối thế kỷ 18. Ngoài ra Bình Định có bờ biển dài trên 130 km, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh; Bình Định có vị trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc – Nam. Là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất của vùng Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông Bắc Thái Lan thông qua tuyến Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn, Bình Định có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế – xã hội. Thống kê năm 2019, Bình Định có diện tích tự nhiên 6022,6 km², dân số 1.486.465 người, mật độ dân số 389 người/km². Cùng với sự đầu tư phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Định luôn coi trọng công tác cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm hiệu quả, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân tỉnh nhà. Trong đó, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác xét xử, thể hiện cụ thể qua công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định đã có những chuyển biến tích cực, đa số các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ, lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp lý chính xác, tính tranh tụng trong kháng nghị đã được nâng lên. Chính vì lẽ đó, kết quả công tác KNPT đạt hiệu quả cao, số lượng kháng nghị năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ kháng nghị được VKS cấp trên bảo vệ đạt kết quả cao qua từng năm [38, tr.12].

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc KNPT của VKSND tỉnh Bình Định còn nhiều hạn chế. Công tác kiểm sát bản án, biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, kiểm sát các nguồn tài liệu khác thực hiện đạt hiệu quả chưa cao, do đó chưa phát hiện được những vi phạm của cấp sơ thẩm. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ KSV có trình độ nhận thức chưa sâu, chất lượng bản KNPT chưa đạt, nên có nhiều quyết định KNPT của VKS ban hành chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án VKS phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong khi số lượng án sơ thẩm phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn. Công tác KNPT hình sự chưa chưa phát huy được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của ngành KSND trong tiến trình giải quyết VAHS theo TTHS do chưa được quan tâm đúng mức [37, tr.8].

Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác KNPT các VAHS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm luận văn thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Từ những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài, luận văn đã kế thừa một cách có chọn lọc những hạt nhân hợp lý để góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về KNPT hình sự; phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định từ giai đoạn năm 2015 đến năm 2019, nêu lên được những tồn tại, hạn chế của thực trạng đó; luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn Cao học Luật nêu lên một số nhiệm vụ cần phải giải quyết, cụ thể như sau:

– Một là, nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận về KNPT hình sự như khái niệm, đặc điểm, vai trò, thẩm quyền, trình tự thủ tục, hậu quả pháp lý của việc KNPT hình sự.

– Hai là, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của pháp luật TTHS hiện hành quy định về công tác KNPT của VKSND các cấp.

Ba là, tìm hiểu thực trạng hoạt động KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định trong 05 năm từ 2015 đến năm 2019, nêu ra được những kết quả, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, tồn tại của thực trạng trên.

Bốn là, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu đề tài bao gồm: nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng công tác KNPT hình sự, có sự so sánh đối chiếu giữa BLTTHS năm 2003 với BLTTHS năm 2015; Luật tổ chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về nội dung: đề tài nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thực hiện công tác KNPT hình sự.

– Phạm vi về không gian: đề tài nghiên cứu thực trạng công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định dưới góc độ LHS và TTHS trên địa bàn tỉnh Bình Định.

– Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được sử dụng trong luận văn tác giả đã thu thập tại địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, về cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm các phương pháp sau:

– Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích số liệu thống kê, tổng hợp đánh giá thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định tại Chương 2 của luận văn

– Phương pháp thống kê hình sự: được sử dụng để tiến hành thống kê hình sự trên cơ sở báo cáo số liệu của VKND tỉnh Bình Định qua đó làm rõ thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định.

– Phương pháp chuyên gia: được sử dụng thông qua trực tiếp phỏng vấn, trao đổi với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong công tác KNPT các VAHS nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác KNPT của VKSND tỉnh Bình Định.

– Phân tích nghiên cứu điển hình: được sử dụng lựa chọn một số vụ án điển hình được VKSND tỉnh Bình Định KNPT để dùng minh hoạ một số nhiệm vụ của đề tài luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã hệ thống, làm rõ được những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn công tác KNPT hình sự ở tỉnh Bình Định, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới. Ngoài ra, các giải pháp này có thể được áp dụng ở các địa phương khác có đặc điểm tình hình tội phạm, thực trạng công tác tư pháp tương tự. Bên cạnh đó, luận văn còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên, sinh viên trong việc nghiên cứu về KNPT hình sự phục vụ cho công tác, giảng dạy, học tập, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo về LHS.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Lý luận về kháng nghị phúc thẩm và những quy định của pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

1.1. Lý luận về kháng nghị phúc thẩm

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm

1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm

Theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì: “kháng nghị: là bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị” [43, tr.894]; “phúc thẩm: là xét lại những vụ án do Tòa án dưới đưa lên” [43, tr.1087]. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì: “Kháng nghị của VKS là việc VKS khi thực hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực thi hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật, KNPT chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm [39, tr.731].

Từ đó, có thể hiểu kháng nghị là hành vi tố tụng của VKS, thể hiện việc không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, khách quan, công bằng đồng thời khắc phục, sửa chữa những sai sót trong bản án, quyết định của Tòa án [28,tr.342].

Khoa học pháp lý Việt Nam đã đề cập khá thường xuyên kái niệm KNPT hình sự nhưng hiện nay theo quy định trong BLTTHS năm 2015, trong quy định của các văn pháp pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu khoa học vẫn chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất thế nào là KNPT hình sự. Có tác giả cho rằng KNPT là quyền năng pháp lý được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có VPPL nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời [24, tr.65]. Một số khác lại định nghĩa KNPT là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật [42, tr.4].

Theo chúng tôi, qua việc nghiên cứu các quy định hiện hành và các công trình, tài liệu và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các nhà nghiên cứu về TTHS, chúng tôi đưa ra định nghĩa về công tác KNPT hình sự như sau: KNPT hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho Viện KSND thể hiện quan điểm của VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm. Qua đó nhằm bảo đảm việc xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng pháp luật, việc xét xử nghiêm minh, kịp thời, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì kháng nghị của VKS không phải chỉ có trong trình tự phúc thẩm mà còn là căn cứ để xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cụ thể, kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục tái thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm [27, tr.242]. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi nghiên cứu nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về KNPT hình sự.

1.1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự

– KNPT hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho VKSND.

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS đã được quy định tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 và được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì KNPT hình sự là chức năng hiến định quan trọng. Thông qua KNPT, VKS đồng thời thực hiện được chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS” [20, tr.2].

Bên cạnh chức năng thực hành quyền công tố thì VKS còn có nhiệm vụ quan trọng khác trong TTHS, đó là chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó, VKS sẽ kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động TTHS, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS cho đến khi thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, hai chức năng này của VKS được thực hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết một VAHS và thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, nếu phát hiện có những VPPL nghiêm trọng thì VKS có quyền KNPT.

Tại Điều 23 BLTTHS năm 2003, nay là Điều 20 BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS , cụ thể: “VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, quyết định việc buộc tội, phát hiện VPPL nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, VPPL đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [22, tr.9]. Như vậy, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử VAHS, VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, pháp nhân phạm tội; khi kiểm sát việc xét xử VAHS, VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án có VPPL nghiêm trọng.

– Hoạt động KNPT xuất hiện khi VKS nhận thấy có những VPPL nghiêm trọng trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp.

Vấn đề đặt ra ở đây là đánh giá mức độ VPPL của bản án, quyết định như thế nào? Có quan điểm cho rằng, khi đánh giá mức độ vi phạm thì chỉ cần xác định bản án, quyết định có sự VPPL là đã có căn cứ để KNPT. Mặt khác, Điều 32 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSNDTC ngày 18/12/2017 của VKSND tối cao nêu căn cứ để KNPT là có “VPPL”, tức là vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung (BLHS) và vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình thức (BLTTHS).

Tuy nhiên, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ mức độ vi phạm làm căn cứ cho việc KNPT phải là “VPPL nghiêm trọng”. Cụ thể, tại Điều 5 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định VKSND có quyền kháng nghị, kiến nghị. Theo đó, quyền kháng nghị được thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành TTHS có “VPPL nghiêm trọng”, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị; quyền kiến nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có “VPPL ít nghiêm trọng” không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục VPPL và xử lý nghiêm minh người VPPL. Như vậy, không phải đối với VPPL nào trong hoạt động tư pháp VKS cũng ban hành kháng nghị mà kháng nghị của VKS chỉ được ban hành đối với những VPPL nghiêm trọng.

– Đối tượng của KNPT là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

KNPT là một trong những căn cứ để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 330 LTTHS 2015 thì XXPT là một thủ tục TTHS, tính chất của XXPT là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. XXPT góp phần bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót có thể xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tóm lại, khi có đủ hai điều kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm đó sẽ phải được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

– KNPT góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS là chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được bảo đảm.

Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Sau khi vụ án được XXPT thì bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành, không phụ thuộc vào việc bản án, quyết định đó có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Còn giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục “xét lại” bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có VPPL nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (đối với thủ tục giám đốc thẩm) hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó (đối với thủ tục tái thẩm) [13, tr.18].

– VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm do tính chất “xét lại” bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là đặc biệt nên thẩm quyền kháng nghị đã được giới hạn. Theo đó, thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về VKSND tối cao, TAND tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, VKS quân sự trung ương, VKSND cấp cao và TAND cấp cao; thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ có Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng VKS quân sự trung ương và Viện trưởng VKSND cấp cao.

Từ những phân tích trên về đặc điểm của KNPT hình sự có thể thấy, KNPT hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước giao cho VKSND. KNPT hình sự được VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp thực hiện khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án có VPPL nghiêm trọng, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án đó theo trình tự phúc thẩm nhằm kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp dưới, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước.

1.1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm

– Việc quy định và thực hiện hiệu quả công tác KNPT hình sự có ý nghĩa, vai trò lớn góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và bảo đảm pháp chế XHCN được thực thi.

VKSND thực hiện tốt việc áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về công tác KNPT hình sự không những góp phần giải quyết VAHS đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà còn góp phần không nhỏ bảo vệ công lý, quyền con người, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm pháp chế XHCN. Quy định này góp phần quan trọng vào việc thực thi pháp luật XHCN, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS của mình, VKS sẽ phát hiện kịp thời những VPPL nghiêm trọng, từ đó ban hành kháng nghị nói chung và KNPT nói riêng làm căn cứ bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

– Việc quy định và thực hiện quyền KNPT là căn cứ quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm.

XXPT có mục đích là kiểm tra lại tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm và xét xử lại vụ án về mặt nội dung. Từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và của công dân được bảo vệ; những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm được khắc phục, sửa chữa; pháp luật được hướng dẫn, giải thích và áp dụng thống nhất.

Việc thực hiện tốt công tác KNPT hình sự có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Việc phát hiện ra những vi phạm để ban hành kháng nghị và yêu cầu Tòa án xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm sẽ góp phần bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, được áp dụng và thực thi thống nhất. Trong những năm qua, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành nhiều Chỉ thị về tăng cường công tác KNPT hình sự, đã tạo nhiều chuyển biến mới đối với công tác này trong ngành KSND [14, tr.3].

1.1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm

Sự phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem xét và quyết định của Tòa án trong giới hạn XXST, phạm vi và hướng kháng nghị theo quy định của pháp luật với điều kiện KNPT hợp pháp về đối tượng, chủ thể, thời hạn, hình thức và thủ tục kháng nghị được gọi là hiệu lực của KNPT.

Đây chính là những bảo đảm pháp lý rất cần thiết cho việc thực hiện đúng đắn thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay vi phạm về pháp luật trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan THTT nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng. Thông qua hiệu lực của KNPT từ đó tìm ra giải pháp thích hợp để sửa chữa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc giải quyết các VAHS. Chính việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm chính là hình thức hướng dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án phúc thẩm đối với Tòa án sơ thẩm, bảo đảm góp phần nâng cao chất lượng xét xử và phòng ngừa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm và nâng cao hiệu quả tính thống nhất trong việc áp dụng, thi hành pháp luật hình sự và TTHS.

1.1.2. Nhiệm vụ, nội dung của kháng nghị phúc thẩm

1.1.2.1. Nhiệm vụ của kháng nghị phúc thẩm

– Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Toà án.

Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh và triệt để. Nó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, mọi công chức Nhà nước phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trong pháp luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, mọi hành vi VPPL đều phải bị xử lý nghiêm minh. Tính thống nhất của pháp chế XHCN đòi hỏi bộ máy Nhà nước, các địa phương và mọi công dân trong cả nước phải nhận thức và thực hiện giống nhau đối với toàn bộ hệ thống pháp luật đã ban hành. Pháp chế XHCN là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, trong đó mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, nhân viên Nhà nước, nhân viên của các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để. Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật, đảm bảo tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc.

VKS thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, thực hiện quyền kháng nghị nói chung và quyền KNPT hình sự nói riêng để đảm bảo cho hoạt động xét xử nói riêng của Toà án và hoạt động của các cơ quan tư pháp tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, bảo đảm cho mọi sai sót, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý kịp thời. Thông qua thực hiện quyền kháng nghị của mình, VKS thể hiện và bảo vệ quan điểm truy tố của mình, đảm bảo cho mọi hành vi VPPL bị phát hiện, xử lý, không để lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội. Mọi hành vi VPPL đều bị xử lý nghiêm minh và công bằng trong phạm vi cả nước. Đồng thời thông qua việc thực hiện quyền kháng nghị của mình, VKS cũng bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án được công bằng, việc xử lý đối với những loại tội giống nhau, hành vi phạm tội giống nhau tại tất cả mọi vùng miền trong cả nước phải bảo đảm bị trừng trị như nhau, không có sự nhân nhượng, ưu ái hơn cho một nhóm đối tượng hoặc một bộ phận nào đó, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn quốc.

– Thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKS là cơ quan tư pháp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có VPPL thì VKS có quyền KNPT để yêu cầu Toà án xét xử lại vụ án. Thông qua quyền KNPT hình sự của mình, VKS bảo vệ quan điểm truy tố, đồng thời bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tư pháp được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xảy ra oan, sai. Đó chính là căn cứ để Toà án ban hành ra được một bản án chính xác, có căn cứ pháp luật.

Thực hiện tốt công tác KNPT hình sự có vai trò rất lớn trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử.

1.1.2.2. Nội dung của kháng nghị phúc thẩm

– Đối tượng kháng nghị phúc thẩm

Hiện nay, BLTTHS 2015 không quy định đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tại một điều luật nhất định. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 330 Bộ luật TTHS 2015 quy định “Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này”. Căn cứ vào quy định này, có thể thấy được đối tượng của kháng cáo, KNPT gồm: Quyết định tạm đình chỉ vụ án; Quyết định đình chỉ vụ án; Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và Quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS 2015. Như vậy, một bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm khi có đủ hai điều kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

– Thẩm quyền (chủ thể) kháng nghị phúc thẩm

VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Theo Điều 41 BLTTHS thì người có thẩm quyền quyết định việc KNPT hình sự là Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS các cấp. Điều 32 Quy chế số 960/2007/VKSTC-V3 về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS nêu cụ thể là: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện có quyền kháng nghị đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền KNPT đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện, cấp tỉnh; Viện trưởng VKSND tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và XXPT kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh [32, tr.13]. Đối với các VKS phúc thẩm thuộc VKSND tối cao thì theo Điều 32 Quy chế số 960/2007/VKSTC-V3 Viện trưởng VKSND tối cao đã uỷ quyền cho các Viện trưởng VKS XXPT tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh KNPT đối với bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

– Hiệu lực kháng nghị phúc thẩm

Hiệu lực của kháng nghị là bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc thực hiện đúng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay VPPL trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan THTT nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp thích hợp để sửa chữa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc giải quyết vụ án. Việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm chính là hình thức hướng dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án phúc thẩm đối với Tòa án sơ thẩm, bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng, thi hành pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng xét xử và phòng ngừa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm.

– Thời hạn kháng nghị phúc thẩm

Thời hạn KNPT là khoảng thời gian cần thiết theo quy định của pháp luật để VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp thực hiện việc kháng nghị. Thời hạn KNPT tính từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị. Để xác định thời điểm bắt đầu thời hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày được xác định, tùy từng trường hợp ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án, ra quyết định hoặc ngày bản án, quyết định sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết. Để xác định thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày cuối cùng của thời hạn. Trong trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ theo quy định của pháp luật thì thời hạn kháng nghị được kéo dài đến hết ngày làm việc đầu tiên tiếp theo của ngày nghỉ đó.

Sự kết thúc thời hạn kháng nghị có hậu quả là tước bỏ quyền KNPT của VKS, làm cho bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, kháng nghị quá hạn là kháng nghị vô hiệu, trừ trường hợp có lí do chính đáng và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Lý do chính đáng của việc kháng nghị quá hạn là trường hợp do trở ngại khách quan không thể vượt qua, chủ thể của quyền KNPT tuyệt đối không thể thực hiện việc kháng nghị trong thời hạn luật định.

Điều 337 BLTTHS 2015 quy định về thời hạn kháng nghị:

“1. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án.

2. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định” [22, tr.94].

Về thời điểm bắt đầu của thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Toà án cũng được quy định bắt đầu kháng nghị kể từ ngày Toà án ra quyết định mà không phải là kể từ ngày VKS nhận được quyết định. Như vậy, trong trường hợp Toà án gửi các quyết định cho VKS mà thời hạn kháng nghị đã hết hoặc gửi sau thời hạn kháng nghị mà quyết định đó có vi phạm thì VKS cấp dưới không thể thực hiện quyên kháng nghị.

Tương tự như thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với quyết định của Toà án sơ thẩm hiện nay chưa được giải thích một cách đầy đủ và Điều 239 BLTTHS năm 2003 cũng chưa quy định cụ thể cách tính thời điểm bắt đầu cũng như kết thúc của thời hạn kháng nghị. Do vậy, cũng cần có hướng dẫn cụ thể, thống nhất để tránh những quan điểm khác nhau về vấn đề này.

– Thông báo về việc kháng nghị phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 338 BLTTHS năm 2015 thì trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định kháng nghị, VKS phải gửi quyết định kháng nghị kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) cho Tòa án đã XXST, gửi quyết định kháng nghị cho bị cáo và những người liên quan đến kháng nghị. VKS đã kháng nghị phải gửi quyết định kháng nghị cho VKS khác có thẩm quyền kháng nghị.

Người tham gia tố tụng nhận được thông báo về việc kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm. Ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.

– Hậu quả (kết quả của việc kháng nghị phúc thẩm)

Điều 339 BLTTHS năm 2015 quy định rõ những phần của bản án, quyết định của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 363 của Bộ luật này. Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án, quyết định thì toàn bộ bản án, quyết định chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 363 của Bộ luật này [22, tr.96].

Điều 363, BLTTHS năm 2015 quy định trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay là khi bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa.

Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có) cho Tòa áp cấp phúc thẩm trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh có hiệu lực thi hành cho đến khi có quyết định khác thay thế hoặc hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Khoản 3 Điều 453. Khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị).

Căn cứ vào kết quả xét xử tại phiên toà phúc thẩm Toà án có quyền đưa ra một trong các quyết định sau:

a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; b) Sửa bản án sơ thẩm; c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Như vậy, hậu quả pháp lý của KNPT cũng còn phải xét đến cả kết quả xét kháng nghị: nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị mà có đủ các căn cứ pháp lý của kháng nghị và được cấp XXPT chấp nhận kháng nghị, hoặc tại phiên tòa đại diện VKS bổ sung kháng nghị và được Hội đồng xét xử chấp nhận (theo hướng cho lợi cho người bị kết án, cho bị cáo,…theo quy định pháp luật) khi thuộc thẩm quyền của cấp phúc thẩm, thì khi đó việc kháng nghị có thể nói mới có giá trị vì đem lại hậu quả tích cực; ngược lại, nếu kháng nghị không được chấp nhận vì không có hoặc không đủ căn cứ pháp lý, thì dù sao việc kháng nghị đã kéo dài việc xử lý vụ án sẽ gây thiệt hại về thời gian, thiệt hại về vật chất, thiệt hại phi vật chất khi chúng ta xét theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng và quan hệ nhân quả.

– Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị

Theo quy định tại Điều 342 BLTTHS năm 2015 về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị, thì trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, VKS ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; VKS ra quyết định kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải lập văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo cho VKS, bị cáo và những người có liên quan đến kháng nghị biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp VKS rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng nghị khác thì Hội đồng XXPT nhận định về việc rút một phần kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm.

Từ những quy định trên, nhận thấy: Nếu VKS cùng cấp ra kháng nghị, nhưng khi còn trong thời hạn kháng nghị của cấp mình là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, thì khi đó VKS mới có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Nếu VKS cấp trên trực tiếp ra kháng nghị, khi còn trong thời hạn kháng nghị của cấp mình là 30 ngày kể từ ngày tuyên án, thì khi đó VKS mới có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Việc thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo phải đúng trong thời hạn kháng nghị của VKS có thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và nâng cao trách nhiệm của VKS trong hoạt động kiểm sát xét xử, kiểm sát bản án của Tòa án và chất lượng kháng nghị. Khi đã hết thời hạn kháng nghị thì VKS các cấp chỉ có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng có lợi cho bị cáo [27]. Nếu VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp đã ra kháng nghị theo hướng bất lợi cho một bị cáo hoặc một số bị cáo, mà sau đó, trong giai đoạn chuẩn bị XXPT VKS đã ra kháng nghị vẫn có quyền ra quyết định bổ sung kháng nghị theo hướng có lợi hoặc thay đổi kháng nghị từ bất lợi sang hướng có lợi cho một bị cáo hoặc một số bị cáo đó kể cả trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị.

Tại phiên tòa phúc thẩm, KSV của VKS đã kháng nghị hoặc tham gia phiên tòa phúc thẩm do VKS cấp dưới kháng nghị cũng có thể rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị hoặc bổ sung kháng nghị theo hướng có lợi cho một bị cáo hoặc một số bị cáo đó, hoặc thay đổi kháng nghị từ hướng bất lợi sang hướng có lợi cho họ, nhưng việc rút kháng nghị, bổ sung, thay đổi kháng nghị phải được công bố trước khi Hội đồng XXPT nghị án.

Việc rút kháng nghị, thay đổi, bổ sung kháng nghị trước khi XXPT chỉ có thể do người ban hành kháng nghị (Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng) hoặc Viện trưởng (nếu Phó Viện trưởng kháng nghị) có thẩm quyền, thực hiện; còn việc rút kháng nghị, bổ sung, thay đổi kháng nghị tại phiên tòa XXPT sẽ do KSV thực hiện (do diễn biến phiên tòa đặt ra hoặc có sự chỉ đạo của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS có thẩm quyền chỉ đạo).VKS ra quyết định kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị bất cứ giai đoạn nào kể từ khi ban hành kháng nghị đến trước khi Hội đồng XXPT nghị án.

Khoản 2 Điều 342 quy định việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải được lập thành văn bản (quyết định thay đổi, bổ sung hoặc rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị), do người có thẩm quyền của VKS ký (Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được phân công nhiệm vụ) và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Luật cũng quy định khi Tòa án cấp phúc thẩm nhận được quyết định thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị thì phải thông báo cho VKS, bị cáo và những người có liên quan đến kháng nghị biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị đó. Còn việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị tại phiên tòa XXPT thì luật không quy định phải ra văn bản, mà do KSV giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử thực hiện và phải được ghi vào biên bản phiên tòa.

Khoản 3 Điều 342 quy định trường hợp VKS rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Hội đồng XXPT nhận định về việc rút một phần kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm. Quy định này cần chú ý rằng: một bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị VKS cùng cấp kháng nghị một phần hoặc toàn bộ, và cũng bị VKS cấp trên trực tiếp kháng nghị một phần hoặc toàn bộ; do vậy, nếu tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, KSV rút một phần kháng nghị đó của VKS cấp mình và của VKS cấp dưới (chẳng hạn do 2 kháng nghị trùng về nội dung), thì Tòa án cấp phúc thẩm mới đình chỉ phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm; trường hợp 2 kháng nghị có xung đột về một nội dung kháng nghị (như: VKS cấp sơ thẩm kháng nghị giảm hình phạt tù, nhưng VKS cấp trên trực tiếp kháng nghị tăng hình phạt tù đối với bị cáo), nếu KSV rút phần kháng nghị này của VKS cấp sơ thẩm, thì Hội đồng XXPT vẫn phải xét phần kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp.

Theo quy định của BLTTHS, không nói đến nguyên tắc tập trung thống nhất của hệ thống VKSND, thì tại phiên tòa XXPT, người kháng nghị vẫn có quyền ra quyết định định thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị theo quy định của pháp luật TTHS.

Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị đúng luật định đều xảy ra hậu quả pháp lý vì Hội đồng XXPT phải xét đến khi XXPT đối với việc thay đổi, bổ sung kháng nghị hoặc đình chỉ XXPT trong giai đoạn chuẩn bị xét xử khi VKS rút toàn bộ kháng nghị hoặc tại phiên tòa KSV rút toàn bộ kháng nghị (Điều 348 BLTTHS). Nếu KSV rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị không đúng pháp luật, thì HĐXXPT vẫn phải đình chỉ phần rút kháng nghị hoặc đình chỉ việc XXPT và có văn bản kiến nghị lên cấp giám đốc thẩm xem xét để khắc phục sai lầm, vi phạm của bản án sơ thẩm và kiến nghị VKS cùng cấp xem xét việc rút kháng nghị đó. Đối với trường hợp rút kháng nghị: Khi VKS rút kháng nghị thì Tòa án căn cứ quyết định rút kháng nghị để đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày 8-12-2005 thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ khi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, trong trường hợp VKS đã rút một phần hay toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa phúc thẩm nhưng thời hạn kháng nghị vẫn còn thì VKS vẫn có thể tiếp tục kháng nghị lại. Chính vì vậy cần quy định việc ra quyết định đình chỉ XXPT khi đã hết thời hạn kháng nghị.

– Thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm khi có kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân

BLTTHS năm 2003 tại khoản 2 điểm b Điều 250 quy định: Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong trường hợp “Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội” [17, tr.123]. Bản chất của XXPT là không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, chính vì vậy quy định này được sửa đổi cho phù hợp, mặt khác đây là quy định bảo đảm quyền con người hơn so với những quy định trước đó.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo Điều 107, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đây được xem là chức năng, nhiệm vụ hiến định của VKSND. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. [20, tr.3].

Với vị trí và vai trò của mình, VKSND tiến hành các hoạt động TTHS xuyên suốt ngay từ quá trình nhận thông tin tố giác tội phạm cho đến khi bản án, quyết định được thi hành. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố của VKS thể hiện thông qua việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Bên cạnh đó, VKS còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Để đảm bảo việc pháp luật được thực hiện nghiêm minh, đúng đắn, trong trường hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLHS hay BLTTHS, hoặc sau phiên tòa XXST mà phát hiện thấy quá trình TTHS từ khi khởi tố VAHS đến khi truy tố, xét xử có VPPL cả về hình thức và nội dung thì VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp sử dụng quyền KNPT để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định đó. Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một trong những hoạt động quan trọng nhằm thể hiện chức năng của ngành Kiểm sát nhân dân.

Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, tỉnh lỵ của Bình Định là thành phố cảng Quy Nhơn và được xem như cửa ngõ của các tỉnh Tây Nguyên. Đây là nơi xuất phát và là thủ phủ của phong trào nông dân Tây Sơn cuối thế kỷ 18. Ngoài ra Bình Định có bờ biển dài trên 130 km, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh; Bình Định có vị trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc – Nam. Là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất của vùng Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông Bắc Thái Lan thông qua tuyến Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn, Bình Định có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế – xã hội. Thống kê năm 2019, Bình Định có diện tích tự nhiên 6022,6 km², dân số 1.486.465 người, mật độ dân số 389 người/km². Cùng với sự đầu tư phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Định luôn coi trọng công tác cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm hiệu quả, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân tỉnh nhà. Trong đó, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác xét xử, thể hiện cụ thể qua công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định đã có những chuyển biến tích cực, đa số các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ, lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp lý chính xác, tính tranh tụng trong kháng nghị đã được nâng lên. Chính vì lẽ đó, kết quả công tác KNPT đạt hiệu quả cao, số lượng kháng nghị năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ kháng nghị được VKS cấp trên bảo vệ đạt kết quả cao qua từng năm [38, tr.12].

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc KNPT của VKSND tỉnh Bình Định còn nhiều hạn chế. Công tác kiểm sát bản án, biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, kiểm sát các nguồn tài liệu khác thực hiện đạt hiệu quả chưa cao, do đó chưa phát hiện được những vi phạm của cấp sơ thẩm. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ KSV có trình độ nhận thức chưa sâu, chất lượng bản KNPT chưa đạt, nên có nhiều quyết định KNPT của VKS ban hành chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án VKS phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong khi số lượng án sơ thẩm phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn. Công tác KNPT hình sự chưa chưa phát huy được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của ngành KSND trong tiến trình giải quyết VAHS theo TTHS do chưa được quan tâm đúng mức [37, tr.8].

Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác KNPT các VAHS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm luận văn thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến công tác KNPT của VKSND theo pháp luật TTHS Việt Nam, tiêu biểu như:

– Nhóm các công trình nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về công tác KNPT của VKSND theo pháp luật TTHS Việt Nam:

+ GS.TS Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Công an nhân dân;

+ Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Công an nhân dân;

+ Th.S Đinh Văn Quế (2007), Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, Bài viết đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 15;

+ Th.S Ngô Thanh Xuyên (2012), Bàn về khái niệm kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự, Bài viết đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6;

+ Th.S Nguyễn Nông (1994) Hoàn thiện pháp luật về xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/1994;

+ Viện Phúc thẩm 1 – VKSND tối cao (2006), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chuyên đề năm 2006.

Ngoài những công trình nêu trên, liên quan đến lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự của VKSND các cấp còn có những bài viết khá được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân. Những công trình khoa học đã nêu ở trên là nguồn tài liệu quý giá, quan trọng không thể thiếu giúp tác giả nắm vững phần lý luận trong việc thực hiện đề tài luận văn.

– Nhóm những công trình khoa học có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu của luận văn Cao học Luật:

Ngoài các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về công tác KNPT của VKSND theo pháp luật TTHS Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài luận văn, như:

+ Trần Minh Ngọc (2011), Công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;

+ Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;

+ Nguyễn Thị Thu Hà (2016), Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;

+ Phạm Văn Nhàn (2018), Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

+ Trần Thị Quỳnh Anh (2019), Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

Các đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học nêu trên đã nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự của VKSND ở những phương diện khác nhau, lý luận được trình bày rõ ràng, mạch lạc, cụ thể, đã tập trung giải quyết một số vấn đề nhất định trong nghiên cứu và được nghiên cứu số liệu thực tiễn trên những địa bàn, địa phương khác nhau. Có thể đánh giá rằng, những luận văn trên là nguồn tham khảo quan trọng cho tác giả trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn Thạc sĩ Luật học về vấn đề kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, sưu thầm, chưa có công trình, đề tài hay luận văn, luận án nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về KNPT hình sự của VKSND thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bình Định. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm luận văn Thạc sĩ luật học là không bị trùng lắp với các công trình khoa học đã nghiên cứu từ trước, đồng thời đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Từ những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài, luận văn đã kế thừa một cách có chọn lọc những hạt nhân hợp lý để góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về KNPT hình sự; phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định từ giai đoạn năm 2015 đến năm 2019, nêu lên được những tồn tại, hạn chế của thực trạng đó; luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn Cao học Luật nêu lên một số nhiệm vụ cần phải giải quyết, cụ thể như sau:

– Một là, nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận về KNPT hình sự như khái niệm, đặc điểm, vai trò, thẩm quyền, trình tự thủ tục, hậu quả pháp lý của việc KNPT hình sự.

– Hai là, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của pháp luật TTHS hiện hành quy định về công tác KNPT của VKSND các cấp.

Ba là, tìm hiểu thực trạng hoạt động KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định trong 05 năm từ 2015 đến năm 2019, nêu ra được những kết quả, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, tồn tại của thực trạng trên.

Bốn là, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu đề tài bao gồm: nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng công tác KNPT hình sự, có sự so sánh đối chiếu giữa BLTTHS năm 2003 với BLTTHS năm 2015; Luật tổ chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về nội dung: đề tài nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thực hiện công tác KNPT hình sự.

– Phạm vi về không gian: đề tài nghiên cứu thực trạng công tác KNPT hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Bình Định dưới góc độ LHS và TTHS trên địa bàn tỉnh Bình Định.

– Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được sử dụng trong luận văn tác giả đã thu thập tại địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, về cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm các phương pháp sau:

– Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích số liệu thống kê, tổng hợp đánh giá thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định tại Chương 2 của luận văn

– Phương pháp thống kê hình sự: được sử dụng để tiến hành thống kê hình sự trên cơ sở báo cáo số liệu của VKND tỉnh Bình Định qua đó làm rõ thực trạng công tác KNPT trên địa bàn tỉnh Bình Định.

– Phương pháp chuyên gia: được sử dụng thông qua trực tiếp phỏng vấn, trao đổi với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong công tác KNPT các VAHS nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác KNPT của VKSND tỉnh Bình Định.

– Phân tích nghiên cứu điển hình: được sử dụng lựa chọn một số vụ án điển hình được VKSND tỉnh Bình Định KNPT để dùng minh hoạ một số nhiệm vụ của đề tài luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã hệ thống, làm rõ được những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn công tác KNPT hình sự ở tỉnh Bình Định, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác KNPT hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian tới. Ngoài ra, các giải pháp này có thể được áp dụng ở các địa phương khác có đặc điểm tình hình tội phạm, thực trạng công tác tư pháp tương tự. Bên cạnh đó, luận văn còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên, sinh viên trong việc nghiên cứu về KNPT hình sự phục vụ cho công tác, giảng dạy, học tập, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo về LHS.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Lý luận về kháng nghị phúc thẩm và những quy định của pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

1.1. Lý luận về kháng nghị phúc thẩm

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm

1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm

Theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì: “kháng nghị: là bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị” [43, tr.894]; “phúc thẩm: là xét lại những vụ án do Tòa án dưới đưa lên” [43, tr.1087]. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thì: “Kháng nghị của VKS là việc VKS khi thực hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực thi hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật, KNPT chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm [39, tr.731].

Từ đó, có thể hiểu kháng nghị là hành vi tố tụng của VKS, thể hiện việc không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, khách quan, công bằng đồng thời khắc phục, sửa chữa những sai sót trong bản án, quyết định của Tòa án [28,tr.342].

Khoa học pháp lý Việt Nam đã đề cập khá thường xuyên kái niệm KNPT hình sự nhưng hiện nay theo quy định trong BLTTHS năm 2015, trong quy định của các văn pháp pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu khoa học vẫn chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất thế nào là KNPT hình sự. Có tác giả cho rằng KNPT là quyền năng pháp lý được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có VPPL nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời [24, tr.65]. Một số khác lại định nghĩa KNPT là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật [42, tr.4].

Theo chúng tôi, qua việc nghiên cứu các quy định hiện hành và các công trình, tài liệu và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các nhà nghiên cứu về TTHS, chúng tôi đưa ra định nghĩa về công tác KNPT hình sự như sau: KNPT hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho Viện KSND thể hiện quan điểm của VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm. Qua đó nhằm bảo đảm việc xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng pháp luật, việc xét xử nghiêm minh, kịp thời, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì kháng nghị của VKS không phải chỉ có trong trình tự phúc thẩm mà còn là căn cứ để xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cụ thể, kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục tái thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm [27, tr.242]. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi nghiên cứu nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về KNPT hình sự.

1.1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự

– KNPT hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho VKSND.

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS đã được quy định tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 và được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì KNPT hình sự là chức năng hiến định quan trọng. Thông qua KNPT, VKS đồng thời thực hiện được chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Khoản 1 Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS” [20, tr.2].

Bên cạnh chức năng thực hành quyền công tố thì VKS còn có nhiệm vụ quan trọng khác trong TTHS, đó là chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó, VKS sẽ kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động TTHS, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS cho đến khi thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, hai chức năng này của VKS được thực hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết một VAHS và thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, nếu phát hiện có những VPPL nghiêm trọng thì VKS có quyền KNPT.

Tại Điều 23 BLTTHS năm 2003, nay là Điều 20 BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS , cụ thể: “VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, quyết định việc buộc tội, phát hiện VPPL nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, VPPL đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [22, tr.9]. Như vậy, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử VAHS, VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, pháp nhân phạm tội; khi kiểm sát việc xét xử VAHS, VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án có VPPL nghiêm trọng.

– Hoạt động KNPT xuất hiện khi VKS nhận thấy có những VPPL nghiêm trọng trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp.

Vấn đề đặt ra ở đây là đánh giá mức độ VPPL của bản án, quyết định như thế nào? Có quan điểm cho rằng, khi đánh giá mức độ vi phạm thì chỉ cần xác định bản án, quyết định có sự VPPL là đã có căn cứ để KNPT. Mặt khác, Điều 32 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSNDTC ngày 18/12/2017 của VKSND tối cao nêu căn cứ để KNPT là có “VPPL”, tức là vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung (BLHS) và vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình thức (BLTTHS).

Tuy nhiên, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ mức độ vi phạm làm căn cứ cho việc KNPT phải là “VPPL nghiêm trọng”. Cụ thể, tại Điều 5 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định VKSND có quyền kháng nghị, kiến nghị. Theo đó, quyền kháng nghị được thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành TTHS có “VPPL nghiêm trọng”, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị; quyền kiến nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có “VPPL ít nghiêm trọng” không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục VPPL và xử lý nghiêm minh người VPPL. Như vậy, không phải đối với VPPL nào trong hoạt động tư pháp VKS cũng ban hành kháng nghị mà kháng nghị của VKS chỉ được ban hành đối với những VPPL nghiêm trọng.

– Đối tượng của KNPT là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

KNPT là một trong những căn cứ để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 330 LTTHS 2015 thì XXPT là một thủ tục TTHS, tính chất của XXPT là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. XXPT góp phần bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót có thể xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tóm lại, khi có đủ hai điều kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm đó sẽ phải được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

– KNPT góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS là chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được bảo đảm.

Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Sau khi vụ án được XXPT thì bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành, không phụ thuộc vào việc bản án, quyết định đó có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Còn giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục “xét lại” bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có VPPL nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (đối với thủ tục giám đốc thẩm) hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó (đối với thủ tục tái thẩm) [13, tr.18].

– VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm do tính chất “xét lại” bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là đặc biệt nên thẩm quyền kháng nghị đã được giới hạn. Theo đó, thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về VKSND tối cao, TAND tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, VKS quân sự trung ương, VKSND cấp cao và TAND cấp cao; thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ có Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng VKS quân sự trung ương và Viện trưởng VKSND cấp cao.

Từ những phân tích trên về đặc điểm của KNPT hình sự có thể thấy, KNPT hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước giao cho VKSND. KNPT hình sự được VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp thực hiện khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án có VPPL nghiêm trọng, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án đó theo trình tự phúc thẩm nhằm kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp dưới, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước.

1.1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm

– Việc quy định và thực hiện hiệu quả công tác KNPT hình sự có ý nghĩa, vai trò lớn góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và bảo đảm pháp chế XHCN được thực thi.

VKSND thực hiện tốt việc áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về công tác KNPT hình sự không những góp phần giải quyết VAHS đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà còn góp phần không nhỏ bảo vệ công lý, quyền con người, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm pháp chế XHCN. Quy định này góp phần quan trọng vào việc thực thi pháp luật XHCN, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS của mình, VKS sẽ phát hiện kịp thời những VPPL nghiêm trọng, từ đó ban hành kháng nghị nói chung và KNPT nói riêng làm căn cứ bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

– Việc quy định và thực hiện quyền KNPT là căn cứ quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm.

XXPT có mục đích là kiểm tra lại tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm và xét xử lại vụ án về mặt nội dung. Từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và của công dân được bảo vệ; những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm được khắc phục, sửa chữa; pháp luật được hướng dẫn, giải thích và áp dụng thống nhất.

Việc thực hiện tốt công tác KNPT hình sự có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Việc phát hiện ra những vi phạm để ban hành kháng nghị và yêu cầu Tòa án xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm sẽ góp phần bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, được áp dụng và thực thi thống nhất. Trong những năm qua, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành nhiều Chỉ thị về tăng cường công tác KNPT hình sự, đã tạo nhiều chuyển biến mới đối với công tác này trong ngành KSND [14, tr.3].

1.1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm

Sự phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem xét và quyết định của Tòa án trong giới hạn XXST, phạm vi và hướng kháng nghị theo quy định của pháp luật với điều kiện KNPT hợp pháp về đối tượng, chủ thể, thời hạn, hình thức và thủ tục kháng nghị được gọi là hiệu lực của KNPT.

Đây chính là những bảo đảm pháp lý rất cần thiết cho việc thực hiện đúng đắn thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay vi phạm về pháp luật trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan THTT nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng. Thông qua hiệu lực của KNPT từ đó tìm ra giải pháp thích hợp để sửa chữa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc giải quyết các VAHS. Chính việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm chính là hình thức hướng dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án phúc thẩm đối với Tòa án sơ thẩm, bảo đảm góp phần nâng cao chất lượng xét xử và phòng ngừa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm và nâng cao hiệu quả tính thống nhất trong việc áp dụng, thi hành pháp luật hình sự và TTHS.

1.1.2. Nhiệm vụ, nội dung của kháng nghị phúc thẩm

1.1.2.1. Nhiệm vụ của kháng nghị phúc thẩm

– Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Toà án.

Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh và triệt để. Nó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, mọi công chức Nhà nước phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trong pháp luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, mọi hành vi VPPL đều phải bị xử lý nghiêm minh. Tính thống nhất của pháp chế XHCN đòi hỏi bộ máy Nhà nước, các địa phương và mọi công dân trong cả nước phải nhận thức và thực hiện giống nhau đối với toàn bộ hệ thống pháp luật đã ban hành. Pháp chế XHCN là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, trong đó mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, nhân viên Nhà nước, nhân viên của các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để. Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật, đảm bảo tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc.

VKS thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, thực hiện quyền kháng nghị nói chung và quyền KNPT hình sự nói riêng để đảm bảo cho hoạt động xét xử nói riêng của Toà án và hoạt động của các cơ quan tư pháp tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, bảo đảm cho mọi sai sót, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý kịp thời. Thông qua thực hiện quyền kháng nghị của mình, VKS thể hiện và bảo vệ quan điểm truy tố của mình, đảm bảo cho mọi hành vi VPPL bị phát hiện, xử lý, không để lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội. Mọi hành vi VPPL đều bị xử lý nghiêm minh và công bằng trong phạm vi cả nước. Đồng thời thông qua việc thực hiện quyền kháng nghị của mình, VKS cũng bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án được công bằng, việc xử lý đối với những loại tội giống nhau, hành vi phạm tội giống nhau tại tất cả mọi vùng miền trong cả nước phải bảo đảm bị trừng trị như nhau, không có sự nhân nhượng, ưu ái hơn cho một nhóm đối tượng hoặc một bộ phận nào đó, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn quốc.

– Thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKS là cơ quan tư pháp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có VPPL thì VKS có quyền KNPT để yêu cầu Toà án xét xử lại vụ án. Thông qua quyền KNPT hình sự của mình, VKS bảo vệ quan điểm truy tố, đồng thời bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tư pháp được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xảy ra oan, sai. Đó chính là căn cứ để Toà án ban hành ra được một bản án chính xác, có căn cứ pháp luật.

Thực hiện tốt công tác KNPT hình sự có vai trò rất lớn trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử.

1.1.2.2. Nội dung của kháng nghị phúc thẩm

– Đối tượng kháng nghị phúc thẩm

Hiện nay, BLTTHS 2015 không quy định đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tại một điều luật nhất định. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 330 Bộ luật TTHS 2015 quy định “Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này”. Căn cứ vào quy định này, có thể thấy được đối tượng của kháng cáo, KNPT gồm: Quyết định tạm đình chỉ vụ án; Quyết định đình chỉ vụ án; Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và Quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS 2015. Như vậy, một bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm khi có đủ hai điều kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

– Thẩm quyền (chủ thể) kháng nghị phúc thẩm

VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Theo Điều 41 BLTTHS thì người có thẩm quyền quyết định việc KNPT hình sự là Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS các cấp. Điều 32 Quy chế số 960/2007/VKSTC-V3 về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS nêu cụ thể là: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện có quyền kháng nghị đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền KNPT đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện, cấp tỉnh; Viện trưởng VKSND tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và XXPT kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh [32, tr.13]. Đối với các VKS phúc thẩm thuộc VKSND tối cao thì theo Điều 32 Quy chế số 960/2007/VKSTC-V3 Viện trưởng VKSND tối cao đã uỷ quyền cho các Viện trưởng VKS XXPT tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh KNPT đối với bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

– Hiệu lực kháng nghị phúc thẩm

Hiệu lực của kháng nghị là bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc thực hiện đúng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay VPPL trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan THTT nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp thích hợp để sửa chữa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc giải quyết vụ án. Việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm chính là hình thức hướng dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án phúc thẩm đối với Tòa án sơ thẩm, bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng, thi hành pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng xét xử và phòng ngừa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm.

– Thời hạn kháng nghị phúc thẩm

Thời hạn KNPT là khoảng thời gian cần thiết theo quy định của pháp luật để VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp thực hiện việc kháng nghị. Thời hạn KNPT tính từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị. Để xác định thời điểm bắt đầu thời hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày được xác định, tùy từng trường hợp ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án, ra quyết định hoặc ngày bản án, quyết định sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết. Để xác định thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày cuối cùng của thời hạn. Trong trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ theo quy định của pháp luật thì thời hạn kháng nghị được kéo dài đến hết ngày làm việc đầu tiên tiếp theo của ngày nghỉ đó.

Sự kết thúc thời hạn kháng nghị có hậu quả là tước bỏ quyền KNPT của VKS, làm cho bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, kháng nghị quá hạn là kháng nghị vô hiệu, trừ trường hợp có lí do chính đáng và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Lý do chính đáng của việc kháng nghị quá hạn là trường hợp do trở ngại khách quan không thể vượt qua, chủ thể của quyền KNPT tuyệt đối không thể thực hiện việc kháng nghị trong thời hạn luật định.

Điều 337 BLTTHS 2015 quy định về thời hạn kháng nghị:

“1. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án.

2. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định” [22, tr.94].

Về thời điểm bắt đầu của thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Toà án cũng được quy định bắt đầu kháng nghị kể từ ngày Toà án ra quyết định mà không phải là kể từ ngày VKS nhận được quyết định. Như vậy, trong trường hợp Toà án gửi các quyết định cho VKS mà thời hạn kháng nghị đã hết hoặc gửi sau thời hạn kháng nghị mà quyết định đó có vi phạm thì VKS cấp dưới không thể thực hiện quyên kháng nghị.

Tương tự như thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với quyết định của Toà án sơ thẩm hiện nay chưa được giải thích một cách đầy đủ và Điều 239 BLTTHS năm 2003 cũng chưa quy định cụ thể cách tính thời điểm bắt đầu cũng như kết thúc của thời hạn kháng nghị. Do vậy, cũng cần có hướng dẫn cụ thể, thống nhất để tránh những quan điểm khác nhau về vấn đề này.

– Thông báo về việc kháng nghị phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 338 BLTTHS năm 2015 thì trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định kháng nghị, VKS phải gửi quyết định kháng nghị kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) cho Tòa án đã XXST, gửi quyết định kháng nghị cho bị cáo và những người liên quan đến kháng nghị. VKS đã kháng nghị phải gửi quyết định kháng nghị cho VKS khác có thẩm quyền kháng nghị.

Người tham gia tố tụng nhận được thông báo về việc kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm. Ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.

– Hậu quả (kết quả của việc kháng nghị phúc thẩm)

Điều 339 BLTTHS năm 2015 quy định rõ những phần của bản án, quyết định của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 363 của Bộ luật này. Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án, quyết định thì toàn bộ bản án, quyết định chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 363 của Bộ luật này [22, tr.96].

Điều 363, BLTTHS năm 2015 quy định trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay là khi bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa.

Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có) cho Tòa áp cấp phúc thẩm trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh có hiệu lực thi hành cho đến khi có quyết định khác thay thế hoặc hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Khoản 3 Điều 453. Khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị).

Căn cứ vào kết quả xét xử tại phiên toà phúc thẩm Toà án có quyền đưa ra một trong các quyết định sau:

a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; b) Sửa bản án sơ thẩm; c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Như vậy, hậu quả pháp lý của KNPT cũng còn phải xét đến cả kết quả xét kháng nghị: nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị mà có đủ các căn cứ pháp lý của kháng nghị và được cấp XXPT chấp nhận kháng nghị, hoặc tại phiên tòa đại diện VKS bổ sung kháng nghị và được Hội đồng xét xử chấp nhận (theo hướng cho lợi cho người bị kết án, cho bị cáo,…theo quy định pháp luật) khi thuộc thẩm quyền của cấp phúc thẩm, thì khi đó việc kháng nghị có thể nói mới có giá trị vì đem lại hậu quả tích cực; ngược lại, nếu kháng nghị không được chấp nhận vì không có hoặc không đủ căn cứ pháp lý, thì dù sao việc kháng nghị đã kéo dài việc xử lý vụ án sẽ gây thiệt hại về thời gian, thiệt hại về vật chất, thiệt hại phi vật chất khi chúng ta xét theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng và quan hệ nhân quả.

– Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị

Theo quy định tại Điều 342 BLTTHS năm 2015 về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị, thì trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, VKS ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; VKS ra quyết định kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải lập văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo cho VKS, bị cáo và những người có liên quan đến kháng nghị biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp VKS rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng nghị khác thì Hội đồng XXPT nhận định về việc rút một phần kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm.

Từ những quy định trên, nhận thấy: Nếu VKS cùng cấp ra kháng nghị, nhưng khi còn trong thời hạn kháng nghị của cấp mình là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, thì khi đó VKS mới có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Nếu VKS cấp trên trực tiếp ra kháng nghị, khi còn trong thời hạn kháng nghị của cấp mình là 30 ngày kể từ ngày tuyên án, thì khi đó VKS mới có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Việc thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo phải đúng trong thời hạn kháng nghị của VKS có thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và nâng cao trách nhiệm của VKS trong hoạt động kiểm sát xét xử, kiểm sát bản án của Tòa án và chất lượng kháng nghị. Khi đã hết thời hạn kháng nghị thì VKS các cấp chỉ có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng có lợi cho bị cáo [27]. Nếu VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp đã ra kháng nghị theo hướng bất lợi cho một bị cáo hoặc một số bị cáo, mà sau đó, trong giai đoạn chuẩn bị XXPT VKS đã ra kháng nghị vẫn có quyền ra quyết định bổ sung kháng nghị theo hướng có lợi hoặc thay đổi kháng nghị từ bất lợi sang hướng có lợi cho một bị cáo hoặc một số bị cáo đó kể cả trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị.

Tại phiên tòa phúc thẩm, KSV của VKS đã kháng nghị hoặc tham gia phiên tòa phúc thẩm do VKS cấp dưới kháng nghị cũng có thể rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị hoặc bổ sung kháng nghị theo hướng có lợi cho một bị cáo hoặc một số bị cáo đó, hoặc thay đổi kháng nghị từ hướng bất lợi sang hướng có lợi cho họ, nhưng việc rút kháng nghị, bổ sung, thay đổi kháng nghị phải được công bố trước khi Hội đồng XXPT nghị án.

Việc rút kháng nghị, thay đổi, bổ sung kháng nghị trước khi XXPT chỉ có thể do người ban hành kháng nghị (Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng) hoặc Viện trưởng (nếu Phó Viện trưởng kháng nghị) có thẩm quyền, thực hiện; còn việc rút kháng nghị, bổ sung, thay đổi kháng nghị tại phiên tòa XXPT sẽ do KSV thực hiện (do diễn biến phiên tòa đặt ra hoặc có sự chỉ đạo của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS có thẩm quyền chỉ đạo).VKS ra quyết định kháng nghị hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị bất cứ giai đoạn nào kể từ khi ban hành kháng nghị đến trước khi Hội đồng XXPT nghị án.

Khoản 2 Điều 342 quy định việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải được lập thành văn bản (quyết định thay đổi, bổ sung hoặc rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị), do người có thẩm quyền của VKS ký (Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được phân công nhiệm vụ) và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Luật cũng quy định khi Tòa án cấp phúc thẩm nhận được quyết định thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị thì phải thông báo cho VKS, bị cáo và những người có liên quan đến kháng nghị biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị đó. Còn việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị tại phiên tòa XXPT thì luật không quy định phải ra văn bản, mà do KSV giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử thực hiện và phải được ghi vào biên bản phiên tòa.

Khoản 3 Điều 342 quy định trường hợp VKS rút một phần kháng nghị tại phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Hội đồng XXPT nhận định về việc rút một phần kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm. Quy định này cần chú ý rằng: một bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị VKS cùng cấp kháng nghị một phần hoặc toàn bộ, và cũng bị VKS cấp trên trực tiếp kháng nghị một phần hoặc toàn bộ; do vậy, nếu tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, KSV rút một phần kháng nghị đó của VKS cấp mình và của VKS cấp dưới (chẳng hạn do 2 kháng nghị trùng về nội dung), thì Tòa án cấp phúc thẩm mới đình chỉ phần kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm; trường hợp 2 kháng nghị có xung đột về một nội dung kháng nghị (như: VKS cấp sơ thẩm kháng nghị giảm hình phạt tù, nhưng VKS cấp trên trực tiếp kháng nghị tăng hình phạt tù đối với bị cáo), nếu KSV rút phần kháng nghị này của VKS cấp sơ thẩm, thì Hội đồng XXPT vẫn phải xét phần kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp.

Theo quy định của BLTTHS, không nói đến nguyên tắc tập trung thống nhất của hệ thống VKSND, thì tại phiên tòa XXPT, người kháng nghị vẫn có quyền ra quyết định định thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị theo quy định của pháp luật TTHS.

Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị đúng luật định đều xảy ra hậu quả pháp lý vì Hội đồng XXPT phải xét đến khi XXPT đối với việc thay đổi, bổ sung kháng nghị hoặc đình chỉ XXPT trong giai đoạn chuẩn bị xét xử khi VKS rút toàn bộ kháng nghị hoặc tại phiên tòa KSV rút toàn bộ kháng nghị (Điều 348 BLTTHS). Nếu KSV rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị không đúng pháp luật, thì HĐXXPT vẫn phải đình chỉ phần rút kháng nghị hoặc đình chỉ việc XXPT và có văn bản kiến nghị lên cấp giám đốc thẩm xem xét để khắc phục sai lầm, vi phạm của bản án sơ thẩm và kiến nghị VKS cùng cấp xem xét việc rút kháng nghị đó. Đối với trường hợp rút kháng nghị: Khi VKS rút kháng nghị thì Tòa án căn cứ quyết định rút kháng nghị để đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày 8-12-2005 thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ khi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, trong trường hợp VKS đã rút một phần hay toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa phúc thẩm nhưng thời hạn kháng nghị vẫn còn thì VKS vẫn có thể tiếp tục kháng nghị lại. Chính vì vậy cần quy định việc ra quyết định đình chỉ XXPT khi đã hết thời hạn kháng nghị.

– Thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm khi có kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân

BLTTHS năm 2003 tại khoản 2 điểm b Điều 250 quy định: Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong trường hợp “Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội” [17, tr.123]. Bản chất của XXPT là không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, chính vì vậy quy định này được sửa đổi cho phù hợp, mặt khác đây là quy định bảo đảm quyền con người hơn so với những quy định trước đó.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ HUYNH QUANG TRIEU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *