Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao

Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao

Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với tính chất: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [46, Đ.370], cho thấy kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một hoạt động để kiểm tra lại tính hợp pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL, để từ đó Tòa án cấp trên kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn Tòa án cấp dưới khắc phục những sai lầm, thiếu sót, đồng thời thống nhất việc áp dụng pháp luật. Do vậy có thể nói kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật, đảm bảo pháp chế XHCN. Cũng thông qua quá trình hoạt động thực tiễn trong thời gian qua đã cho thấy công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao, điều này thể hiện ở một số bản kháng nghị không nêu được căn cứ kháng nghị, dẫn đến phải rút kháng nghị hoặc bị Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị; nhiều trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa kịp thời nên bị quá thời hạn kháng nghị hoặc khi quyết định kháng nghị thì người bị kết án đã chấp hành xong bản án, quyết định; việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị giám đốc thẩm chưa triệt để nên số lượng vụ án có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm còn có phần hạn chế,… Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do còn có những quy định của BLTTHS liên quan đến kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng, như các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; đối tượng kháng nghị; thời hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị; hệ quả của kháng nghị nhưng lại chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền, nên trong quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là sau khi BLTTHS năm 2015 được ban hành. Bên cạnh đó còn phải kể đến một số nguyên nhân như: trình độ, năng lực của một số cán bộ làm công tác giám đốc thẩm có phần hạn chế; chế độ đãi ngộ, trang thiết bị, cơ sở vật chất đối với họ còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên.

Kể từ ngày được thành lập cho đến nay, TANDCC tại Đà Nẵng đã làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình được quy định tại Điều 29 Luật TCTAND, trong đó có công tác giám đốc thẩm các loại vụ án, đặc biệt là các vụ án hình sự. Thông qua hoạt động giám đốc thẩm đối với các vụ án hình sự do các TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đã có hiệu lực pháp luật, cho thấy các hoạt động TTHS được tiến hành ngày một minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn, xu thế mở rộng và đề cao tranh tụng tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, qua thực tiễn hoạt động TTHS cho thấy vẫn còn một số bản án, quyết định của Tòa án sau khi có hiệu lực pháp luật mới phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc kết luận của bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách qua của vụ án, đã làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, nên phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành tại TANDCC tại Đà Nẵng. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ:

Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự về khái niệm, ý nghĩa, căn cứ, thời hạn, trình tự, thủ tục,…; phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Hai là, đánh giá toàn diện thực trạng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự của TANDCC tại Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2019, từ đó rút ra những kết quả đạt được, những vi phạm, sai lầm trong việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế tại TANDCC tại Đà Nẵng hiện nay.

Ba là, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với TANDCC tại Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận, các quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thi hành tại TANDCC tại Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và hoạt động áp dụng pháp luật quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng đối với các TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân và các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học… Ngoài ra, học viên còn tham khảo ý kiến chuyên gia, cán bộ trực tiếp làm công tác giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng và nghiên cứu tiểu hồ sơ, hồ sơ vụ án được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hình sự trong khoa học luật TTHS Việt Nam như: làm rõ khái niệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; làm sáng tỏ các quy định của BLTTHS về căn cứ kháng nghị, thời hạn, trình tự… của kháng nghị theo thủ giám đốc thẩm, có so sánh với kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; phân tích thực tiễn công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đánh giá. Qua đó chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm và hạn chế để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên cứu và học tập. Kết quả của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng nói riêng và trong hệ thống TAND nói chung.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Chương 2. Thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Chương 3. Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị giám theo thủ tục đốc thẩm.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM

1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 27 BLTTHS năm 2015 đều quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”. Đó là nguyên tắc “hai cấp xét xử” trong hoạt động xét xử các loại vụ án nói chung và xét xử án hình sự nói riêng. Quy định này mang tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự của nước ta và là một bảo đảm pháp lý rất cần thiết trong công tác xét xử của các Tòa án, để việc xét xử của hệ thống Tòa án được chính xác và đúng đắn hơn. Thông qua hai cấp xét xử, những nội dung trong vụ án sẽ thêm một lần nữa được đưa ra xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng và đầy đủ hơn, từ đó các phán quyết của Tòa án đảm bảo tính công minh, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật đều đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng đắn với quy định của pháp luật. Vì vậy, BLTTHS có những quy định về xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm.

Giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng đặc biệt, “là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án[46, Đ.370]. Theo đó, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì trước hết phải có kháng nghị của người có thẩm quyền, được ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định và có nội dung theo quy định của BLTTHS. Đây là một văn bản tố tụng mang tính chất pháp lý, là cơ sở để xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.

Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản năm 2005 do Nguyễn Văn Xô làm chủ biên thì: “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến để phản đối một việc gì[74, tr.345]. Trong liệt kê của tác giả có ví dụ “Bản kháng nghị”. Như vậy, kháng nghị ở đây được hiểu là ý kiến phản đối một việc gì đó nhưng được thể hiện bằng văn bản.

Cũng đề cập đến khái niệm kháng nghị, nhưng tác giả Nguyễn Duy Lãm đã đưa ra khái niệm kháng nghị trong “Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng”, do Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 1996 như sau: “Kháng nghị là việc người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án cấp có thẩm quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [27, tr.192]. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì khái niệm này chưa hoàn toàn chính xác, bởi theo quy định của pháp luật về TTHS thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không mặc nhiên làm ngừng hiệu lực pháp luật của bản án hoặc quyết định, trừ khi người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ thi hành đối với bản án, quyết định bị kháng nghị.

Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Như Thắng cũng đã đưa ra khái niệm về kháng nghị như sau: “Kháng nghị trong TTHS là hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện bằng văn bản bày tỏ sự phản đối, bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đó, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật[65, tr.12]. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với khái niệm về kháng nghị này, vì tác giả đã gắn kháng nghị với hoạt động tố tụng, thể hiện đầy đủ nội hàm của khái niệm và đúng với thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và cả tái thẩm.

Đối với khái niệm về giám đốc thẩm, vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau trong các nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án[65, tr.10]; có quan điểm lại cho rằng: “Giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án[72]; hoặc có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có HLPL về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án, nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật..”. [68]; hay: “Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt được áp dụng để phát hiện và khắc phục bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết” [71, tr.6]. Nhìn chung, các quan điểm này đều cho rằng giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có quan điểm thì cho rằng giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, quan điểm khác thì cho rằng đó là một thủ tục tố tụng.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự trong BLTTHS, học viên cho rằng “Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.

Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 và khoản 2 Điều 21 Luật TCTAND năm 2014 thì giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của TANDTC. BLTTHS năm 2015 đã bỏ quy định “Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới[46, Đ.21] mà BLTTHS năm 2003 đã quy định. Như vậy có nghĩa rằng hoạt động giám đốc việc xét xử chỉ do TANDTC thực hiện, nhằm kiểm tra tính đúng đắn về hoạt động xét xử của các Tòa án. Thông qua hoạt động giám đốc việc xét xử, TANDTC có thể phát hiện những vi phạm, sai lầm trong hoạt động xét xử để kịp thời nhắc nhở, rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục; tổng kết kinh nghiệm xét xử để hướng dẫn áp dụng pháp luật một cách thống nhất và phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm để thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị. Theo nghĩa này, hoạt động giám đốc việc xét xử là hoạt động mang tính hành chính hơn là hoạt động tố tụng cụ thể; còn giám đốc thẩm là một hoạt động tố tụng có tính chất “thủ tục tố tụng đặc biệt”. Khác với BLTTHS 2003, giám đốc việc xét xử được quy định là một nguyên tắc cơ bản thì BLTTHS 2015 lại không quy định nguyên tắc này.

Thực tiễn thi hành BLTTHS, để giám đốc thẩm một vụ án hình sự thì cần có nhiều hoạt động tố tụng như: phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị; xét xử giám đốc thẩm,… Trong các hoạt động này thì hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quan trọng nhất, vì không có hoạt động này thì thủ tục giám đốc thẩm không diễn ra.

Trong nghiên cứu của mình, tác giả Trần Minh Tú đã đưa ra khái niệm về kháng nghị giám đốc thẩm: “Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự là việc người có thẩm quyền ban hành một văn bản tố tụng can thiệp trực tiếp vào một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật do có sai lầm nghiêm trọng trong quá trình xử lý vụ án. Kháng nghị giám đốc thẩm làm phát sinh việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm có thể dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực pháp luật của một phần hay toàn bộ bản án, quyết định bị kháng nghị[71, tr.9]. Còn tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có HLPL để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” [37].

Như vậy, các quan điểm đều cho rằng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được pháp luật tố tụng giới hạn là những chủ thể nhất định. Bên cạnh đó, BLTTHS cũng quy định các dấu hiệu đặc trưng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như căn cứ, thời hạn, trình tự…

Từ các luận điểm trên, học viên cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự là hoạt động của người có thẩm quyền, bằng một văn bản tố tụng, trong đó nêu rõ lý do, mục đích của việc kháng nghị, đề nghị Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong một số trường hợp sẽ làm phát sinh việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định theo quyết định của người kháng nghị và việc xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật.

1.1.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Trong hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thể hiện tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự Việt Nam. Đây được coi là một “công cụ” hữu hiệu nhằm khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự, làm cho công tác áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hình sự nói riêng ngày càng thống nhất.

Thông qua công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS được bảo đảm thực hiện, góp phần bảo đảm công bằng xã hội, là một kênh thông tin quan trọng để nhân dân giám sát hoạt động xét xử của Tòa án; các nguyên nhân dẫn đến vi phạm trong bản án, quyết định như quy định của pháp luật còn chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc còn có bất cập, khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn dẫn đến nhận thức khác nhau của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng,… được tập hợp để từ đó có những đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện hoặc hướng dẫn áp dụng đúng và thống nhất pháp luật.

1.1.2. Trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Trình tự là sự sắp xếp theo thứ tự trước, sau, hay là thứ tự diễn ra từ đầu đến cuối. Trong một hoạt động nhất định thì trình tự là các bước tiến hành những công việc theo thứ tự trước, sau để đạt được một mục tiêu cụ thể. Để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với một vụ án hình sự cụ thể cũng cần phải theo một trình tự nhất định, theo quy định của BLTTHS. Cụ thể:

Một là: Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo đó, người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh đó, đối với Tòa án, VKS, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL thì thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị biết để xem xét, quyết định có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay không.

Hai là: Thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc thông báo được thực hiện sau khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Khi đó, người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn hình thức thông báo hoặc là bằng văn bản hoặc là trình bày trực tiếp; và có thể thông báo với người có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tòa án, VKS nơi gần nhất. Quá trình thông báo, người thông báo có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh nội dung thông báo của mình. Nếu việc thông báo bằng văn bản thì cần nêu đầy đủ nội dung: ngày, tháng năm thông báo; tên, địa chỉ cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật cần được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; nội dung của vi phạm pháp luật được phát hiện và kiến nghị đối với người có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Văn bản thông báo của cá nhân thì phải được ký tên hoặc điểm chỉ; văn bản của cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu. Đối với việc thông báo bằng trình bày trực tiếp thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản.

Ba là: Tiếp nhận thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc này được thực hiện bởi Tòa án, Viện kiểm sát. Theo đó, khi nhận được thông báo, kể cả bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp, thì Tòa án, Viện kiểm sát phải vào sổ nhận thông báo; sau đó gửi ngay thông báo (văn bản hoặc biên bản nếu trình bày trực tiếp) cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho người phát hiện bản án, quyết định có vi phạm được biết.

Bốn là: Chuyển hồ sơ vụ án có bản án, quyết định được thông báo có vi phạm. Sau khi tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật có vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền nếu xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm thì yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án chuyển hồ sơ để nghiên cứu. Việc yêu cầu này được thể hiện bằng văn bản và trong thực tiễn thường là quyết định rút hồ sơ vụ án. Trong thời hạn 07 ngày, Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án phải chuyển hồ sơ cho cơ quan có yêu cầu. Trường hợp cả Tòa án và VKS cùng yêu cầu thì Tòa án quản lý hồ sơ chuyển cho cơ quan có yêu cầu trước và thông báo cho cơ quan yêu cầu sau.

Năm là: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi xem xét, nếu xét thấy có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm và trong trường hợp cần thiết thì ban hành quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị; đồng thời gửi các quyết định đến cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan ngay sau khi được ban hành.

1.1.3. Phân biệt kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

Trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam, cùng tính chất là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, ngoài thủ tục giám đốc thẩm còn có thủ tục tái thẩm. Khác với thủ tục giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì thủ tục tái thẩm là xét lại bản án, quyết định Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó. Do đó, kháng nghị theo hai thủ tục này cũng có những điểm khác nhau về căn cứ để kháng nghị, về chủ thể kháng nghị, về trình tự kháng nghị.

1.1.3.1. Về căn cứ để kháng nghị

Các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đều được quy định trong BLTTHS năm 2015. Khi có một trong những căn cứ được liệt kê thì người có thẩm quyền kháng nghị có quyền ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Trong đó:

– Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có 03 căn cứ. Theo quy định tại Điều 371 BLTTHS năm 2015 quy định gồm: “Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”. [46, Đ.371].

– Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có 04 căn cứ. Theo quy định tại Điều 398 BLTTHS năm 2015 quy định gồm: “Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật; Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án; Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật; Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án[46, Đ.398].

1.1.3.2. Về chủ thể kháng nghị

Chủ thể kháng nghị là người có thẩm quyền kháng nghị. Đây là những chủ thể nhất định được quy định bởi pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, những người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung ương, Chánh án TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC; còn người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ bao gồm: Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng VKSQS Trung ương và Viện trưởng VKSNDCC. Như vậy, giới hạn chủ thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hẹp hơn chủ thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Cụ thể theo Điều 373 BLTTHS năm 2015, chủ thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TANDCC hoặc bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; Chánh án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp quân khu, TAQS khu vực; Chánh án TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Theo Điều 400 BLTTHS năm 2015 thì chủ thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; Viện trưởng VKSQS trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp quân khu, TAQS khu vực; Viện trưởng VKSNDCC có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ [46].

1.1.3.3. Về trình tự kháng nghị

Trình tự kháng nghị theo thủ tục tái thẩm về cơ bản cũng bao gồm các bước như trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã đề cập cụ thể ở tiểu mục 1.1.2 nêu trên. Tuy nhiên, do quy định chủ thể có quyền quyết định kháng nghị tái thẩm bị giới hạn hơn nên trình tự cũng có sự khác biệt nhất định. Bên cạnh đó là việc quy định bổ sung trong trình tự kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có thủ tục xác minh tình tiết mới. Theo đó, trình tự kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm: (1) Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó. Chủ thể phát hiện là người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân, hay nói cách khác là mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền phát hiện tình tiết mới để đề nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục tái thẩm. (2) Người phát hiện bản án, quyết định có tình tiết mới thông báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Trong trường hợp Tòa án nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện ra tình tiết mới của vụ án thì phải thông báo bằng văn bản cho Viện trưởng VKS có thẩm quyền kháng nghị. (3) Tiếp nhận thông báo việc phát hiện bản án, quyết định có tình tiết mới. Thủ tục này không được quy định chi tiết trong BLTTHS năm 2015 nên được thực hiện như đối với trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 403 BLTTHS năm 2015. (4) Sau khi tiếp nhận thông báo việc phát hiện bản án, quyết định có tình tiết mới, Viện trưởng VKS có thẩm quyền quyết định kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh các tình tiết mới đã được thông báo. Ở thủ tục này, VKS có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nếu xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để giải quyết thì yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án chuyển hồ sơ để nghiên cứu, việc chuyển hồ sơ vụ án cũng được thực hiện tương tự như trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong quá trình VKS xác minh những tình tiết mới của vụ án, nếu xét thấy cần thiết thì có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh và chuyển kết quả xác minh cho mình. (5) Khi có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, Viện trưởng VKS có thẩm quyền ban hành quyết định kháng nghị tái thẩm. Quyết định này phải được gửi đến cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan ngay sau khi được ban hành.

1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

1.2.1. Quy định về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Căn cứ này được quy định cụ thể tại Điều 371 BLTTHS năm 2015. Theo đó, các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ sau:

1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;

3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” [46].

So với BLTTHS năm 2003, quy định của BLTTHS năm 2015 đã được bỏ bớt một căn cứ, đó là: “Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ[45, Đ.273]. Chúng tôi cho rằng việc bỏ căn cứ này là hợp lý, bởi nếu việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ thì sẽ dẫn đến kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.

Để làm rõ hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chúng tôi xin được đánh giá, phân tích như sau:

Thứ nhất: Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.

Tình tiết khách quan của vụ án là những tình tiết có thật xảy ra trong vụ án, được những người tiến hành tố tụng thu thập, chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án, có trong hồ sơ vụ án, được Tòa án thẩm tra công khai tại phiên tòa. Các tình tiết này trong thực tiễn được diễn giải ở phần nội dung trong bản án. Còn kết luận trong bản án, quyết định là những quan điểm, nhận định, đánh giá của Tòa án về nội dung vụ án, các tình tiết liên quan, các chứng cứ, tài liệu để chứng minh tội phạm và quyết định về tội danh, hình phạt, án phí, bồi thường thiệt hại,… Các kết luận thể hiện sự hiểu biết, ý chí, nhận thức chủ quan của Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá trong quá trình giải quyết vụ án và trong bản án, quyết định là phần nhận định và quyết định của Tòa án. Như vậy, để kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án được phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án thì Tòa án phải xem xét thận trọng, đánh giá toàn diện các mặt, các mối quan hệ của mỗi tình tiết trong vụ án và phải đặt các tình tiết trong vụ án trong mối quan hệ biện chứng; phải lấy sự thật làm căn cứ để kết luận, đánh giá về vụ án, không được suy diễn hoặc có kết luận mang tính chủ quan, áp đặt về vụ án khi chưa xem xét, đánh giá toàn bộ các tình tiết của vụ án. Điều này cũng có nghĩa rằng, trong phần nhận định, trong phần quyết định của bản án, quyết định phải có những đánh giá, nhận xét, phân tích, nhận định và quyết định phù hợp với những tình tiết khách quan đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà hoặc những tình tiết khách quan đã được làm rõ tại phiên toà qua xét hỏi, tranh luận. Có như vậy mới bảo đảm thực hiện được một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2015 là “Xác định sự thật của vụ án[46, Đ.15]. Nếu kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án không chính xác, không bảo đảm “xác định sự thật của vụ án” thì cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Trung Kiên cho rằng: “kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với các tình tiết khách quan là việc các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình chứng minh tội phạm, các vi phạm này hoàn toàn có thể bị phát hiện trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án và xét xử nhưng Tòa án không phát hiện ra dẫn đến việc ra bản án không đúng với sự thật khách quan của vụ án. Hậu quả là các bản án, quyết định này phải bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo tính đúng pháp luật” [26, tr.17]. Chúng tôi cho rằng đây là nhận thức hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành.

Thứ hai: Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

Khác với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có quy định như thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Theo đó, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, do đó đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án [46, Đ.4].

– Về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra: Điều này chủ yếu được thể hiện ở các mặt như: thành phần, trình tự, thủ tục không đúng quy định của BLTTHS khi khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra; nhập hoặc tách vụ án không đúng quy định theo Điều 170 BLTTHS năm 2015; không trưng cầu giám định hoặc trưng cầu giám định không đúng cơ quan chuyên môn theo quy định của BLTTHS để xác định: nguyên nhân chết người, cơ chế gây thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe; trình trạng tâm thần của bị can, người bị hại, người làm chứng khi có nghi ngờ về năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị can, khả năng nhận thức, tính đúng đắn của lời khai của người người bị hại, người làm chứng về các tình tiết khách quan của vụ án; xác định tuổi của bị can, người bị hại; xác định chất, khối lượng hoặc hàm lượng của chất độc, ma túy, chất nổ, chất phóng xạ, xác định tiền giả; việc giám định không do giám định viên quy định bởi BLTTHS tiến hành giám định.

Việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra còn có thể là việc Điều tra viên có hành vi bức cung, nhục hình đối với bị can trong quá trình điều tra; cơ quan điều tra không yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng Luật sư cử Luật sư tham gia bào chữa cho bị can trong quá trình điều tra đối với các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định (trừ trường hợp bị can, người đại diện hợp pháp của bị can đã mời hoặc từ chối người bào chữa)…

Các vi phạm này trong thực tiễn thường được phát hiện, khắc phục trong giai đoạn truy tố và xét xử, hậu quả sẽ là trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ vụ án, hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội.

– Về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn truy tố: Kế tiếp giai đoạn điều tra, trên cơ sở hồ sơ do Cơ quan điều tra thu thập, căn cứ quy định của BLTTHS, VKS có thể ra một trong các quyết định: Truy tố bị can ra Tòa án để xét xử, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án. Hoạt động truy tố của VKS được thông qua bản cáo trạng, thể hiện các nội dung truy tố người nào có hành vi phạm tội, phạm tội danh nào, đề xuất khung hình phạt như thế nào, trách nhiệm bồi thường thiệt hại,… Các vi phạm ở giai đoạn này tuy ít xảy nhưng trong thực tiễn không phải là không có. Chẳng hạn như việc truy tố sai thẩm quyền, tách vụ án trong giai đoạn truy tố không đúng quy định, truy tố người không thực hiện hành vi phạm tội,… Trên thực tế, các vi phạm trong giai đoạn truy tố thường được phát hiện và khắc phục trong giai đoạn xét xử.

– Về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử: Trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm, việc phát hiện các vi phạm này phổ biến hơn các vi phạm trong giai đoạn khởi tố, điều tra hoặc truy tố. Việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử cũng được thể hiện một cách đa dạng. Chẳng hạn như xét xử sai thẩm quyền, xác định sai tư cách của người tham gia tố tụng, khi xét xử không đưa đầy đủ những người tham gia tố tụng (cần thiết) vào tham gia tố tụng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ hoặc không đảm bảo việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án…

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử còn thể hiện trong việc vi phạm quy định về giới hạn xét xử, không đình chỉ vụ án đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại theo khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 nhưng người bị hại đã rút yêu cầu trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, kháng cáo quá hạn mà không có lý do chính đáng theo quy định của BLTTHS nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn chấp nhận và tiến hành các thủ tục tố tụng, mở phiên tòa phúc thẩm.

Khi giải quyết vụ án hình sự Tòa án không xem xét giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, trong khi đã có đủ căn cứ chứng minh để giải quyết vấn đề dân sự, mà lại tách ra để giải quyết một vụ án dân sự riêng biệt dẫn đến việc xem xét trách nhiệm hình sự của bị cáo bị ảnh hưởng cũng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử.

Tòa án phân công Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm không đúng quy định không đúng quy định của BLTTHS cũng là một vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử. Ví dụ một số trường hợp như: khi xét xử sơ thẩm đối với vụ án “có bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân hoặc tử hình”, nhưng lại chỉ phân công Hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 254 BLTTHS năm 2015; hoặc khi xét xử sơ thẩm vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng lại không phân công “Hội thẩm nhân dân là giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi” tham gia Hội đồng xét xử [60]; hoặc Hội đồng xét xử có Thẩm phán hoặc Hội thẩm đã từng tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án.

Thứ ba: Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Căn cứ này trong BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi, mở rộng hơn so với BLTTHS năm 2003, quy định “sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” chung đã được thay thế cho “sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự”. Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật được hiểu bao gồm: Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự, sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dân sự trong giải quyết vụ án hình sự và sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định khác của pháp luật khác trong giải quyết vụ án hình sự. Trong đó:

– Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự, là sai lầm khi áp dụng BLHS. Điều đó thể hiện qua việc kết án người không có hành vi phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu thành tội phạm, kết án người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, định tội danh sai, áp dụng sai hình phạt hoặc sai khung hình phạt, bỏ lọt tội phạm, cho hưởng án treo không đúng quy định của BLHS…

– Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dân sự trong giải quyết vụ án hình sự, thể hiện trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. Vi phạm này thường xảy ra như: Buộc người không có trách nhiệm bồi thường phải bồi thường thiệt hại, xác định các khoản bồi thường, mức bồi thường không đúng quy định của pháp luật. Chẳng hạn như việc Tòa án khi xét xử các vụ án về chiếm đoạt tài sản lại không quyết định việc trả lại, bồi thường đối với tài sản bị chiếm đoạt; trong vụ án xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm lại không kết luận và quyết định việc bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm; hay không xem xét, quyết định việc cấp dưỡng trong vụ án xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe hoặc vụ án vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà người bị hại đã chết…

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ LUONG QUANG TOAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *