Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình cá nhân

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình cá nhân

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai, đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, là nguồn tư liệu sản xuất đặc biệt và có tầm quan trọng đối với mọi tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho họ và được Nhà nước bảo hộ quyền sử dụng đất. Trong quá trình phát triển đất nước, xây dựng nền công nghiệp và hiện đại hóa đất nước, chính quyền các cấp phải thực hiện việc thu hồi đất của người sử dụng để xây dựng các công trình phúc lợi tập thể, công cộng hoặc phát triển kinh tế thông qua các dự án có sử dụng đất trên toàn quốc hoặc ở thành phố Hội An nói riêng đã làm ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của người sử dụng đất, đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.

Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của mỗi địa phương, đất đai là một yếu tố đầu vào không thể thiếu, muốn vậy nhà nước cần phải thu hồi đất và thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các đối tượng sử dụng đất để phục vụ cho các dự án đầu tư. Công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất, tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà nước, chủ đầu tư, đặc biệt với hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi. Nhằm hạn chế tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, Nhà nước ban hành các Luật và nhiều chính sách bồi thường, hỗ trợ để tạo hành lang pháp lý, cơ chế tổ chức thực hiện giữa Nhà nước với đối tượng sử dụng đất. Cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ bước đầu đã giúp người bị thu hồi đất ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ trong số các hộ dân bị thu hồi đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng còn chưa thỏa mãn do mức bồi thường chưa bằng với giá thị trường, chính sách bồi thường có nhiều điểm chưa hợp lý …Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, ngoài đơn giá bồi thường chưa hợp lý, còn là do chế độ chính sách về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo hài hòa giữa nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp của đối tượng sử dụng đất bị thu hồi. Thực tế đó đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục đổi mới chính sách bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.

Trong những năm gần đây, trên địa bàn thành phố Hội An có hàng chục dự án phải thu hồi đất nông nghiệp của người dân. đã góp phần làm thay đổi căn bản về diện mạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại địa phương, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của thành phố. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được nhất định thì vẫn còn nhiều dự án chưa được triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ, mà nguyên nhân căn bản là công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ còn nhiều bất cập, những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện ảnh hưởng đến các yếu tố xã hội như: người lao động mất đất sản xuất, vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho nhân dân,…chưa được giải quyết triệt để, làm gia tăng tình trạng khiếu kiện, khiếu nại trong nhân dân nên kéo theo chậm tiến độ bàn giao mặt bằng để thi công các công trình. Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để giải quyết những bất cập nêu trên trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, vừa đảm bảo hài hòa quyền lợi của các bên liên quan vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong lĩnh vực này.

Với mong muốn đóng góp một phần vào công cuộc tìm tòi đó học viên chọn đề tài “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu trong Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật kinh tế của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn (thông qua tìm hiểu tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. Từ đó, nêu định hướng và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để hoàn thành mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:

– Làm rõ những vấn đề chúng về bồi thường, pháp luật về bồi thường khi khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân;

– Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.

– Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

– Kiến nghị định hướng và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thành phố Hội An.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

– Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

– Thời gian khảo sát từ ngày 01/7/2014 – ngày Luật đất đai 2013 có hiệu lực đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối luật pháp của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xem xét chính sách bồi thường đối với người dân có đất thu hồi nông nghiệp. Điểm tựa quan trọng của cách tiếp cận là đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước phải có trách nhiệm với người dân có đất bị thu hồi.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu trọng tâm là phương pháp phân tích và được kết hợp với các phương pháp: tổng hợp, quy nạp và nội ngoại suy để đánh giá tiến trình lịch sử, bối cảnh, hoàn cảnh cụ thể của chính sách bồi thường đối với người dân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở thành phố Hội An.

Đặc biệt, tiêu chí đánh giá chính sách chủ yếu dựa vào kết quả thực tiễn gắn với điều kiện của thành phố Hội An.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đưa ra các căn cứ khoa học của pháp luật bồi thường đối với người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi.

Chỉ ra điểm hợp lý, chưa hợp lý của công tác bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở thành phố Hội An.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kiến nghị hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hội An trong những năm tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn có 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực trạng pháp luật về lĩnh vực này ở Việt Nam

Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam;

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC NÀY Ở VIỆT NAM

1.1. Các khái niệm thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân

1.1.1. Khái niệm thu hồi đất

Theo nghĩa tiếng Việt, có thể hiểu thu hồi đất là việc nhà nước lấy lại đất đã giao, đã cho thuê của một tổ chức, cá nhân nào đó.

Điều 54, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu rõ: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật” và “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”. 

Điều 4, Luật Đất đai 2013 quy định:

– Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này.

Quyền và trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai được quy định tại điều 3 luật đất đai 2013 như sau:

+ Quy định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

+ Quyết định mục đích sử dụng đất.

+ Quy định về hạn mức sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất.

+ Quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất.

+ Định giá đất.

+ Quy định trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất; quy định chính sách tài chính về đất đai.

Như vậy, thu hồi đất là quyền của Nhà nước ta được quy định trong Hiến pháp và pháp luật căn cứ vào vị thế đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Thu hồi đất là việc các cơ quan nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất của những cá nhân, tổ chức nào đó để giao cho cá nhân hoặc tổ chức khác sử dụng hoặc để Nhà nước sử dụng vào mục đích chung. Thu hồi đất hiểu theo nghĩa này, khác với thu hồi đất của chủ cho thuê đất khi hết kỳ hạn thuê. Thu hồi đất ở đây là hành vi lấy lại quyền sử dụng đất đã giao của Nhà nước để sử dụng vào mục đích khác. Người bị thu hồi đất không có vị thế giao kết hợp đồng của người thuê, không có quyền từ chối chuyển giao quyền sử dụng đất cho Nhà nước, thậm chí không có quyền thỏa thuận giá cả đền bù. Trong khi đó, đối với người bị thu hồi đất, thường là nông dân, quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng đối với họ, nhiều trường hợp là sống còn. Do đó đi đôi với thu hồi đất, Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ, bồi thường và tái định cư đối với người bị thu hồi đất.

1.1.2. Khái niệm bồi thường cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi

Bồi thường là sự đền đáp lại tất cả những thiệt hại mà chủ thể gây ra một cách tương xứng.Thiệt hại có thể bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.

Theo quy định của pháp luật dân sự thì bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hiệu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế, được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí để ngăn chặn hạn chế thiệt hại thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút.

Theo Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”.

Theo Khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”.

1.2. Tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đối với đời sống của hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi

Đất đai vừa là tư liệu sản xuất, vừa là môi trường sống của người dân. Do đó mất đất, đồng nghĩa với nơi tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, việc thu hồi đất của Nhà nước đã ảnh hưởng bất lợi đến người dân bị mất đất trên các phương diện sau đây.

1.2.1. Mất tư liệu sản xuất

Ngay cả khi Nhà nước bồi thường xứng đáng bằng tiền cho người có đất bị thu hồi thì họ cũng mất việc làm do không còn địa bàn, mặt bằng sản xuất, ở,… Nếu Nhà nước bồi thường cho họ một diện tích đất ở nơi khác thì họ cũng mất chi phí xây dựng lại từ đầu các hoạt động sản xuất kinh doanh với nhiều điểm bất lợi hơn trước.

Sự mất mát, thua thiệt, tâm lý lo sợ tương lai không rõ ràng khiến nhiều người tìm mọi cách để không giao đất cho Nhà nước, từ vận động hành lang đến chây ì, phản đối tập thể … Muốn thu hồi đất hiệu quả, Nhà nước phải có phương án giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn này.

1.2.2. Có thể gây bức xúc vì phân chia lợi ích không công bằng

Do chuyển mục đích sử dụng đất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất thu hồi sẽ làm cho một số chủ thể kinh tế có lợi ích tăng lên, đi đôi với thua thiệt trông thấy của người mất đất dẫn đến các xung đột lợi ích gay gắt. Người mất đất sẽ càng cảm thấy mình bị đối xử bất công hơn khi hàng xóm của mình giàu lên không nhờ công sức của họ mà nhờ đất của mình bỏ ra làm đường, hoặc sẽ phẫn nộ khi giá bồi thường cho họ thấp hơn nhiều giá đất doanh nghiệp bán cho họ…

Do nhiều địa phương thiếu quỹ đất nông nghiệp để hoán đổi cho nông dân có đất bị thu hồi; nên nhiều nông dân, sau khi nhận tiền đền bù, đã không có công việc làm, không có kinh nghiệm kinh doanh nên tiền bồi thường nhanh chóng tiêu hao hoặc dùng vào những việc không đem lại lợi ích lâu dài vì mục đích ổn định kinh tế. Nơi ở mới chưa được xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn thiện làm cho cuộc sống của họ càng khó khăn hơn. Chính vì thế, nhiều người dân mất đất, hoặc rơi vào nghèo khó, hoặc rơi vào tệ nạn xã hội, trở thành gánh nặng cho chính họ, cho địa phương và cho xã hội.

Chính vì thu hồi đất có nhiều tác động không mong muốn nên Nhà nước, một mặt phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý, dài hạn, ổn định, nhằm hạn chế xáo trộn; mặt khác, phải xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân bị mất đất một cách hợp lý.

1.3. Mục tiêu, nguyên tắc xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam

1.3.1. Mục tiêu của chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái dịnh cư đối với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam

* Mục tiêu thứ nhất của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, người sở hữu nhà ở.

Điều 5 Luật đất đai 2003 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu… Nhà nước trao quyền sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất” , và tại Điều 5 Luật đất đai 2013 cũng khẳng định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất theo quy định”

Vậy, về mặt pháp lý dù người sử dụng đất được hưởng thành quả từ việc sử dụng đất vào các hoạt động kinh tế, xã hội nhưng đất đai phải được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội mà Nhà nước là người đại diện. Mục tiêu của xã hội là đất chung phải được sử dụng sao cho phục vụ tốt nhất cho phát triển kinh tế, kiến thiết xã hội và cải thiện chất lượng sống nói chung của dân cư. Vì thế đất phải được sử dụng theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng chung của Nhà nước.

Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước thường không phải là người sử dụng trực tiếp đất. Người dân mới là người khai thác quỹ đất, họ chỉ khai thác quỹ đất hiệu quả khi quyền lợi của họ được tôn trọng và bảo hộ. Làm sao để mục tiêu chung của xã hội và mục tiêu riêng của người sử dụng đất hài hòa với nhau tạo điều kiện cho phát triển nhanh, bền vững là mục tiêu quan trọng của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Ở đây, xử lý tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất cũng như vận dụng các công cụ tổ chức, tuyên truyền, tài chính của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là rất quan trọng.

Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta là quyền sở hữu về mặt pháp lý (Nhà nước quy định trách nhiệm của mình cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất). Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nếu quan hệ này được thiết lập hợp lý thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ dễ triển khai hơn.

Ở nước ta, Nhà nước còn nắm một phần quyền sử dụng đất về mặt pháp lý, tức nắm quyền quy định mục đích sử dụng cho các thửa đất theo quy hoạch. Nhà nước nắm quyền này là để định hướng sử dụng đất cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội về các phương diện đảm bảo an ninh lương thực, cân đối các nhu cầu sử dụng đất, sử dụng đất hiệu quả, hạn chế tình trạng đất để hoang hoá, vô chủ, sử dụng lãng phí, không bảo vệ đất,… Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để đảm bảo đất có chủ sử dụng thực sự và hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước giao quyền sử dụng đất đúng mục đích cũng tạo điều kiện cho thị trường quyền sử dụng đất hoạt động và để khuyến khích sử dụng đất hiệu quả.

Trong nhiều mối quan hệ chồng chéo đó, làm thế nào để bảo đảm lợi ích hợp lý giữa xã hội, cá nhân và doanh nghiệp là vấn đề vô cùng phức tạp. Song, nếu không giải quyết được các quan hệ này thì chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư sẽ khó triển khai. Bởi vì, Luật đất đai ở nước ta quy định khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (nếu có mất đất ở, chổ ở) cho người dân bị thu hồi đất.

Vậy bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như thế nào để đảm bảo sự hài hòa lợi ích ?

Thông thường, việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải đáp ứng các yêu cầu:

– Tạo điều kiện để người bị mất đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn trước khi bị thu hồi đất.

– Điều tiết phần lợi ích gia tăng không do các cá nhân tạo ra về ngân sách nhà nước.

– Tạo điều kiện để người sử dụng đất sau này hoàn thành mục tiêu đã được xã hội chấp thuận.

– Bảo tồn được quỹ đất và môi trường.

* Mục tiêu thứ hai của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là khuyến khích người dân tự nguyện giao đất.

Vì đất là điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng khu đô thị, là điều kiện để thực hiện các dự án kinh tế, xã hội, quốc phòng nên chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải hướng đến khuyến khích người dân tự nguyện giao đất.

Trên thực tế, người dân không muốn giao đất vì việc mất đất ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của họ. Để họ tự nguyện và nhanh chóng giao đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không những phải có mức bồi thường, hỗ trợ, hợp lý, phải tổ chức tốt việc bố trí tái định cư, mà còn phải cung cấp cho người mất đất đầy đủ thông tin trung thực để họ tự quyết định.

Ngoài ra chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải được hoạch định và thực hiện nhất quán, tránh các mâu thuẫn, xung đột trong quá trình triển khai.

Nếu chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không đáp ứng mục tiêu này, quá trình thu hồi đất sẽ nảy sinh nhiều khó khăn như khiếu kiện, chống đối, chây ì, gây chậm tiến độ giải phóng mặt bằng.

* Mục tiêu thứ ba của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là ổn định cuộc sống, tạo việc làm cho người dân bị mất đất.

Việc thu hồi đất ở nước ta không hoàn toàn mang tính thị trường nên quan tâm đến cuộc sống của người dân bị mất đất là một mục tiêu quan trọng. Để ổn định cuộc sống cho người mất đất cần xây dựng khu tái định cư đồng bộ, có hạ tầng kỹ thuật bằng hoặc hơn nơi đi, nhất là các dịch vụ thiết yếu như giao thông, điện, nước, y tế, giáo dục, hành chính, …

Ở nước ta, mục tiêu này thường gặp nhiều khó khăn ở các dự án phúc lợi tập thể, kinh tế công là do kinh phí của Nhà nước còn hạn chế và việc tổ chức thực hiện các khâu trong giải phóng mặt bằng còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh. Nếu khu tái định cư không được xây dựng hạ tầng kỹ thuật tốt, phù hợp thì người dân sẽ không vào khu tái định cư, đó là những vấn đề cần có chính sách phù hợp.

Để ổn định lâu dài cho người dân bị mất đất, cần tạo điều kiện cho họ có việc làm thông qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ đầu tư, lập nghiệp hoặc xúc tiến việc làm. Thực tế việc này chưa được coi trọng hoặc do người dân bị thu hồi đất có trình độ học vấn thấp không đáp ứng chương trình đào tạo, hoặc do người dân không có nhu cầu đào tạo.

* Mục tiêu thứ tư của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xây dựng phát triển nhà ở, phát triển kinh tế – xã hội.

Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ Nhà nước bố trí, sắp xếp các loại đất và nhà ở cho đối tượng sử dụng phù hợp với mục tiêu sử dụng đất hiệu quả và thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt phải có căn cứ khoa học, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là phương án sử dụng đất tốt nhất để Nhà nước và nhân dân thực hiện.

Để chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần chủ động hoạch định chính sách cụ thể cho các khu đất ở, các dự án xây dựng vùng, phát triển các ngành nghề khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ hoặc là việc chuyển các loại đất khác nhau sang các mục đích sử dụng khác nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện. Nói cách khác, trước khi mở rộng một con đường, xây dựng một khu đô thị mới hay xây dựng khu công nghiệp, xây dựng khu chung cư cao tầng, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng v.v… cần tuân thủ quy hoạch trong việc lựa chọn sử dụng các khu đất mới hoặc lấy các khu đất đang sử dụng vào một mục đích cụ thể nào đó để sử dụng cho các mục đích khác trên cơ sở đó xây dựng các định mức, phương thức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thích hợp. Không nên xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư một cách tùy tiện. Khi tính tiền bù đắp thiệt hại cho người sử dụng đất do bị thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, các cơ quan liên quan phải căn cứ vào quy hoạch để xem xét tính hợp lý của khu tái định cư cũng như để điều hòa lợi ích phát sinh theo quy hoạch.

1.3.2. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với người dân có đất thu hồi

* Nguyên tắc công bằng

Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu quyết định thành công của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Nếu chính sách công bằng những người bị thu hồi đất sẽ tự nguyện chấp hành. Ngược lại, họ sẽ phản đối, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không thực thi được hoặc trả giá đắt. Công bằng ở đây là công bằng về chính sách, công bằng về chế độ, về đơn giá, về mức bồi thường, hỗ trợ, về đối tượng thụ hưởng,… . Để có chính sách công bằng phải hoạch định chính sách sát thực tế, xem xét lợi ích, phân chia lợi ích một cách phân minh. Nguyên tắc công bằng phải được quán triệt và thực hiện nhất quán từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. “Ví dụ, hai hộ liền kề có cùng nguồn gốc đất, quá trình sử dụng như nhau, điều kiện hạ tầng giống nhau thì giá bồi thường và mức bồi thường phải như nhau. Hai hộ dân, một hộ ở tỉnh này, một hộ ở tỉnh kia đều bị thu hồi nhà 2 tầng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thì phải được bồi thường 100% giá trị đất ở, 100% giá trị tài sản”.

* Nguyên tắc hiệu quả

Nguyên tắc này đòi hỏi người có thẩm quyền thực thi chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải cân nhắc tính toán kỹ về mọi mặt trước khi quyết định. Hiệu quả ở đây được hiểu trước hết là hiệu quả về kinh tế sau đó là hiệu quả về mặt xã hội. Nói cách khác, phải tạo được sự đồng thuận của người dân trong vùng dự án. Nguyên tắc hiệu quả phải đạt được cả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Tuyệt đối không vì lợi ích trước mắt mà gây hại lâu dài cho các thế hệ sau.

* Nguyên tắc dân chủ

Trong hoạch định chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải tham khảo ý kiến của cụm dân cư, nhất là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp. Khi quyết định phải theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, tập thể bàn bạc cân nhắc kỹ trước khi quyết định. Tuyệt đối không được áp đặt quyết định từ một phía, không được tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân cán bộ có chức quyền. Dân chủ nhưng phải tập trung, đồng thời tập trung nhưng phải dân chủ cả ở khâu hoạch định chính sách cũng như thực hiện chính sách, phải đối xử với mọi người một cách bình đẳng, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của họ.

* Nguyên tắc tiết kiệm ngân sách nhà nước

Người có thẩm quyền, người thực thi công vụ có quyền quyết định chi ngân sách nhà nước phải hết sức tiết kiệm. Vì ngân sách nhà nước có hạn, mà nguồn tiền để bồi thường, hỗ trợ và tái định cư lại rất lớn. Tiết kiệm chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhưng vẫn phải đảm bảo yêu cầu về lợi ích của người dân và điều kiện sống của họ. Tiết kiệm không có nghĩa là bớt xén, là thực hiện không đúng chế độ chính sách. Tiết kiệm là tổ chức công việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư một cách khoa học, tránh làm rồi sửa, phá.

* Nguyên tắc hỗ trợ người khó khăn

Hướng tới việc thực hiện các chính sách xã hội đối với các trường hợp đặc thù, có hoàn cảnh đặc biệt. Đó chính là tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, là bản chất tốt đẹp của xã hội ta.

Những nguyên tắc cơ bản nêu trên đều có vị trí quan trọng và có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau, ràng buộc nhau. Trong quá trình cụ thể hoá chính sách và tổ chức thực hiện ở địa phương phải tôn trọng các nguyên tắc nêu trên. Tuyệt đối không được xem nhẹ nguyên tắc này, xem nặng nguyên tắc kia và ngược lại, phải căn cứ vào chế độ chính sách của nhà nước và tình hình thực tiễn ở địa phương để vận dụng một cách linh hoạt nhằm đạt mục tiêu của chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là ổn định tình hình, phát triển bền vững và công bằng xã hội.

1.3.3. Trình tự thực hiện thu hồi đất

Bước 1: Cơ quan tài nguyên và môi trường xây dựng và trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt Kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.

Bước 2: Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành Thông báo thu hồi đất và gửi đến từng người có đất thu hồi; họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân nơi có đất thu hồi. Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì thực hiện như sau:

– Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;

– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành Quyết định kiểm đếm bắt buộc đối với trường hợp đã được vận động, thuyết phục nhưng người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;

– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế đối với trường hợp người sử dụng đất không thực hiện Quyết định kiểm đếm bắt buộc.

Bước 3: Tổ chức làm nghiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng lập Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Bước 4: Tổ chức làm nghiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về Phương án bồi thương, hỗ trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai Phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư tại trụ sở UBND cẫp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi.

Bước 5: Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền.

Bước 6: Phòng Tài nguyên và môi trường thẩm định Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chuẩn bị hồ sơ thu hồi đất.

Bước 7: Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm ký Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày theo thẩm quyền như sau:

– Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam và trường hợp đối tượng sử dụng đất thuộc thẩm quyền thu hồi đất của Ủy ban nhân dân tỉnh đã có văn bản ủy quyền.

Bước 8: Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến từng người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Bước 9: Tổ chức làm nghiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt. Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì thực hiện như sau:

– Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;

– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành Quyết định cưỡng chế thực hiện Quyết định thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế đối với trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;

– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập Ban thực hiện cưỡng chế đối với trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;

– Ban thực hiện cưỡng chế lập Phương án cưỡng chế và dự toán kinh phí cho hoạt động cưỡng chế trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt;

– Lực lượng Công an căn cứ vào phương án cưỡng chế thu hồi đất để xây dựng Kế hoạch bảo vệ trật tự, an toàn trong quá trình tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất;

– Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế; nếu người bị cưỡng chế chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành;

– Ban thực hiện cưỡng chế thực hiện cưỡng chế theo phương án đã được phê duyệt nếu có đủ 4 điều kiện (Điều kiện 1: Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục; Điều kiện 2: Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; Điều kiện 3: Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành; Điều kiện 4: Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành); có quyền buộc người bị cưỡng chế và những người có liên quan phải ra khỏi khu đất cưỡng chế, tự chuyển tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế; nếu không thực hiện thì Ban thực hiện cưỡng chế có trách nhiệm di chuyển người bị cưỡng chế và người có liên quan cùng tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế; trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải lập biên bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật và thông báo cho người có tài sản nhận lại tài sản; Ban thực hiện cưỡng chế giao tài sản cho Ủy ban nhân dân cấp xã bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật nếu người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản; bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Bước 10: Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm quản lý đất đã được giải phóng mặt bằng

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ MAI KIM PHUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *