Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Thanh Khê

Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Thanh Khê

Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường nên các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng xảy ra khá phổ biến trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, trong đó có quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Thực trạng này đặt ra vấn đề cần tăng cường đấu tranh phòng, chống

Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc phát hiện xử lý các tội xâm phạm sở hữu, BLHS hiện hành quy định khá chi tiết, cụ thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Mặc dù vậy, qua một thời gian áp dụng cho thấy quy định của Bộ luật này về tội trộm cắp tài sản đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt.

Về mặt lý luận, xoay quanh một số vấn đề về tội trộm cắp tài sản vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhất là vấn đề ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính đối với hành vi trộm cắp tài sản.

Về mặt thực tiễn, do nhận thức được tầm quan trọng của việc xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên trong những năm qua TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án, hạn chế đến mức thấp nhất các bản án, quyết định bị sửa, bị hủy do lỗi chủ quan của thẩm phán. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn một số ít trường hợp áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ án về tội trộm cắp tài sản chưa đúng, dẫn tới việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt chưa thật sự chính xác, dẫn tới sai sót cần phải khắc phục.

Như vậy, cả về lý luận, quy định của luật thực định và thực tiễn áp dụng để giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu để nhận thức và áp dụng đúng đắn pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trong thời gian tới.

Xuất phát từ lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài:“Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ: Luật học, Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu luận văn là hướng tới làm sâu sắc thêm về lý luận, đánh giá quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

+ Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản;

+ Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, rút ra những mặt tích cực cũng như hạn chế, sai sót và nguyên nhân;

+ Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn

Là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới góc độ Luật hình sự và tố tụng hình sự

Về thực tiễn, luận văn tập trung nghiên cứu hai nội dung cơ bản của áp dụng pháp luật hình sự là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trong xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Về thời gian: từ năm 2015 – 2019

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm và đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân.

Ngoài ra, luận văn còn dựa trên những tri thức nền tảng của khoa học luật hình sự để luận giải đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia… để làm rõ từng nội dung nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận của khoa học luật hình sự về tội phạm cụ thể như: khái niệm, các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt; dấu hiệu phân định giữa tội phạm với hành vi trộm cắp không phải là tội phạm.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản; khắc phục những hạn chế, sai sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết vụ án của TAND, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cơ cấu thành ba chương

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản

Chương 2. Thực tiễn về pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản.

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm, khái niệm cơ bản nhất, đóng vai trò là cơ sở để xây dựng khái niệm về từng tội phạm cụ thể, cũng như các khái niệm khác liên quan đến tội phạm.

Khái niệm tội trộm cắp tài sản là một trong những khái niệm về một tội phạm cụ thể, do vậy phải được xây dựng dựa trên khái niệm tội phạm nói chung.

Hiện nay, xoay quanh khái niệm tội phạm có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhất là việc phản ánh các dấu hiệu (đặc điểm) đặc trưng của tội phạm trong nội hàm khái niệm. Song dựa trên định nghĩa lập pháp về khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành, đa số các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam đều thống nhất cho rằng: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và phải bị xử lý hình sự”.

Từ khái niệm này cho thấy, tội phạm với tính chất là một hiện tượng xã hội, pháp lý, có các đặc điểm đặc trưng khác với các hiện tượng không phải là tội phạm, đó là:

+ Đặc điểm “Là hành vi nguy hiểm cho xã hội” (tính nguy hiểm cho xã hội).

Trước hết, tội phạm phải là hành vi của con người. Hành vi bị coi là tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều đó có nghĩa là: Về mặt khách quan, hành vi bị coi là tội phạm phải gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đáng kể cho những lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ.

Đây là đặc điểm phản ánh nội dung chính trị – xã hội của tội phạm, đặc điểm quan trọng nhất, quyết định các đặc điểm khác của tội phạm (đặc điểm về hình thức và hậu quả pháp lý của tội phạm).

+ Đặc điểm “được quy định trong BLHS”

Đặc điểm này cho thấy chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS mới có thể bị coi là tội phạm, nghĩa là hành vi bị coi là tội phạm phải là những xử sự trái với quy định của BLHS, cấm thực hiện hoặc cấm không thực hiện (phải thực hiện khi có điều kiện để thực hiện). Đây chỉ là đặc điểm về hình thức pháp lý của tội phạm, phản ánh đặc điểm nội dung của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội), nhưng có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng. Bởi việc khẳng định tội phạm phải có đặc điểm này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế, là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện pháp luật quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm” (Khoản 2 Điều 11)

+ Đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”.

Đây là dấu hiệu về chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo đó họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà luật định và không trong “Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khách làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình. Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực pháp lý được Nhà nước xác định và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Đồng thời, năng lực trách nhiệm hình sự cũng là điều kiện để chủ thể thực hiện hành vi có thể có lỗi. Do có ý nghĩa như vậy, nên dấu hiệu về chủ thể “Có năng lực trách nhiệm hình sự” cần được coi là một dấu hiệu của tội phạm [16, tr.58].

+ Đặc điểm “Thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”

Đặc điểm này cho thấy, tội phạm phải là hành vi có lỗi, tức là phải do chủ thể cố ý hoặc vô ý thực hiện. Việc thừa nhận dấu hiệu này là một dấu hiệu độc lập của tội phạm cho thấy, Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào việc một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Do vậy, “tính có lỗi” phải được xác định là một đặc điểm của tội phạm.

+ Đặc điểm “phải bị xử lý hình sự”.

Đây là đặc điểm thể hiện hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm, mà là đặc điểm có tính quy kết, kèm theo của tội phạm; nó được xác định bởi chính những thuộc tính bên trong của tội phạm. Theo đó, chỉ những hành vi bị coi là tội phạm thì mới “phải bị xử lý hình sự”, không có tội phạm thì cũng không có biện pháp “xử lý hình sự”. Đây là lý do mà BLHS năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lý hình sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8.

Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm nói chung, do vậy cũng có đầy đủ những đặc điểm, đặc trưng chung của tội phạm. Mặc dù vậy, khi đưa ra các khái niệm khoa học về tội trộm cắp tài sản, các nhà nghiên cứu luật hình sự chỉ tập trung phản ánh những đặc điểm (dấu hiệu) riêng có của tội phạm này, chẳng hạn như:

Tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản[43, tr.49]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác[31, tr.196]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút” [4, tr.199].

Qua đây thấy rằng, các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam có nhiều cách diễn đạt khác nhau khi đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản, nhưng đều thống nhất ở chỗ, tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.

Chúng tôi cho rằng, các định nghĩa nêu trên mới chỉ là những định nghĩa khái quát về tội trộm cắp tài sản, phản ánh đặc điểm đặc trưng riêng có của tội trộm cắp, đó là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.

Theo chúng tôi, để đưa ra được một khái niệm đầy đủ về tội trộm cắp tài sản thì trong nội hàm khái niệm này phải thể hiện được đầy đủ các đặc điểm, đặc trưng của tội phạm này. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ và theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự”.

Như vậy, khái niệm này không chỉ thể hiện được những dấu hiệu (đặc điểm) chung của tội phạm mà còn thể hiện được dấu hiệu (đặc điểm) riêng của tội trộm cắp tài sản, đó là “lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác nắm giữ”.

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

* Những dấu hiệu định tội

Nghiên cứu lý luận và quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản thấy rằng, tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau đây:

– Dấu hiệu khách thể, đối tượng tác động của tội phạm.

Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Quyền sở hữu tài sản gồm ba quyền năng cụ thể, đó là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Khi tài sản bị trộm cắp chủ sở hữu sẽ mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản bị chiếm đoạt.

Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản đang có người quản lý, nghĩa là: tài sản đó đang ở trong sự chiếm hữu, sự chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc tài sản đang nằm trong khu vực quản lý của chủ tài sản. Với đặc điểm như vậy thấy rằng, những hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý, hoặc chưa có người quản lý đều không phải là hành vi trộm cắp tài sản.

– Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

Mặc dù điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản nhưng cả lý luận và thực tiễn đều thừa nhận hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là “Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý”

Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu: về mặt khách quan, hành vi này được thực hiện bằng hình thức có khả năng không cho chủ tài sản (người quản lý tài sản) biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra; Về mặt chủ quan, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Đối với chủ tài sản, người phạm tội không chỉ che giấu mặt thực tế của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn che giấu tính chất bất hợp pháp của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, đối với những người không phải là chủ tài sản, không biết rõ nguồn gốc tài sản thì có trường hợp người phạm tội chỉ che giấu tính chất bất hợp pháp của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Tội trộm cắp tài sản được nhà lập pháp quy định dưới dạng cấu thành tội phạm vật chất. Do vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm hữu được tài sản trên thực tế. Để xác định thời điểm tài sản đã được chiếm hữu trên thực tế phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể là: nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ gọn thì chỉ coi là đã chiếm hữu được khi người phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người; nếu tài sản bị chiếm đoạt không thuộc loại nhỏ gọn thì chỉ coi là chiếm hữu được khi người phạm tội đã mang được tài sản ra khỏi khu vực quản lý; nếu tài sản bị chiếm đoạt là tài sản để ở nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì chỉ coi là chiếm hữu được khi đã dịch chuyển được tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.

– Dấu hiệu chủ thể của tội phạm

Theo quy định của BLHS hiện hành, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định.

Như vậy, chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là cá nhân (thể nhân) mà không bao hàm pháp nhân thương mại

Cá nhân chỉ được coi là chủ thể của tội trộm cắp tài sản khi đáp ứng được những điều kiện sau:

+ Là con người cụ thể, đang sống đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác

+ Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định. Theo quy định của Điều 12 và Điều 173 BLHS hiện hành, thì: nếu hành vi được thực hiện, được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở lên; còn hành vi được thực hiện quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 14 tuổi trở lên.

+ Họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là không trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điều 21 BLHS).

– Dấu hiệu lỗi

Tội trộm cắp tài sản luôn được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp của chủ thể. Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, người phạm tội luôn mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác. Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản.

* Dấu hiệu phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với hành vi trộm cắp tài sản chưa phải là tội phạm (vi phạm pháp luật).

Theo quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành thì hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị trộm cắp phải có trị giá từ 02 triệu đồng trở lên. Trường hợp tài sản bị trộm cắp có trị giá dưới 02 triệu thì chỉ cấu thành tội phạm nếu có một trong những dấu hiệu sau đây:

+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm. Đây là trường hợp chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản (như công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…) chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm. Theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt hành chính [27, tr.18].

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Đây là trường hợp chủ thể đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản hoặc về một trong các tội chiếm đoạt tài sản quy định tại các Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 172 (tội công nhiên chiếm đoạt tài sản); Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 175 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) và Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội

Đây là trường hợp mới được quy định trong BLHS năm 2015. Đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn vào giải thích về tình tiết này. Tuy nhiên, căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội có thể hiểu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, là trường hợp hành vi trộm cắp tài sản, ngoài gây hậu quả về tài sản còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn công cộng ở một địa bàn nhất định, gây xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, hoặc tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân…

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ

Đây là cũng tình tiết mới bổ sung trong BLHS năm 2015 và cũng chưa được hướng dẫn, giải thích. Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ là tài sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình họ, nếu bị trộm cắp thì người bị hại và gia đình họ, sẽ lâm vào tình trạng hết sức khó khăn về kinh tế. Chẳng hạn, nguồn thu chính của gia đình người bị hại là thu từ việc sử dụng chiếc xe máy chở khách để kiếm tiền mưu sinh, nhưng đã bị người phạm tội trộm cắp mất.

+ Tài sản là di vật, cổ vật

Theo quy định tại Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2010 thì: di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên.

* Hình phạt là các dấu hiệu định khung hình phạt.

BLHS hiện hành quy định bố khung hình phạt chính đối với tội trộm cắp tài sản

– Khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành quy định khung hình phạt cơ bản gồm phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài sản trộm cắp dưới 50 triệu đồng.

– Khoản 2 của Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây:

+ Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm (đồng phạm có tổ chức).

+ Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp phạm tội trộm cắp tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu thập chính [33, tr.44]

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản bằng những thủ đoạn tinh vi để che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản, làm cho mọi người dễ nhầm và không cho rằng đó là hành vi trộm cắp tài sản; còn dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng thủ đoạn trộm cắp tài sản có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác.

+ Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường hợp người trộm cắp tài sản đã có hành vi chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Mục đích chống trả là để tẩu thoát. Nếu mục đích chống trả để giữ bằng được tài sản vừa trộm cắp được thì có sự chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản [16, tr.298].

+ Tài sản là bảo vật quốc gia: Đây là trường hợp đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là bảo vật quốc gia, tức là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học (Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2010).

+ Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 173 BLHS hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

– Khoản 3 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai (rất tăng nặng) có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh

– Khoản 4 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba (đặc biệt tăng nặng) có mức phạt tù từ 12 đến 20 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung tăng nặng sau đây:

+ Chiếm đoạt có trị giá 500 triệu đồng trở lên

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

– Khoản 5 Điều 178 BLHS, quy định phạt tiền từ 05 triệu đến 50 triệu là hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản

Những tình tiết (dấu hiệu) định khung hình phạt tăng nặng trên đây là cơ sở để xác định khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội

1.1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt khác

* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt được quy định tại Chương XVI BLHS: “Các tội xâm phạm sở hữu”

Trong BLHS hiện hành (Chương XVI) có quy định 8 tội có tính chất chiếm đoạt gồm: tội cướp tài sản (Điều 168); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169); tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); tội cướp giật tài sản (Điều 171); tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); tội trộm cắp tài sản (Điều 173); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175).

Những tội phạm này có nhiều dấu hiệu pháp lý giống tội trộm cắp tài sản như: có cùng khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản; hành vi phạm tội đều có tính chất chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý; đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp với động cơ, mục đích phạm tội có tính chất vụ lợi; chủ thể của tội phạm là chủ thể bình thường.

Tuy nhiên, so với các tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản có những điểm khác sau đây:

+ Về hành vi khách quan và thủ đoạn thực hiện hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (cũng như một số tội khác như: cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm…) là hành vi chiếm đoạt tài sản, còn hành vi khách quan của tội cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản thì hành vi khách quan của tội phạm không phải là hành vi chiếm đoạt, mà là hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 168 tội cướp tài sản; hoặc là hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản), (Điều 169 tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản )hoặc là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 170 tội cưỡng đoạt tài sản). Như vậy, đối với 03 tội phạm này “chiếm đoạt tài sản của người khác” được quy định là mục đích của việc thực hiện hành vi khách quan.

Nếu so với các tội có tính chất chiếm đoạt còn lại (cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) thì tội trộm cắp tài sản khác những tội phạm này ở thủ đoạn chiếm đoạt tài sản: Đối với tội cướp giật tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt là “công khai, nhanh chóng chiếm đoạt”; đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn “lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công khai chiếm đoạt tài sản”; đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn “gian dối”; đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn “lợi dụng niềm tin sẵn có của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản mà chủ tài sản giao cho trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản… sau đó dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc cố tình không trả lại tài sản đó mặc dù có điều kiện, khả năng để trả lại, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”.

+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt là ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính

Ở tội trộm cắp tài sản: trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu đồng trở lên mới xử lý hình sự, dưới mức đó chỉ có thể xử phạt hành chính (nếu không có tình tiết khác làm tăng tính nguy hiểm của hành vi).

Ở các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản và cướp giật tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt không có ý nghĩa đối với việc xử lý hình sự.

Ở các tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo thì trị giá tài sản chị chiếm đoạt cũng giống như tội trộm cắp, tức là phải từ 02 triệu đồng trở lên mới xử lý hình sự, dưới mức đó thì phải có bổ sung các dấu hiệu khác.

Riêng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 04 triệu đồng trở lên mức bị xử lý hình sự.

* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS năm 2015)

Theo quy định tại Điều 290 BLHS hiện hành thì tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong các hành vi sau đây nếu không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này:

a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;

d) Lừa đảo trong thương mại diện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;

đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.

Qua đây cho thấy, điểm khác cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản (Điều 173) với tội phạm này (Điều 290) là ở chỗ:

+ Về khách thể trực tiếp của tội phạm

Đối với tội trộm cắp tài sản, khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản

Đối với tội phạm này, khách thể trực tiếp là an toàn mạng máy tính, mạng viễn thông và phương tiện điện tử, một trong những lĩnh vực an toàn công cộng. Ngoài khách thể trực tiếp cơ bản này, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản còn xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ.

+ Về hành vi khách quan của tội phạm.

Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (Điều 173) chỉ là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn lén lút chứ không thông qua thủ đoạn sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như là ở tội quy định tại Điều 290 BLHS.

Hành vi khách quan của tội quy định tại Điều 290 BLHS là hành vi: sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức cá nhân để chiếm đoạt tài sản; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản…; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc chiếm đoạt tài sản không phải là hành vi khách quan mà là mục đích của việc thực hiện một trong những hành vi khách quan nêu trên.

+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt

Đối với tội trộm cắp tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu đồng trở lên mới xử lý hình sự (hành vi mới cấu thành tội phạm) dưới mức đó thì phải có bổ sung các dấu hiệu khác.

Còn đối với tội quy định tại Điều 290 thì trị giá tài sản mà người phạm tội có mục đích chiếm đoạt không có ý nghĩa định tội (nghĩa là bất kỳ có trị giá là bao nhiêu từ 02 triệu trở lên hay dưới 02 triệu)

Điều 290 BLHS còn quy định dấu hiệu “không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173…” Điều đó có nghĩa là các hành vi quy định tại Điều 290 cũng có thể được thực hiện bằng thủ đoạn lén lút và trị giá tài sản bị chiếm đoạt cũng từ 02 triệu đồng trở lên (đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản) thì sẽ bị xử lý về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS, mà không xử lý về tội quy định tại Điều 290 BLHS. Chẳng hạn, hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị từ 02 triệu đồng trở lên thì xử lý về tội trộm cắp tài sản (Điều 173); ngược lại, nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 02 triệu và không thuộc các trường hợp có bổ sung dấu hiệu khác mà BLHS quy định đối với tội trộm cắp tài sản thì sẽ xử lý về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS)

Nắm vững những điểm khác nhau này giúp cho việc định tội danh được chính xác, hạn chế sự nhầm lẫn giữa tội phạm này với tội phạm khác có liên quan.

1.1.4. Khái quát lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Định tội danh tội trộm cắp tài sản là một trong những trường hợp định tội danh đối với một hành vi phạm tội cụ thể, đó là hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, khái niệm định danh tội trộm cắp tài sản phải được xây dựng dựa trên khái niệm chung về định tội danh.

Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về định tội danh như: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự[46, tr.10]; hoặc “Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cụ thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [44, tr.71].

Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về định tội danh, nhưng đều thống nhất ở chỗ, định tội danh thực chất là việc xác định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện, tức là xác định sự phù hợp (đồng nhất) giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.

Kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm nêu trên về định tội danh, người nghiên cứu cho rằng: “Định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc xác định sự phù hợp, tương đồng giữa các dấu hiệu (tình tiết) của hành vi trộm cắp tài sản cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành”.

Từ khái niệm trên cho thấy, định tội danh tội trộm cắp tài sản thực chất là việc đánh giá chính xác về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được thực hiện trên thực tế; Là hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc xác định và ghi nhận sự phù hợp giữa những tình tiết của vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên thực tế với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS.

Định tội danh tội trộm cắp tài sản còn là một trong những hoạt động thực tiễn pháp lý, một nội dung cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm giải quyết đúng đắn vụ án về tội trộm cắp tài sản. Hoạt động này (định tội danh) thường được triển khai qua một số bước nhất định như: xác định đúng, khách quan các tình tiết của vụ án trộm cắp tài sản, tìm hiểu, nhận thức đầy đủ nội dung các quy phạm pháp luật hình sự quy định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, bắt buộc đối với tội trộm cắp tài sản; Xác định sự tương đồng, phù hợp giữa các dấu hiệu (tình tiết) thực tế của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định trong BLHS trên cơ sở chứng cứ, tài liệu thu thập được… Như vậy, việc định tội danh tội trộm cắp tài sản không thể không dựa vào các quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản Vì đây là những quy phạm pháp luật hình sự quy định khuôn mẫu pháp lý (cấu thành tội phạm) của tội trộm cắp tài sản.

Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, việc định tội danh tội trộm cắp tài sản được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự và do nhiều chủ thể có thẩm quyền tiến hành như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm. Ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, đặc biệt ở giai đoạn xét xử thì việc xác định tội danh tội trộm cắp tài sản phải bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.

1.1.5. Lý luận về quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án về tội trộm cắp tài sản. Do vậy, về mặt lý luận phải nhận thức một cách đúng đắn và toàn diện về quyết định hình phạt đối với tội phạm này.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về quyết định hình phạt như: “Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự, thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội, thể hiện trong bản án kết tội” [47, tr.298] hoặc: “Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc nếu tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phạt là việc xác định loại, mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với bị cáo” [22, tr.63]

Từ những khái niệm nền tảng về quyết định hình phạt nêu trên, theo chúng tôi có thể hiểu: “Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là việc Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của BLHS, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, lựa chọn loại, mức hình phạt cụ thể được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản và được thể hiện trong bản án buộc tội”.

Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, quyết định hình phạt đúng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản có ý nghĩa rất lớn, là cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt. Ngoài ra, quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp đúng còn là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hình phạt đã tuyên, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả của hình phạt.

Khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử phải tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt, đó là:

+ Căn cứ vào quy định của BLHS;

Khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử phải căn cứ vào các quy định của phần chung và phần các tội phạm của BLHS có liên quan đến việc quyết định hình phạt đối với tội phạm này, đặc biệt là phần chế tài của quy phạm pháp luật hình sự được thể hiện ở Điều 173 BLHS hiện hành.

+ Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trộm cắp tài sản.

Đây là căn cứ hết sức quan trọng, giúp Hội đồng xét xử có cơ sở vững chắc để lựa chọn loại, mức hình phạt cụ thể tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản, đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt

+ Căn cứ vào nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trộm cắp, Hội đồng xét xử cần cân nhắc những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội, phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng.

+ Căn cứ vào những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có trong vụ án trộm cắp tài sản

Căn cứ vào những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có trong vụ án trộm cắp tài sản giúp Hội đồng xét xử đánh giá đầy đủ, toàn diện Hơn về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, người phạm tội trộm cắp tài sản.

Tóm lại, khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử phải xem xét, cân nhắc tất cả các căn cứ nêu trên, không thể quá coi trọng hoặc bỏ qua bất kỳ căn cứ nào. Có như vậy, loại, mức hình phạt cụ thể mà Hội đồng xét xử lựa chọn để áp dụng đối với người bị kết án về tội trộm cắp tài sản mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ thực hiện.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ NGUYEN CAO CUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *