Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế

Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng

Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình kinh tế xã hội nước ta nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng có những bước phát triển mạnh mẽ. Khủng hoảng kinh tế từng bước được đẩy lùi thay vào đó là sự phát triển ổn định về mọi mặt. Bộ máy nhà nước ngày càng được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực quản lý nhà nước đối với toàn xã hội. Đời sống cán bộ công nhân, viên chức và nhân dân lao động từng bước được cải thiện. Bên cạnh những mặt tích cực, năng động do nền kinh tế thị trường mang lại, thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động đến đời sống xã hội, tình hình vi phạm pháp luật cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, đặc biệt là những tội phạm trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng.

Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, tội phạm kinh tế mặc dù chỉ chiếm 2% trong tổng số tội phạm xảy ra trên địa bàn nhưng thiệt hại về kinh tế chiếm tỉ lệ không nhỏ trong tổng số thiệt hại về tài chính do tội phạm gây ra. Tội phạm kinh tế, nhất là nhóm tội phạm tham nhũng, cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng cũng như quy mô và tính chất.

Thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm đối các vụ án cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong trong những năm qua cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Quảng Bình đã có nhiều tiến bộ nhưng do tội phạm này thường có tính chất phức tạp, nó liên quan đến nhiều các cơ quan, ban ngành, nhiều lĩnh vực vì vậy vấn đề đấu tranh, phòng chống tội phạm cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng đang là vấn đề nóng hiện nay.

Một số vụ việc đã được phát hiện và xử lý kịp thời, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm kinh tế nói chung và tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có trường hợp xác định tội danh, quyết định hình phạt chưa chính xác dẫn đến việc giải quyết vụ án chưa nghiêm minh. Vì vậy việc nghiên cứu tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng dưới một góc nhìn từ thực tiễn tại một địa phương nhất định không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong thực tiễn áp dụng của công tác định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế định này trong BLHS Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” để viết luận văn tốt nghiệp cao học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu

Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo pháp luật Hình sự Việt Nam. Nêu và phân tích những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình phạt về mặt lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Từ đó rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế và đề ra một số giải pháp khắc phục trong hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt tại tỉnh Quảng Bình trong 5 năm qua (từ năm 2010 đến năm 2014), góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

– Làm rõ sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo pháp luật hình sự Việt Nam; khái niệm, những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

– Nêu và phân tích những vấn đề chung về định tội danh, thực tiễn định tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng tại Quảng Bình, Những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân và giải pháp khắc phục.

– Nêu và phân tích những vấn đề chung về quyết định hình phạt về mặt lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế và đề ra một số giải pháp khắc phục trong hoạt động quyết định hình phạt tại tỉnh Quảng Bình trong 5 năm qua.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự trong phạm vi trên địa bàn tỉnh Quảng Bình và trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước ta về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng.

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã có sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, như phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp, phương pháp lịch sử… Tác giả đã sử dụng các phương pháp một cách linh hoạt, đan xen lẫn nhau để đạt được kết quả nghiên cứu cao nhất làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Luận văn thạc sĩ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống dưới góc độ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Công trình này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Về mặt lý luận, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu của học viên. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng việc giải quyết những vụ án phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn được cấu trúc thành ba chương:

Chương 1: Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về QLKT gây hậu quả nghiêm trọng theo pháp luật hình sự Việt Nam

Chương 2: Thực tiễn định tội danh tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về qLKT gây hậu quả nghiêm trọng tại tỉnh Quảng Bình

Chương 3: Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về QLKT gây hậu quả nghiêm trọng tại tỉnh Quảng Bình

Chương 1

TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

    1. 1.1. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm trái quy định 
      1. 1.1.1. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về QLKT

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước ta đã ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và các chính sách pháp luật phù hợp với tình hình thực tế góp phần bảo vệ nền độc lập của dân tộc, xây dựng đất nước.

Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954, để làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế Chính phủ đã ban hành một số sắc lệnh quan trọng như: Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/2/1946 về trừng trị tội phá hoại cộng sản; Sắc lệnh 223/SL ngày 17/11/1946 quy định truy tố các tội hối lộ, biển thủ công quỹ. Trong một loạt các hành vi phạm tội trên, có chứa đựng một phần nào hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế mà sau này được quy định thành một tội riêng.

Hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế trong giai đoạn này chưa được quy định trong các văn bản chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách cụ thể mà nó được đan xen cùng với một số tội phạm khác.

Thời kỳ từ 1954 đến năm 1975: Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một loạt các chính sách pháp luật, trong đó có những quy phạm để trừng trị và răn đe những hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế.

Ngày 15/6/1956 Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 267-SL về trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa

Điều 4 của Sắc lệnh 267 ngày 15/6/1956 quy định như sau: “Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch kinh tế và văn hóa của nhà nước bằng bất cứ cách nào như: tuyên truyền chống phá chính sách, chống kế hoạch, phao đồn tin bịa đặt gây sự nghi ngờ hoang mang trong quần chúng, hành động chống chính sách, chống kế hoạch, không làm hoặc làm sai công việc mình phụ trách, làm gián đoạn công việc thường xuyên; kìm hãm sự phát triển của một bộ phận, một ngành hoạt động, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ công nhân viên, cán bộ, xã viên hoặc chia rẽ nhân dân và cán bộ …sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù”.

Ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 12 Pháp lệnh quy định tội cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế, tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa như sau: “Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ và thể lệ về kinh tế tài chính, gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt…”. Theo các khung hình phạt của điều luật, thì tội này có hình phạt tù từ 6 đến 20 năm.

Hành vi cố ý làm trái trong giai đoạn này chủ yếu là hành vi làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế. Những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế được Nhà nước đặt ra nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế của Nhà nước đi đúng đường lối kinh tế XHCN.

Giai đoạn từ năm 1976 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985: Sau khi đất nước thống nhất, nước ta đã bắt tay vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh, đẩy mạnh phát triển kinh tế đưa cả nước cùng tiến lên CNXH.

Nhằm bảo vệ cơ chế quản lý kinh tế và sở hữu XHCN, năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên được ban hành đã quy định hành vi cố ý làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước gây hậu quả nghiệm trọng là một tội nguy hại cần phải được ngăn chặn, xử lý. Hành vi này đã được quy định tại Điều 174 chương VII các tội phạm về kinh tế BLHS năm 1985 quy định:

1. Người nào vì vụ lợi mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế do Nhà nước quy định gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.[3]

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thì tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng có các dấu hiệu đặc trưng sau đây.

Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt, phải là những người có chức vụ quyền hạn. Những người không có chức vụ quyền hạn chỉ có thể là đồng phạm.

Có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn cố ý làm trái, những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế do Nhà nước quy định. Chủ thể của tội này đều biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật, trái với quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế mà vẫn dùng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện.

Đã gây hậu quả nghiêm trọng, thể hiện bằng thiệt hại về vật chất có thể tính toán được, hậu quả về chính trị làm hư hỏng cán bộ, lũng đoạn tổ chức, gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch quản lý kinh tế của Nhà nước, đến việc bảo đảm đời sống của nhân dân. Nếu trong trường hợp chưa có hậu quả nghiêm trọng thì phải có dấu hiệu “đã bị xử lý về hành chính mà còn vi phạm” là dấu hiệu bắt buộc. Có mục đích “vụ lợi” tức là thu vén cho lợi ích có tính chất cục bộ địa phương, hoặc lợi ích của cá nhân trái phép.

Với quy định như trên thì số hành vi bị coi là tội phạm quy định tại Điều174 Bộ luật hình sự 1985 là rất lớn trong khi đó nhiều chế độ, chính sách về quản lý kinh tế ban hành trước đây không còn phù hợp nữa. Vì vậy việc đánh giá chứng cứ vận dụng đường lối xử lý tội này gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, cần phải xem xét lại tính khả thi của Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985. Đó chính là lý do dẫn tới ngày 28/12/1989 Quốc hội sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985 (trong đó có Điều 174), cho phù hợp. Sau lần sửa đổi này các dấu hiệu của tội phạm bớt đi dấu hiệu “đã bị xử lý về hành chính mà còn vi phạm” còn tính chất của hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, về cơ bản vẫn giữ nguyên so với quy định từ khi mới ban hành. Qua một thời gian áp dụng tính khả thi của điều luật vẫn còn nhiều hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi nội dung của điều luật.

Với lý do đó ngày 22/12/1992 Nhà nước ta tiếp tục sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985, trong đó có Điều 174 tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng được sửa đổi lại như sau:

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:

a) Phạm tội vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác;

b) Phạm tội có tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

"<yoastmark

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.[3]

Sau khi đã được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của loại tội phạm này, về bản chất thì không có gì thay đổi. Nhưng về dấu hiệu của tội phạm đã bớt đi dấu hiệu “vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác”, theo quy định tại khoản 1 điều luật quy định “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt…”. Do vậy chỉ cần người nào có hành vi cố ý làm trái những quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng là đủ yếu tố cấu thành tội này.

      1. 1.1.2.  Bộ luật hình sự năm 1999

Thời kỳ đổi mới, nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình kinh tế – xã hội nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những mặt tích cực, năng động do nền kinh tế thị trường mang lại, thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động đến đời sống xã hội, do đó, tình hình vi phạm pháp luật cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, trong đó có tội cố ý làm trái những quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đặt ra yêu cầu một mặt phải xây dựng một khung pháp luật hoàn chỉnh nhằm khuyến khích, phát huy mạnh mẽ các yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, mặt khác, phải định rõ những điều nghiêm cấm với những chế tài nghiêm khắc không chỉ về hành chính, dân sự mà cả về hình sự nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những mặt trái, tiêu cực của cơ chế.

Nhằm đáp ứng kịp thời công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngày 21/12/1999 Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng vẫn được giữ lại và được quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 để không bị lọt các hành vi phạm tội mà chúng ta chưa thể lường hết được trong hoạt động quản lý kinh tế hiện nay.

Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng như sau:

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng, hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác;

b) Có tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

d) Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.

3. Phạm tội gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. [2]

Như vậy Điều 174 Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi thành Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định một cách cụ thể và rõ ràng hơn. Ngoài ra hình phạt bổ sung này còn có tính chất bồi hoàn lại một phần hoặc toàn bộ những thiệt hại do hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra, nghĩa là người phạm tội ngoài phải chịu trách nhiệm hình sự còn phải chịu cả trách nhiệm dân sự, hành chính… Giúp cho các cơ quan tố tụng phát hiện, xử lý được nhanh chóng và chính xác. Góp phần có hiệu quả vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nói riêng, đưa nền kinh tế của nước ta ngày càng ổn định và phát triển.

    1. 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý 
      1. 1.2.1. Khái niệm 

Trong điều kiện nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ, hoạt động kinh tế hết sức sôi động đặt ra yêu cầu quản lý hoạt động kinh tế nhằm mục đích điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo trật tự theo định hướng XHCN là đòi hỏi khách quan của Nhà nước ta. Vai trò bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước thuộc về Luật Hình sự bằng cách qui định tội phạm và hình phạt áp dụng đối với người có hành vi xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế. Việc qui định các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hướng tới mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh, hạn chế tiêu cực trong hoạt động kinh tế.

Kế thừa chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, đồng thời phản ánh kết quả phát triển của nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn cải cách, đổi mới hiện nay. Theo đó, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước

Tội cố ý làm trái các qui định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 BLHS năm 1999 được hiểu là việc người có trách nhiệm quản lý kinh tế có hành vi làm trái các qui định của Nhà nước về quản lý kinh tế, tài chính, gây hậu quả làm thất thoát nghiêm trọng về tài sản hoặc gây ảnh hưởng tiêu cực đối với lĩnh vực hoạt động kinh tế.

Để đưa ra được khái niệm chính xác tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cần phải làm rõ một số vấn đề sau

“Cố ý làm trái quy định của Nhà nước” tức là cố ý làm không đúng hoặc cố ý không thực hiện những quy định mà Nhà nước đặt ra, trong trường hợp này quy định ở đây là những quy định trong quản lý kinh tế.

“Quản lý kinh tế” để hiểu được vấn đề này, cần phải làm rõ thế nào là “quản lý” và thế nào là “kinh tế”.

Theo Từ điển Tiếng Việt thì “quản lý” được hiểu là “tổ chức, điều khiển và theo dõi thực hiện những đường lối của chính quyền quy định [24].

Trong giáo trình quản lý học đại cương thì đưa ra khái niệm quản lý như sau “quản lý là sự tác động có tính chất, có định hướng của chủ thể lên các khách thể nhằm đạt được mục tiêu định trước” [9].

“Kinh tế” trong hệ thống pháp luật cũng như trong lý luận về pháp luật ở nước ta hiện nay, còn tồn tại khá nhiều các quan niệm về kinh tế. Kinh tế là phạm trù rất rộng. “Nếu xét ở góc độ tổ chức, kinh tế được hiểu là toàn bộ các hoạt động nhằm làm ra của cải và tiêu thụ của cải đó. Xét ở khía cạnh quan hệ xã hội, thì kinh tế là tổng hợp các quan hệ sản xuất (hay quan hệ kinh tế) trong một xã hội cụ thể” [17] .

Theo giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, thì khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế được hiểu như sau:

Quản lý nhà nước về kinh tế hay còn gọi là quản lý hành chính kinh tế, là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính trên tất cả các lĩnh vực bao gồm tất cả các thành phần kinh tế [20].

Theo quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng như sau: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng…”.[2]

Tóm lại, tội cố ý làm trái được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Tội phạm cố ý làm trái không những xâm phạm sự hoạt động quản lý kinh tế đúng đắn của Nhà nước mà còn gây thiệt hại nghiêm trọng về vật chất cho xã hội.

      1. 1.2.2. Dấu hiệu pháp lý 

Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm là một nội dung quan trọng nhất trong việc xác định tội phạm, nó tổng hợp những  yếu tố cấu thành nên một tội phạm mà nếu thiếu một trong những yếu tố này thì hành vi sẽ không cấu thành tội phạm. Dấu hiệu pháp lý là những yếu tố đặc trưng của các loại tội phạm  cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Chỉ khi nào có đầy đủ các dấu hiệu này thì hành vi vi phạm pháp luật mới được coi là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu bao gồm: khách thể, chủ thể, khách quan, chủ quan, ngoài ra còn có các dấu hiệu định khung hình phạt.

 cụ thể:

1.2.2.1. Khách thể 

Khách thể của tội phạm là một thành phần không thể thiếu trong bất kỳ một tội phạm nào. Đó là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của hành vi phạm tội. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể như: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (khoản 1 điều 8 BLHS)”

"<yoastmark

Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể, đối tượng tác động của tgây hậu quả nghiêm trọng là các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Các quy định của Nhà nước có rất nhiều và thường được thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội. Vì vậy, khi muốn xác định một hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế cần phải căn cứ vào một văn bản cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét hành vi đó là trái quy định nào, ở văn bản nào của Nhà nước nói chung, các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế được thể hiện dưới dạng các văn bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định…, văn bản của các Bộ, các Ngành có giá trị áp dụng chung trong phạm vi toàn quốc. Các văn bản do chính quyền địa phương ban hành có giá trị trong phạm vi địa phương trên cơ sở các văn bản của Nhà nước trung ương và không trái với quy định của văn bản trung ương thì cũng được coi là những quy định về quản lý kinh tế.

Phân tích 

Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện không đúng các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế.:

– Khách thể của tội phạm: là trật tự quản lý kinh tế, mà cụ thể là các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Đối tượng tác động của tội phạm này là các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế.

– Chủ thể của tội phạm: Đây là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

– Mặt khách quan của tội phạm: Thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Hành vi cố ý làm trái có thể là thực hiện không đúng (hành động) hoặc không thực hiện (không hành động) các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Hành vi chỉ cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng. 

– Mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội có lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi cố ý  là nguy hiểm cho xã hội, thấy được hậu quả sẽ xảy ra nhưng vi vu lợi hay động cơ cá nhân nên người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ vụ lợi hay động cơ cá nhân khác không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. 

Tuy nhiên, hiện nay (gọi chung là Bộ luật Hình sự năm 2015) đang có hiệu lực thi hành không còn quy định về “T gây hậu quả nghiêm trọng”. Thay vào đó. Bộ luật Hình sự hiện hành đã bổ sung một số tội danh mới mang đặc trưng của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước vào từng lĩnh vực cụ thể. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định 41 tội danh xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thuộc 3 nhóm lĩnh vực:

  • Sản xuất, kinh doanh, thương mại;
  • Thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm;
  • Lĩnh vực kinh tế khác.

Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự hiện hành cũng có một số điều khoản mang tính chất ”cố ý làm trái” trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ngoài ra, trong chương các tội phạm về chức vụ cũng đã quy định một số tội danh liên quan đến hành vi “cố ý làm trái” của người có chức vụ, quyền hạn như: tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ

Với việc thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015 thì mọi trường hợp phạm tội từ ngày 01/01/2018 đều được áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự để xem xét giải quyết. Đối với trường hợp xảy ra trước ngày 01/01/2018 mà sau đó mới bị phát hiện thì áp dụng Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng căn cứ Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Bộ luật Hình sự năm 2015 để xác định tội phạm, định khung hình phạt, quyết định hình phạt và áp dụng các biện pháp xử lý hình sự khác đối với người phạm tội.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay thế, gây hậu quả nghiêm trọng bằng một số tội danh dưới đây. Với mỗi trường hợp cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra hậu quả nghiêm trọng khác nhau, mức xử lý hình sự có sự khác nhau. Cụ thể: 

  • Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217) 

– Hành vi vi phạm cấu thành tội này: Người thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng:

+ Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;

+ Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan 30% trở lên thuộc một trong các trường hợp: thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.

– Tình tiết tăng nặng: phạm tội 02 lần trở lên; Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền; Thu lợi bất chính 3.000.000.000 đồng trở lên; Gây thiệt hại cho người khác 5.000.000.000 đồng trở lên.

– Hình phạt được áp dụng đối với cá nhân: phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm, phạt tù có thời hạn đến 05 năm. Áp dụng hình phạt bổ sung: phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

– Hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; cấm kinh doanh hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

  • Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Điều 218)

– Dấu hiệu cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho người khác từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng:

+ Lập hồ sơ khống, hồ sơ giả tham gia hoạt động bán đấu giá tài sản;

+ Thông đồng dìm giá hoặc nâng giá trong hoạt động bán đấu giá tài sản.

– Dấu hiệu cấu thành định khung tăng nặng với các tình tiết định khung: Có tổ chức, Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên, Gây thiệt hại cho người khác 300.000.000 đồng trở lên, Phạm tội 02 lần trở lên, Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.

– Các hình phạt được áp dụng là: phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù có thời hạn đến 05 năm. Áp dụng hình phạt bổ sung là “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

  • Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219)

– Hành vi cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

– Tình tiết định khung tăng nặng: Vì vụ lợi, Có tổ chức; Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; Gây thất thoát, lãng phí từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; Gây thất thoát, lãng phí 1.000.000.000 đồng trở lên.

– Về hình phạt được áp dụng bao gồm: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; phạt tù có thời hạn đến 20 năm. Ngoài ra, còn có thể áp dụng thêm hình phạt bổ sung là: Cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

  • Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220)

– Hành vi cấu thành cơ bản quy định việc xử lý hình sự đối với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này: 

+ Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư;

+ Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư;

+ Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án;

+ Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.

– Tình tiết định khung tăng nặng: Thực hiện hành vi phạm tội vì vụ lợi; Có tổ chức; Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc từ 1.000.000.000 đồng trở lên.

– Về hình phạt được áp dụng: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; phạt tù có thời hạn đến 20 năm. Ngoài ra còn bị áp dụng hình phạt bổ sung là: cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HINH SU\NGUYEN TIEN HUNG + TRAN VAN TUNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *