Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Tòa án được xác định là cơ quan có vai trò quan trọng đặc biệt. Tòa án được xác định là cơ quan duy nhất có thẩm quyền nhân dân Nhà nước xét xử các vụ án, là nơi công khai kiểm tra, xem xét các hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng trong vụ án.

Thực tiễn xét xử sơ thẩm VAHS từ huyện Hòa Vang- thành phố Đà Nẵng cho thấy bên cạnh những chuyển biến tích cực góp phần nâng cao chất lượng xét xử thì vẫn còn có nhiều bất cập cả trên phương diện thể chế (các quy định của BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành) và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật.

Xét xử sơ thẩm VAHS đòi hỏi phải đảm bảo tính tranh tụng nhưng trong hệ thống các nguyên tắc tố tụng lại chưa quy định nguyên tắc tranh tụng. Các quy định về trình tự, thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa chưa thống nhất với các nguyên tắc cũng như điều kiện khác trong BLTTHS, kỹ năng điều khiển phiên tòa của Thẩm phán người được phân công làm chủ tọa phiên tòa còn nhiều bất cập, hạn chế; việc xét hỏi, tranh luận còn mang tính hình thức; nhiều vụ án Kiểm sát viên không tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác cũng như việc Luật sư bào chữa không làm tròn hết trách nhiệm của mình.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đó, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, định hướng cải cách tư pháp và được thể hiện tập trung tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/2/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ những hạn chế của công tác tư pháp, cụ thể là chính sách hình sự, chế định pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, không còn phù hợp, cần được sửa đổi, bổ sung, trong đó không thể kể đến giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.

Trên phương diện nghiên cứu trong thời gian qua cũng có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này; tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề trên từ hướng tiếp cận xuất phát từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trên địa bàn huyện Hòa Vang- thành phố Đà Nẵng.

Hiện nay công tác xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại TAND huyện Hòa Vang còn có rất nhiều vướng mắc khi áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng tại huyện Hòa Vang. Vì vậy, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ về mặt lý luận pháp lý của các quy định về mặt tố tụng ở khâu xét xử sơ thẩm VAHS sẽ chỉ ra những bất cập trong thực tiễn và những nguyên nhân, hạn chế; trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp mang tính khoa học nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định xét xử sơ thẩm VAHS là một yêu cầu cấp thiết trong điều kiện hiện nay.

Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn chủ đề: “Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu có tính hệ thống các quy định của BLTTHS hiện hành về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS. Phân tích, đánh giá với thực trạng xét xử sơ thẩm VAHS từ thực tiễn huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng nhằm tìm ra những tồn tại, hạn chế trong việc xét xử sơ thẩm ở nước ta. Qua đó, tác giả đề xuất một số phương hướng góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hiện hành và một số giải pháp đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội.

Tác giả xác định mục đích việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản của BLTTHS năm 2003 trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và phiên toà xét xử sơ thẩm VAHS và làm sáng tỏ một cách có hệ thống về lý luận và pháp lý. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHS.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được các mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ xây dựng khái niệm, phân tích các đặc điểm cơ bản của hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS, đồng thời phân tích, đánh giá những quy định của BLTTHS 2003 đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS. Dựa trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định pháp luật đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS. Từ việc nghiên cứu và phân tích trên để xác định nguyên nhân hạn chế và định hướng khắc phục đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thứ nhất, các vấn đề lý luận chung về xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam.

Thứ hai, Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS và thực tiễn áp dụng tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Quá trình thụ lý hồ sơ, xác định thẩm quyền xét xử vụ án, các bước chuẩn bị xét xử sơ thẩm, trình tự, thủ tục xét sơ thẩm VAHS của TAND cấp huyện.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình xét xử sơ thẩm VAHS từ TAND huyện Hòa Vang trong 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014. Do đây là một vấn đề rộng và phức tạp trong phạm vi của luận văn tác giả không thể xem xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề trong quy định về xét xử sơ thẩm như: Thủ tục đặc biệt, xét xử theo thủ tục rút gọn; thủ tục xét xử đối với các vụ án là người chưa thành niên phạm tội, những vụ án cần xét xử kín…mà tập trung nghiên cứu thủ tục xét xử chung.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận văn

Trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện nội dung đề tài tác giả đã dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, xem đó là cơ sở phương pháp luận để giải quyết các vấn đề của luận văn.

Để làm sáng tỏ các nội dung trong đề tài, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống tác giả còn sử dụng các phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, so sánh, thống kê, phân tích và tổng hợp. Trong sự kết hợp giữa các phương pháp ở nhiều mức độ khác nhau thì phương pháp phân tích quy phạm pháp luật được xem là phương pháp chủ đạo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa lý luận: Đây là công trình nghiên cứu khoa học tương đối toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa quá trình xét xử sơ thẩm VAHS.

Ý nghĩa thực tiễn: Xác định đúng những điều kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng quy định của pháp luật đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS trong thực tiễn xét xử của TA cấp quận, huyện tại thành phố Đà Nẵng. Đồng thời đề xuất một số giải pháp về việc đào tạo cán bộ, quy hoạch, sắp xếp lại một số chương, điều luật liên quan, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các điều luật này ở khía cạnh lập pháp với mục đích chỉ dẫn, áp dụng pháp luật trong thực tiễn ngày một tốt hơn. Đề tài còn có thể là nguồn tài liệu tham khảo đối với một số người làm công tác xây dựng, nghiên cứu, giảng dạy và áp dụng pháp luật, Luật gia, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự, đồng thời là nguồn tài liệu gắn liền với công tác xét xử sơ thẩm VAHS của hệ thống ngành Toà án.

7. Cơ cấu luận văn

Lời mở đầu

Chương 1: Những vấn đề chung về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện

Chương 3: Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Hoà Vang, TP Đà Nẵng.

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

    1. . Khái niệm và ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam
      1. . Khái niệm về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tố tụng hình sự Việt Nam

Xét xử sơ thẩm VAHS là xét xử ở cấp thứ nhất, được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ khi thụ lý VAHS đến khi ra quyết định bản án có hiệu lực.

      1. . Đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự: “Điều tra, truy tố, xét xử là các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, là các phần độc lập, liên quan đến nhau của quá trình tố tụng hình sự, phân biệt với nhau bởi những quyết định tố tụng, có những nhiệm vụ tố tụng cụ thể khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, những người tham gia tiến hành tố tụng tương ứng, có trình tự, thủ tục thực hiện các hành vi tố tụng khác nhau và đặc tính tố tụng khác nhau”.

Đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS thì Toà án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm, Toà án góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý công khai, kịp thời mọi hành vi phạm tội.

Xét xử sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, sẽ không làm phát sinh kháng nghị giám đốc thẩm và ngược lại.

Xét xử sơ thẩm VAHS đòi hỏi phải phát hiện nhanh chóng, xác định tội phạm một cách khách quan, toàn diện, xử lý công minh không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

      1. . Ý nghĩa của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Xét xử sơ thẩm VAHS là hoạt động tập trung cao nhất của quá trình giải quyết một VAHS, đã đáp ứng những yêu cầu về tính dân chủ và tổ chức quyền lực của Nhà nước.

Hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS giúp Toá án đảm bảo đúng đường lối định hướng của Đảng dựa trên cơ sở tuân theo Hiến pháp và pháp luật nhằm đảm bảo cho vụ án được xét xử khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật; đảm bảo pháp chế, đảm bảo việc tuân theo pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu Nhà nước pháp quyền.

Xét xử sơ thẩm VAHS là nơi mà ở đó các chủ thể (người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng) được đảm bảo thể hiện ý chí của mình; Họ được công khai tranh tụng, đưa ra lập luận, căn cứ để bảo vệ mình hoặc bác bỏ lý do buộc tội của người khác thông qua việc cung cấp, kiểm tra chứng cứ hay đưa ra yêu cầu, vật chứng có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết VAHS. Mức độ dân chủ ở phiên tòa xét xử sơ thẩm có tầm ảnh hưởng quan trọng đến tính khách quan của các phán quyết của Toà án.

Thông qua việc xét xử sơ thẩm góp phần nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực công tác và kỹ năng nghề nghiệp của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và Luật sư; đồng thời tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật đối với những người tham dự phiên toà.

Xét xử sơ thẩm VAHS còn góp phần trong quá trình phòng ngừa tội phạm: Phòng ngừa tội phạm là công việc của toàn xã hội, của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội. Công tác này đòi hỏi phải có những biện pháp tổng hợp về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng và cả những tác động của pháp luật; trong đó: Toà án giữ vai trong rất quan trọng.

1.2. Các nguyên tắc hiến định liên quan đến nguyên tắc xét xử sơ thẩm

1.2.1. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia

1.2.3. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

1.2.4. Nguyên tắc Toà án xét xử công khai

1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số

1.2.6. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

1.2.7. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

1.2.8. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm

1.3. Những vấn đề pháp lý chung về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tố tụng hình sự Việt Nam

1.3.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự, thì TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những VAHS về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia; … và 323 của Bộ luật hình sự. Theo quy định này thì Toà án cấp huyện không thể xét xử vượt quá phạm vi quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự.

Theo quy định trên thì Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Điều kiện để Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử là về chủ thể phải là người đã bị Viện kiểm sát truy tố bằng một bản cáo trạng.

1.3.2. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm

Thành phần Hội đồng xét xử được quy định tại Điều 185 Bộ luật TTHS năm 2003. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Đối với vụ án bị cáo bị truy tố và xét xử về tội danh theo hình phạt ở mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử bắt buộc gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến chính sách dân tộc, tôn giáo… thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Trường hợp đối với vụ án là người chưa thành niên thì Hội đồng xét xử phải có giáo viên hoặc cán bộ của tổ chức Đoàn thanh niên tham gia.

Trong HĐXX thì Thẩm phán là người được phân công làm chủ tọa phiên tòa, các thành viên của HĐXX phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến kết thúc phiên tòa.

1.3.3. Chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng xét xử hình sự sơ thẩm

Chủ thể tiến hành tố tụng trong xét xử hình sự sơ thẩm

Thẩm phán: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 65, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì: “Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử”.

Hội thẩm nhân dân: Theo quy định tại khoản 1, Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 thì: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.

Việc quy định chế định Hội thẩm trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án có ý nghĩa rất quan trọng. Nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà án.

Với việc chủ động hoàn thiện về thể chế liên quan tới công tác Hội thẩm và tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này, tổ chức và hoạt động của Hội thẩm ngày càng ổn định và nề nếp nên đã và đang có những đóng góp quan trọng cho công tác xét xử của các Toà án.

Tiểu kết Chương 1

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ

XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

2.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án nhân dân cấp huyện

2.1.1. Vai trò của Toà án nhân dân cấp huyện

Toà án nhân dân cấp huyện luôn được coi là cấp xét xử thấp nhất – xét xử sơ thẩm các VAHS. Nếu thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện được quy định hợp lí, chặt chẽ thì các tội phạm xảy ra sẽ được xử lí kịp thời, phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe và góp phần bảo vệ trật tự xã hội.

Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện ngày càng được mở rộng một cách hợp lí. Điều đó chứng tỏ rằng TAND cấp huyện đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử hình sự.

Điều 20 BLTTHS năm 2003 quy định về chế độ hai cấp xét xử. Khi đó TAND cấp huyện sẽ là toà án có thẩm quyền xét xử cấp sơ thẩm các VAHS theo quy định của BLTTHS.

2.1.2. Thẩm quyền của TAND cấp huyện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Thẩm quyền của TAND cấp huyện trong BLTTHS năm 2003, TAND cấp huyện được xét xử cả tội phạm rất nghiêm trọng. Nghĩa là TAND cấp huyện theo BLTTHS năm 2003 được quyền xét xử sơ thẩm những tội phạm mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù.

Việc quy định mở rộng thẩm quyền của TAND cấp huyện và thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20 BLTTHS năm 2003) là cơ sở pháp lí đặc biệt quan trọng để giải quyết tình trạng tồn đọng án với số lượng quá lớn tại TAND cấp tỉnh hiện nay. Đồng thời qua đó nâng cao chất lượng xét xử, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên của cấp huyện phục vụ tốt cho việc xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm hình sự nói riêng nhằm thực hiện được các nhiệm vụ chung của BLTTHS.

2.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án nhân dân cấp huyện

Theo BLTTHS năm 2003 thì giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHS được quy định tại Điều 176 đến Điều 183.

Chuẩn bị xét xử có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án. Thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã xuất hiện một số vấn đề phức tạp xung quanh các vấn đề như: Việc Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ xung, tạm đình chỉ vụ án … cần nghiên cứu làm rõ để có hướng khắc phục.

2.2.1. Thụ lý và nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

Sau khi nhận được hồ sơ vụ án được chuyển từ Viện kiểm sát, người nhận hồ sơ phải đối chiếu bản kê khai tài liệu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kiểm tra việc giao bản cáo trạng cho bị can.

Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án, tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, yêu cầu của người tham gia tố tụng và tiến hành những việc cần thiết cho mở phiên tòa.

2.2.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử

Theo quy định tại Điều 176 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm được tính từ ngày Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa nhận hồ sơ vụ án.

Đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thời hạn quy định trong trường hợp này là nếu không phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa nhận hồ sơ vụ án tối đa bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng; hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất quan trọng, ba tháng mười lăm ngày ngày đối với tôi phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Đối với thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung được quy định là trong thời hạn 15 ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn này áp dụng chung cho cả bốn loại tội mà không phân biệt tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay ít nghiêm trong, nghĩa là không được tính lại từ đầu.

Đối với trường hợp ra quyết định tạm đình chỉ vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử tính lại kể từ ngày Toà án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn nữa.

2.2.3. Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn

Áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam: Đó là việc Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án theo đề nghị của Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra lệnh tạm giam bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo chưa bị tạm giam hoặc đang bị tạm giam mà thời hạn tạm giam đã hết và căn cứ vào quy định tại Điều 88 của BLTTHS, xét thấy cần thiết tạm giam hoặc tiếp tục tạm giam bị can, bị cáo.

Thời hạn tạm giam: Theo quy định tại đoạn 2 Điều 177 của BLTTHS, thì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật này.

Tạm giam trong trường hợp để hoàn thành việc xét xử: Đối với bị cáo đang bị tạm giam, nếu đến ngày mở phiên toà hoặc trong quá trình xét xử thời hạn tạm giam đã hết, thì trước khi thời hạn tạm giam gần hết (thời hạn tạm giam còn lại không quá năm ngày), Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà phải đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án ra lệnh tạm giam.

      1. 2.2.4. Các quyết định của Toà án đưa ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

2.2.4.1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử

2.2.4.2. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung

2.2.4.3. Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án

2.2.5. Triệu tập những người cần xét hỏi

Trước khi mở phiên tòa, căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án phải triệu tập những người có liên quan để xét hỏi tại phiên tòa bao gồm: Bị cáo, trừ trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo do trốn tránh và việc truy nã không có kết quả; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ, người bào chữa, người làm chứng… Những người cần xét hỏi ở đây là những người mà những lời khai báo của họ có ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án một cách chính xác và đúng đắn.

2.3. Trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện

2.3.1. Thủ tục bắt đầu phiên toà

Thủ tục bắt đầu phiên toà được quy định từ Điều 201 đến điều 205 BLTTHS năm 2003. Đây là một thủ tục có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xét xử một vụ án hình sự. Các điều kiện bao gồm phải đảm bảo thành phần tham gia phiên toà đủ về số lượng, những người tiến hành tố tụng thực sự vô tư, khách quan, đủ các chứng cứ, tài liệu cần được xem xét trực tiếp tại phiên toà và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

2.3.2. Thủ tục xét hỏi tại phiên toà

Về thủ tục xét hỏi được quy định từ Điều 206 đến Điều 216 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, để đảm bảo cho lời khai của những người được xét hỏi khách quan, cần phải tuân thủ quy định về hỏi bị cáo, hỏi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, hỏi người làm chứng.

Việc xét hỏi tại phiên toà là một bước rất quan trọng trong quá trình xét xử. Thực chất của việc xét hỏi tại phiên toà chính là tiến hành cuộc điều tra công khai để kiểm tra lại các kết quả mà Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thu thập được thông qua việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng, xem xét các vật chứng, tài liệu nhằm làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án.

2.3.3. Thủ tục tranh luận tại phiên toà

Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì cơ sở pháp lý của hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm được quy định từ Điều 217 đến Điều 221.

Chủ thể tham gia vào hoạt động tranh luận: Là kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, người bào chữa (luật sư), bị cáo và những người tham gia tố tụng khác liên quan đến vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Trình tự, thủ tục tranh luận: Xét về bản chất lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là nhằm mục đích chứng minh cho Hội đồng xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thấy tính đúng đắn và có căn cứ của việc kết tội bị cáo về một hành vi vi phạm cụ thể nào đó. Luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa là lời buộc tội cuối cùng của Nhà nước trước khi hội đồng xét xử vào nghị án.

Trở lại việc xét xử: Những vấn đề trong phần tranh luận mà Luật sư hoặc bị cáo đưa ra chưa được xét hỏi thì Hội đồng xét xử sẽ quyết định trở lại phần xét hỏi nhằm đảm bảo tính khách quan và xác định đúng đắn, chính xác sự thật của vụ án.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Lời nói sau cùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các quyết định của Hội đồng xét xử.

2.3.4. Nghị án

Khoản 1 Điều 222 BLTTHS quy định: “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án” và chủ tọa phiên tòa là người điều hành việc nghị án, nêu ra các vấn đề cần quyết.

2.3.5. Tuyên án

Được quy định tại Điều 226 BLTTHS. Sau khi đã nghị án xong, Hội đồng xét xử quay trở lại phòng xử án để thực hiện việc tuyên án. Hội đồng xét xử có thể giải thích thêm cho bị cáo hiểu về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.

2.4. Những vướng mắc, bất cập từ các quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện

2.4.1. Về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Do hệ thống pháp luật của nước ta nói chung và pháp luật hình sự, dân dự, tố tụng hình sự chưa hoàn thiện, đồng bộ, việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền chưa đầy đủ và kịp thời và nhiều bất cập.

Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND huyện Hòa Vang những năm qua cho thấy việc thiếu văn bản quy phạm pháp luật cần thiết hoặc sự khiếm khuyết, không đồng bộ của các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành, cũng như việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật không đầy đủ, kịp thời sẽ dẫn đến sự lúng túng, nhận thức và áp dụng khác nhau các quy định pháp luật giữa Toà án, các Thẩm phán và hiệu quả hoạt động xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật.

2.4.2. Về thẩm quyền

Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp giữa Toà án quân sự với TAND trong trường hợp dân thường phạm tội mà hành vi của họ có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Bí mật quân sự đã có quy định nhưng “gây thiệt hại cho quân đội” bao gồm những thiệt hại nào thì chưa có quy định.

Theo quy định của pháp luật thì Toà án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Toà án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Toà án có thẩm quyền xét xử là Toà án nơi kết thúc việc điều tra.

2.4.3. Về giới hạn của việc xét xử

Theo quy định tại Điều 196 BLTTHS thì khi xét xử sơ thẩm Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Nếu theo quy định này, thì Toà án không được xét xử bị cáo về tội nặng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Tiểu kết Chương 2

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Chương 3

THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TAND HUYỆN HÒA VANG,

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang.

3.1.1. Những kết quả đạt được

Thẩm quyền xét xử theo vụ việc của TAND cấp huyện theo quy định của BLTTHS năm 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy định của Bộ luật hình sự là 15 năm tù trừ những tội phạm được quy định tại điểm a, b, c Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự.

Việc tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện là một giải pháp nhằm giảm lượng án tồn đọng ở tòa án cấp tỉnh và tòa án phúc thẩm TAND tối cao. Đây cũng là một bước cải cách phù hợp với tình hình của ngành tòa án hiện nay khi trình độ chuyên môn của thẩm phán TAND cấp huyện đang từng bước được nâng cao, cơ sở vật chất của ngành Tòa án cấp huyện cũng đã đáp ứng được với nhiệm vụ xét xử mới.

Bên cạnh đó, thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử taị TAND huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là:

Thực tiễn xét xử những năm qua cho thấy hằng năm Toà án TP Đà Nẵng thụ lý và giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khoảng 30% đến 35% tổng số vụ án thực tế xảy ra. Trong khi đó Toà án TP Đà Nẵng còn phải thụ lý và xét xử một số lượng lớn vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm, chiếm khoản 45% số vụ án thụ lý và 60% vụ án đã xét xử sơ thẩm ở cấp huyện. Do vậy, Toà án TP Đà Nẵng không có điều kiện để tập trung làm tốt công tác xét xử phúc thẩm và hướng dẫn Toà án các quận, huyện áp dụng thống nhất pháp luật.

Ngoài ra, một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự chưa cụ thể, các văn bản hướng dẫn chậm được ban hành nên việc nhận thức và áp dụng vào thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn chưa thống nhất.

Thực tiễn chuẩn bị xét xử

Hiện nay, thực tiễn công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm của TAND huyện Hòa Vang mà cụ thể đó là Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà đã được tiến hành thực hiện đúng theo quy định của BLTTHS năm 2003 như sau:

–  Kiểm tra các tài liệu có trong hồ sơ vụ án

– Về quyết định đưa vụ án ra xét xử

– Chuẩn bị đề cương điều khiển phiên toà

– Lập kế hoạch xét hỏi

– Chuẩn bị những điều kiện vật chất cho việc mở phiên toà

Thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục xét xử

Việc áp dụng các quy định về thủ tục trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại TAND huyện Hoà Vang trong những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ rõ nét. Đại đa số các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND huyện Hoà Vang đều đảm bảo có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Qua thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003 tại TAND huyện Hòa Vang cho thấy:

Thứ nhất: Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa và tranh tụng tại phiên tòa

Thứ hai: Về trách nhiệm chứng minh tội phạm

Thứ ba: Quy định người bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng

Các bản án và quyết định của TAND huyện Hoà Vang được ban hành đúng pháp luật, khách quan, dân chủ, đúng thời hạn quy định và có tính giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật đối với nhân dân. Từ đó, đã góp phần không nhỏ vào việc điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật, quan hệ xã hội, bảo vệ lợi ích của công dân, nhà nước và xã hội.

Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã và đang đặt ra những yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng xét xử trong giai đoạn thực hiện cải cách tư pháp của nước ta theo định hướng của Đảng và Nhà nước.

3.1.2. Một số hạn chế, vướng mắc từ thực tiễn xét xử sơ thẩm

– Trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định tranh tụng là một nguyên tắc của TTHS.

– Pháp luật tố tụng hiện hành chưa xác định rõ vị trí, chức năng của Toà án với Viện kiểm sát. Nhiều quy định của BLTTHS hiện hành còn lẫn lộn giữa vai trò trọng tài của Toà án với vai trò buộc tội của VKS, của CQĐT.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử

3.2.1. Về hoàn thiện pháp luật

– Hoàn thiện pháp luật nói chung

Nhà nước ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thiện các văn bản pháp luật.

Để đảm bảo cho việc xét xử sơ thẩm đúng quy định pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Việc hoàn thiện pháp luật phải đáp ứng các yêu cầu sau:

Phải thể chế hoá đầy đủ và đúng đắn mục tiêu, quan điểm, phương hướng về chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị.

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ chính trị

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị

Đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, nâng cao hiệu quả công tác xét xử sơ thẩm.

Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm và tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn thi hành pháp luật để có nhận thức và áp dụng thống nhất giữa các cơ quan áp dụng.

– Hoàn thiện pháp luật về tố tụng

Thực tiễn công tác xét xử tại TAND huyện Hòa Vang đang áp dụng pháp luật tố tụng hình sự hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung:

Thứ nhất: Bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS.

Thứ hai: Toà án có vai trò là cơ quan trọng tài của quá trình tranh tụng giữa hai bên buộc tội và gỡ tội, trong một số trường hợp có sự xuất hiện của các chủ thể độc lập mang tính chất bổ trợ cho quá trình tranh tụng.

Thứ ba: Điều 179: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đề xuất cần sửa Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp thứ (3) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được coi là hợp lý.

Thứ tư: Điều 207: Trình tự xét hỏi. Theo khoản 2 “… Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự…”

Thứ năm: Như đã phân tích ở phần hạn chế, vướng mắc tại khoản 2 Điều 222 BLTTHS năm 2003 quy định “Hội đồng xét xử vẫn giải quyết vụ án” khi Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố là không cần thiết, trong trường hợp này Toà án chỉ có thể tuyên bị cáo vô tội.

Thứ sáu: Về giới hạn của việc xét xử: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.

Việc sửa đổi theo hướng trên sẽ đảm bảo được tính độc lập của HĐXX trong suốt quá trình xét xử vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng một người có tội hay không có tội.

3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Một là: Giải pháp về nguồn nhân lực từ con người: Để nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHS huyện Hòa Vang thì giải pháp về nguồn lực, yếu tố con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Xây dựng đội ngũ thẩm phán: tăng cường công tác bồi dưỡng cho đội ngũ Thẩm phán trẻ, cán bộ công chức trong TAND huyện Hòa Vang về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, quy trình điều khiển phiên tòa, điều khiển tranh tụng, độc lập trong các phán quyết….

Xây dựng đội ngũ Hội thẩm nhân dân: cần nghiên cứu, khảo soát, xây dựng đề án và mở hội thảo chuyên đề về xây dựng đội ngũ Hội thẩm nhân dân nhiệm kỳ 5 năm từ 2016-2021 đủ trình độ, năng lực và tiêu chuẩn trong Luật Tổ chức TAND năm 2014, đồng thời đáp ứng được các nguyên tắc trong Hiến pháp năm 2013 đã đề ra.

Hai là: mỗi thẩm phán và đặc biệt là đội ngũ HTND dân phải tăng cường trách nhiệm, thể hiện tính độc lập trong xét xử.

Nghiên cứu các quy định về bồi thường do oan sai.

Ba là: Giải pháp về các điều kiện kinh tế: Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung và chính sách tiền lương nói riêng là một vấn đề chính trị – kinh tế và xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; là động lực cơ bản, khuyến khích sự cống hiến, trung thành; làm việc tận tụy và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức; đồng thời là cơ sở nâng cao chất lượng nền công vụ, góp phần phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Bốn là: Giải pháp về tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng: Hệ thống Tòa án và Viện kiểm sát phải thống nhất xây dựng được quy chế phối hợp liên ngành trong hoạt động tố tụng hình sự; trong đó, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong hoạt động tố tụng giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là đối với việc giải quyết các vụ án trọng điểm, phức tạp, những vụ án cần điều tra, truy tố, xét xử nhanh hoặc xét xử lưu động nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Tiểu kết Chương 3

KẾT LUẬN

Pháp luật Xã hội chủ nghĩa nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng là hệ thống các quy phạm pháp luật, là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu, thước đo để đánh giá mọi hành vi của tổ chức, cá nhân trong đời sống xã hội, đảm bảo sự bình đẳng của các bên trong tố tụng hình sự, triệt để tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong quá trình tiến hành tố tụng, đó là xu hướng không thể đảo ngược của tố tụng hình sự.

Đổi mới bộ máy Nhà nước từ việc tổ chức đến hoạt động, trong đó chú trọng đến công tác cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phát huy tính năng động, sáng tạo, dân chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực. Đây là tiền đề, điều kiện cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đã đề ra là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trong tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Hoạt động xét xử là biểu hiện tập trung nhất nền tư pháp nước nhà, là một trong những thước đo quan trọng về pháp chế, dân chủ, công bằng xã hội. Chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được nâng cao, có sức thuyết phục, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong công cuộc đấu tranh, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, dân chủ và phải tuân thủ các trình tự, thủ tục tố tụng hình sự do pháp luật quy định. Đây là cơ sở để đánh giá tính hợp pháp của các bản án, quyết định sơ thẩm và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì những hạn chế, bất cập trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn có một số nguyên nhân như: Hệ thống pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự còn chưa đồng bộ, thống nhất; năng lực, trình độ của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán- chủ toạ phiên toà, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Luật sư chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động xét xử của Toà án còn hạn chế, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử trong tình hình mới.

Nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của đất nước trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ và hoàn thiện pháp luật hình sự và TTHS theo hướng quy định lại trình tự xét hỏi, bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong quá trình xét xử sơ thẩm VAHS; đổi mới, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và Luật sư, hoàn thiện cơ sở vật chất. Đây là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, thể hiện cho sự tiến bộ và phát triển của nền tư pháp trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HINH SU\TRAN NGOC ANH\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *