Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang

Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang

Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân của một con người từ khi sinh ra đến khi chết. Quản lý nhà nước về hộ tịch có vị trí quan trọng trong hoạt động quản lý dân cư và của nền hành chính mà mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển, đều phải chú trọng, quan tâm.

Ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và quyền nhân thân của con người được xác qua các sự kiện về hộ tịch như: quyền thay đổi họ tên; xác định lại dân tộc; khai sinh, khai tử; kết hôn; ly hôn; nhận, không nhận cha, mẹ, con; quốc tịch…

Thực hiện pháp luật về hộ tịch không chỉ liên quan đến nhân thân của con người mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Thực hiện pháp luật về hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để nhà nước công nhận và bảo hộ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Bên cạnh đó, quản lý hộ tịch còn góp phần quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.

Trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, quyền con người, quyền công dân đòi hỏi được ghi nhận và bảo đảm thực hiện ở mức cao hơn. Để tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch, đặc biệt là việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; đồng thời, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch theo hướng từng bước chuyên nghiệp, phù hợp với từng bước phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, do đó, việc thực hiện pháp luật về hộ tịch cần phải được coi trọng và quản lý chặt chẽ, thống nhất.

Ở nước ta hiện nay, pháp luật về hộ tịch được thực hiện theo Luật Hộ tịch năm 2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch với 7 Chương, 77 Điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Luật Hộ tịch ra đời đánh dấu bước đầu tiên nhà nước ta ban hành văn bản Luật điều chỉnh riêng lĩnh vực này sau hơn 60 năm thực hiện bằng các nghị định của Chính phủ và thông tư của các Bộ. Đây là bước hoàn thiện khá cơ bản về thể chế đăng ký và quản lý hộ tịch của Việt Nam với nhiều quy định mới, mang tính đột phá, toàn diện. Bên cạnh những điểm mới của Luật Hộ tịch, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập về thể chế gây khó khăn, trở ngại cho cơ quan hộ tịch khi triển khai thực hiện, người dân khó phân biệt việc hộ tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản nào.

Huyện Đông Giang là một huyện miền núi cao thuộc tỉnh Quảng Nam, với dân số 25.576 người, trong đó, dân tộc Cơ Tu chiếm đa số với 19.548 người, chiếm 76,43%; dân tộc Kinh 5.842, chiếm 22,84%; các dân tộc khác (Thái, Tày, Nùng…) có 186 người, chiếm tỷ lệ 0,73%. Huyện Đông Giang vẫn là một huyện gặp nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của tỉnh. Đây là địa bàn tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc Cơ tu, kết cấu hạ tầng còn thiếu, chưa đồng bộ, kinh tế xã hội còn kém phát triển. Đặc biệt, nhận thức của người dân nơi đây còn chưa cao, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác hộ tịch còn thiếu và yếu, việc ứng dụng công nghệ thông tin còn gặp nhiều khó khăn, chưa đồng bộ. Do đó, công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch là một trong những vấn đề cần được hoàn thiện, nâng cao, góp phần vào việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội của huyện.

Vì vậy, nghiên cứu công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch nói chung cũng như thực tế tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận, thực tiễn của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch; đưa ra những ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam là việc cần thiết hiện nay. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch, phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam và từ đó, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể như sau:

– Nghiên cứu cơ sở lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch.

– Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn năm 2017-2019 để tìm ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về công tác hộ tịch trên địa bàn huyện.

– Đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực hộ tịch đặc biệt là Luật hộ tịch 2014 và thực tiễn việc thực hiện pháp luật về hộ trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2017 đến năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm:

– Phương pháp trực tiếp: quan sát, phỏng vấn;

– Phương pháp gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh, quy nạp, diễn dịch, nghiên cứu tài liệu, tư liệu tham khảo, nguồn tin từ mạng Internet, …

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hộ tịch và thực hiện pháp luật hộ tịch, phân tích chỉ ra những yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội tác động tới quá trình thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Từ đó, nên ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong thực tế thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Đông Giang, tỉnh Quang Nam trong những năm tới. Đồng thời, luận văn cũng là nguồn tư liệu tham khảo cho những người nghiên cứu các đề tài liên quan đến pháp luật về hộ tịch.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch.

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH

    1. 1.1. Một số khái niệm
      1. 1.1.1. Khái niệm hộ tịch

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Đây được coi là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Công tác quản lý hộ tịch là một tổng thể của nhiều công việc như tuyên truyền giáo dục pháp luật về hộ tịch, tổ chức đăng ký hộ tịch, báo cáo thống kê tăng, giảm dân số, kiểm tra, xử lý vi phạm về đăng ký hộ tịch. Các công việc nêu trên phải được tiến hành thường xuyên tại cơ sở nhằm đảm bảo kịp thời, chính xác, đồng thời phải thuận tiện, tránh gây phiền hà cho dân.

Từ trước đến nay, có khá nhiều quan niệm khác nhau về “Hộ tịch”. Các tác giả khác nhau đã giải nghĩa từ “hộ tịch” như sau:

Tác giả Nguyễn Văn Khôn đã nêu khái niệm “hộ tịch” trong cuốn Hán – Việt từ điển xuất bản năm 1960 như sau: “Hộ tịch: sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người[31, tr.404].

Hay tác giả Nguyễn Lân cũng trình bày giải nghĩa từ “hộ tịch” trong cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt xuất bản năm 1989: “Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong một địa phương[33, tr.321].

Trong cuốn Giản yếu Hán – Việt từ điển xuất bản năm 1992, tác giả Đào Duy Anh trình bày cách hiểu của mình đối với từ ghép “hộ tịch” là: “Hộ tịch: quyển sổ của Chính Phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán của từng người[1, tr.384].

Hoặc là trong cuốn Từ điển Hán – Việt từ nguyên xuất bản năm 1999 của tác giả Bửu Kế, “hộ tịch” được hiểu là “Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường[30, tr.814].

Có thể nhận thấy cách giải nghĩa từ “hộ tịch” của các tác giả tuy rằng khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều giải nghĩa “hộ tịch” có nét khá tương đồng: “hộ tịch” là quyển số chứa đựng các thông tin cơ bản của cá nhân như họ, tên, nghề nghiệp, quê quán.

Bên cạnh đó, một số từ điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” theo một cách khác, chẳng hạn như:

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên xuất bản năm 1998, từ ghép “hộ tịch” được giải nghĩa là: “Hộ tịch: sổ của cơ quan dân chính đăng kí cư dân trong địa phướng mình theo từng hộ[37, tr.442]

Một cách hiểu khác về “hộ tịch” được tác giả Nguyễn Như Ý trình bày trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1998 đó là: “Hộ tịch: các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật[54, tr.835].

Hay trong cuốn Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt do Nhà xuất bản văn hóa thông tin xuất bản năm 1999, tác giả Nguyễn Văn Đạm giải nghĩa “hộ tịch” khác hoàn toàn so với các cách giải nghĩa trên: “Hộ tịch là quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một người tại nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng một hộ, do chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần[24, tr.385].

Nhìn chung, các tác giả tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về hộ tịch nhưng tựu chung lại đều chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của hộ tịch, đó là:

Thứ nhất, hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một người;

Thứ hai, các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải là những quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người, đó là: khai sinh, hôn nhân và khai tử;

Thứ ba, chứng thư hộ tịch là loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân.

“Hộ tịch” là một khái niệm đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý tiếng Việt. Khái niệm này hoàn toàn không dễ dàng định nghĩa một cách rõ ràng, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó cũng không thuận tiện khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trong thực tế, đã có những cuộc hội thảo trong giới chuyên môn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, qua quá trình lịch sử, khái niệm này đã dần trở thành ngôn ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân dân. Do đó, các nhà xây dựng pháp luật đã dung hòa bằng việc sử dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn bản.

Theo đó, tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/10/1998 về việc đăng ký hộ tịch thì: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.

Trước khi có Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, Bộ luật dân sự 1995 có riêng một mục quy định về hộ tịch. Bộ luật dân sự 1995 không đưa ra khái niệm “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa về đăng ký hộ tịch tại điều 54 như sau:

Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Việc đăng ký hộ tịch là quyền, nghĩa vụ của mỗi người.

Việc đăng ký hộ tịch được thực hiện theo trình tự và thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định.

Nghị định 158/2005/NĐ-CP tiếp tục sử dụng khái niệm “hộ tịch” đã được định nghĩa trong Nghị định 83/1998/NĐ-CP: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”. Nghị định 158/2005/NĐ-CP còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” như sau:

Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

a) Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc;

b) Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.

Theo quy định tại Điều 1 Luật hộ tịch 2014 quy định khái niệm về hộ tịch giống như nghị định số 158/2005/NĐ-CP tuy nhiên có xác định rõ các sự kiện:

Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết”.

Theo đó, Điều 3 của Luật hộ tịch quy định những sự kiện hộ tịch:

1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch:

a) Khai sinh;

b) Kết hôn;

c) Giám hộ;

d) Nhận cha, mẹ, con;

đ) Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch;

e) Khai tử.

2. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

a) Thay đổi quốc tịch;

b) Xác định cha, mẹ, con;

c) Xác định lại giới tính;

d) Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi;

đ) Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn;

e) Công nhận giám hộ;

g) Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật.

Điểm mới của Luật hộ tịch là không quy định khái niệm về giấy tờ hộ tịch. Luật quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và Giấy chứng nhận kết hôn. Đối với các sự kiện hộ tịch khác, sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký sẽ được cấp Trích lục hộ tịch tương ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký. Bản chính trích lục hộ tịch sẽ được chứng thực bản sao.

Giấy khai sinh là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân khi được đăng ký khai sinh; nội dung Giấy khai sinh bao gồm các thông tin cơ bản về cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật hộ tịch.

Giấy chứng nhận kết hôn là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp khi đăng ký kết hôn; nội dung Giấy chứng nhận kết hôn bao gồm các thông tin cơ bản quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật hộ tịch.

Như vậy, trong khuôn khổ của nghiên cứu tại luận văn này, hộ tịch được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết: khai sinh, kết hôn, nhận cha mẹ, thay đổi cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, khai tử.

      1. 1.1.2. Pháp luật về hộ tịch

1.1.2.1. Khái niệm và khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về hộ tịch ở nước ta

Pháp luật về hộ tịch là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hộ tịch nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và góp phần trong công tác quản lý dân cư của nhà nước.

Ở nước ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch đã có lịch sử từ lâu đời. Thời kỳ phong kiến, thực dân, bên cạnh vấn đề quản lý đất đai thì vấn đề quản lý hộ tịch – con người là vấn đề trọng yếu, luôn được nhà nước quan tâm quản lý, thực hiện.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, xác định được tầm quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, nhà nước ta tiếp tục duy trì và ban hành văn bản quy phạṃ pháp luật để điều chỉnh. Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó, đến Bản Điều lệ hộ tịch năm 1956 ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của Chính phủ. Bản điều lệ này quy định những nguyên tắc và thủ tục đăng ký về các vấn đề sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc ấy. Các quy định của bản Điều lệ đăng ký hộ tịch này thay thế toàn bộ các thể lệ đăng ký hộ tịch áp dụng trước đó. Việc quản lý hộ tịch trong giai đoạn này do Bộ Nội vụ và Ủy ban hành chính các cấp thực hiện. Đến năm 1961, Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch được ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961. Bản điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/1961 và có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch ra đời. Đến năm 1987, sau khi Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng có hiệu lực thì công tác đăng ký hộ tịch được chuyển giao từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp.

Ngày 27/12/2005, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch. Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã thay thế Nghị định 83/1998/NĐ-CP sau 7 năm có hiệu lực. So với Nghị định 83/1998/NĐ-CP thì Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã tháo gỡ những vướng mắc trên thực tế mà Nghị định 83/1998/NĐ-CP chưa giải quyết được đó là: đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết công việc phù hợp với tinh thần cải cách hành chính, thuận tiện cho người dân. Nghị định 158/2005/NĐ-CP có nhiều điểm mới, đặc biệt việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch trước đó thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp trên.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự (năm 1995, 2005), Luật Hôn nhân và gia đình (năm 1986, 2000, 2014) và các luật liên quan khác, đến trước năm 2015, Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch, cả việc hộ tịch trong nước và việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài gồm: Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ- CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

Ngày 20/11/2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch với 7 Chương 77 Điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Có thể nói, đây là lần đầu tiên nhà nước ban hành văn bản Luật quy định riêng về lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện bằng các văn bản dưới luật do Chính phủ ban hành. Luật Hộ tịch có nhiều quy định mới, mang tính cách mạng về các nội dung như: thẩm quyền đăng ký hộ tịch, phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch, cải cách thủ tục hành chính… Trong đó, Luật quy định cụ thể về vai trò của Uỷ ban nhân dân các cấp, Sở Tư pháp cấp tỉnh trong hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực đăng ký hộ tịch.

Như vậy, pháp luật về hộ tịch là những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa nhà nước với công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực hộ tịch.

1.1.2.2. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về hộ tịch

Hiện nay, trong các văn bản pháp luật (Bộ luật Dân sự 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, Luật hộ tịch và các nghị định, thông tư…) và các tài liệu sách báo pháp lý, thuật ngữ “pháp luật về hộ tịch” được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp, nội hàm của nó được xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp có sự khác nhau cơ bản. Theo những cách hiểu khác nhau đó việc xác định các quy phạm pháp luật và các quan hệ pháp luật về hộ tịch cũng có sự khác nhau.

Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hộ tịch, theo đó nguồn chủ đạo của pháp luật về hộ tịch bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, các văn bản về đăng ký và quản lý hộ tịch: Luật hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch. Cũng trong cách hiểu này các quan hệ pháp luật về hộ tịch được phân thành hai nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân sự và nhóm quan hệ về quản lý. Hai nhóm quy phạm này có mối quan hệ hết sức mật thiết, trong đó nhóm quy phạm về hộ tịch do luật dân sự điều chỉnh luôn đóng vai trò là tiền đề để xây dựng các quy phạm hành chính về hộ tịch.

Hiểu theo nghĩa hẹp thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm hành chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quan hệ mang tính chất chấp hành – điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch. Mặc dù hai quan niệm trên có sự khác nhau cơ bản nhưng cần thấy rằng chúng không mâu thuẫn và loại trừ nhau.

a) Quy phạm pháp luật về hộ tịch

Là một dạng cụ thể của quy phạm hành chính, quy phạm pháp luật về hộ tịch được hiểu là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch. Các quy phạm pháp luật về hộ tịch có thể được phân thành hai nhóm sau:

Một là, nhóm quy phạm về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của các chủ thể trong quan hệ quản lý hộ tịch và quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong quan hệ quản lý hộ tịch;

Hai là, nhóm quy phạm về thủ tục hành chính (thủ tục đăng ký hộ tịch hoặc giải quyết khiếu, nại tố cáo về hộ tịch).

Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch tương đối lớn, điều chỉnh khá toàn diện, đầy đủ các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Trước đây, các quy phạm quản lý hộ tịch nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau. Ngoài Nghị định số 158/2005/NĐ-CP được coi là văn bản chủ đạo về quản lý hộ tịch, các quy phạm về quản lý hộ tịch còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Nghị định số 32/2002/NĐ- CP của Chính Phủ ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐCP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ Hôn nhân và Gia đình có yếu tố nước ngoài. Chính việc quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch nằn rải rác trong nhiều văn bản như trên đã ảnh hưởng đến hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về hộ tịch. Xét từ khía cạnh giá trị pháp lý có thể thấy, các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có thứ bậc không cao trong thang giá trị quy phạm. Các quy phạm có giá trị cao nhất mới dừng lại ở mức độ quy phạm trong Nghị định của Chính Phủ; một bộ phận không nhỏ quy phạm do Bộ Tư pháp ban hành trong các Thông tư mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ. Bởi vậy, tính ổn định của pháp luật về quản lý hộ tịch còn chưa cao, có thể bị sửa đổi, bổ sung trong một thời gian ngắn. Bên cạnh đó, quy định của pháp luật về phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch còn nhiều bất cập. Ở cả 03 cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã) đều có thẩm quyền đăng ký hộ tịch, điều này dẫn đến chồng chéo, không rõ ràng giữa chức năng quản lý và đăng ký hộ tịch. Trong công tác hộ tịch ở nhiều địa phương, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp chỉ tập trung đến nhiệm vụ đăng ký, ít có sự quan tâm đến nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cấp mình thực hiện quản lý nhà nước về công tác hộ tịch. Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch còn rườm rà, bất cập, một số quy định còn thiên về việc tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước hơn là tạo thuận lợi cho người dân. Nhiều loại sổ sách, giấy tờ về hộ tịch cũng đã gây bất lợi, tạo nhiều áp lực cho cả cơ quan nhà nước và người dân trong việc lưu giữ, bảo quản, sử dụng, khai thác. Các văn bản pháp luật chưa có quy định mang tính đột phá, tạo hành lang pháp lý trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử nhằm tăng cường khả năng tra cứu, khai thác dữ liệu hộ tịch phục vụ yêu cầu của người dân và của cơ quan, tổ chức.

Tuy nhiên, từ khi Luật hộ tịch ra đời thì hiện nay các quy phạm pháp luật về hộ tịch đã nằm tập trung trong các văn bản pháp luật chính: Luật hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch và Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập, hạn chế như trên, nhất là trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng bộ, thống nhất với các luật liên quan (như Bộ luật dân sự 2015, Luật quốc tịch, Luật nuôi con nuôi, Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật căn cước công dân).

b) Quan hệ pháp luật về hộ tịch

Quan hệ pháp luật về hộ tịch là những quan hệ phát sinh trong hoạt động chấp hành – điều hành được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về hộ tịch. Chủ thể của quan hệ pháp luật về hộ tịch gồm hai nhóm:

Một là, các cá nhân và cơ quan nhà nước có chức năng quản lý về hộ tịch.

Hai là, các cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.

Các quan hệ pháp luật hình thành trong lĩnh vực quản lý hộ tịch rất đa dạng, diễn ra theo nhiều chiều giữa các chủ thể khác nhau như: quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền quản lý chung với cơ quan quản lý chuyên ngành, giữa cơ quan quản lý cấp trên với cơ quan quản lý cấp dưới, quan hệ giữa các cơ quan cùng cấp, quan hệ giữa cơ quan quản lý hộ tịch với công dân, v. v. Trong đó nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động đăng ký hộ tịch là nhóm quan hệ phổ biến và thể hiện nhiều yếu tố đặc thù. Các quan hệ pháp luật về đăng ký hộ tịch là các quan hệ thủ tục phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với các cá nhân công dân, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch. Các quan hệ này được thiết lập trên cơ sở sáng kiến, đề nghị chủ động của cá nhân và nó thường gắn liền với việc thực hiện một quyền dân sự hoặc xác lập một quan hệ hôn nhân và gia đình.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

Ví dụ: Việc UBND cấp tỉnh thực hiện thủ tục xác định lại dân tộc cho một người là quan hệ hành chính nhằm thực hiện quyền dân sự của cá nhân đó; hoặc việc UBND cấp xã đăng ký kết hôn là một quan hệ hành chính, gắn liền với việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai cá nhân. Một số quan hệ đăng ký hộ tịch như đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử… được thiết lập không phải từ đề nghị của chính cá nhân được khai sinh, kết hôn, khai tử mà từ những người có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Quan hệ đăng ký hộ tịch không chỉ diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với một cá nhân mà có thể diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với cùng lúc nhiều cá nhân có chung mục đích xác lập quan hệ hành chính đó. Ví dụ: trường hợp cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi.

1.1.2.3. Hệ thống quy phạm pháp luật về hộ tịch hiện hành

Luật hộ tịch năm 2014 là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch. Bên cạnh đó, còn có Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.

Luật hộ tịch năm 2014 gồm có 7 chương và 77 điều, được bố cục như sau:

Chương I. Những quy định chung (gồm 12 điều, từ Điều 1 đến Điều 12)

Chương II. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp xã (gồm 7 mục, 22 điều, từ Điều 13 đến Điều 34)

Chương này quy định về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký các loại việc hộ tịch trong nước thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã, bao gồm: Đăng ký khai sinh (gồm 04 điều: từ Điều 13 đến Điều 16); Đăng ký kết hôn (gồm 02 điều: từ Điều 17 đến Điều 18); Đăng ký giám hộ (gồm 05 điều: từ Điều 19 đến Điều 23); Đăng ký nhận cha, mẹ, con (gồm 02 điều: Điều 24, Điều 25); Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch (gồm 04 điều: từ Điều 26 đến Điều 29); Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (gồm 02 điều: Điều 30 và Điều 31); Đăng ký khai tử (gồm 03 điều: Điều 32, Điều 33, Điều 34).

Chương III. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện (gồm 7 Mục, 18 điều, từ Điều 35 đến Điều 52).

Chương này quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký các loại việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân cấp huyện, bao gồm: Đăng ký khai sinh (gồm 02 điều: Điều 35, Điều 36); Đăng ký kết hôn (gồm 02 điều: từ Điều 37 đến Điều 38); Đăng ký giám hộ (gồm 04 điều: từ Điều 39 đến Điều 42); Đăng ký nhận cha, mẹ, con (gồm 02 điều: Điều 43, Điều 44); Đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc (gồm 03 điều: Điều 45, Điều 46, Điều 47); Ghi vào Sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài (gồm 03 điều: Điều 48, Điều 49, Điều 50); Đăng ký khai tử (gồm 02 điều: Điều 51, Điều 52).

Chương IV. Đăng ký hộ tịch tại cơ quan đại diện (gồm 4 điều, từ Điều 53 đến Điều 56)

Chương V. Cơ sở dữ liệu hộ tịch, cấp trích lục hộ tịch (gồm 2 Mục, 08 điều, từ Điều 57 đến Điều 64)

Mục 1. Cơ sở dữ liệu hộ tịch (gồm 5 điều từ Điều 57 đến Điều 61).

Mục 2. Cấp trích lục hộ tịch (gồm 3 điều từ Điều 62 đến Điều 64).

Chương VI. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch, công chức làm công tác hộ tịch (gồm 2 Mục, 10 điều, từ Điều 65 đến Điều 74).

Mục 1. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch (gồm 7 điều, từ Điều 65 đến Điều 71).

Mục 2. Công chức làm công tác hộ tịch (gồm 3 điều, từ Điều 72 đến Điều 74).

Chương VII. Điều khoản thi hành (gồm 03 điều, từ Điều 75 đến Điều 77)

Chương này quy định về giá trị pháp lý của Sổ hộ tịch được lập, giấy hộ tịch được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực, điều khoản chuyển tiếp và hiệu lực thi hành của Luật hộ tịch.

Luật Hộ tịch năm 2014 đã có những điểm mới nổi bật so với các văn bản điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch trước đó.

Một là, Luật hộ tịch đã khẳng định vị trí, vai trò của công tác đăng ký hộ tịch, đặc biệt, là đăng ký khai sinh, cấp Giấy khai sinh và bổ dung Số định danh cá nhân cho người được khai sinh khi đăng ký khai sinh. Theo Luật căn cước công dân, Số định danh cá nhân được cấp cho mỗi công dân Việt Nam (nhằm mã hóa những thông tin cơ bản của công dân), không lặp lại ở người khác, được quản lý trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đối với người dưới 14 tuổi, Số định danh cá nhân được ghi vào Giấy khai sinh và đây chính là số thẻ căn cước công dân của người đó khi đủ tuổi được cấp Thẻ căn cước công dân. Đó là quy định mang tính đột phá trong công tác quản lý hộ tịch và quản lý dân cư, là tiền đề quan trọng để tiến tới mục tiêu cắt giảm nhiều loại giấy tờ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân khi tham gia các giao dịch, thực hiện thủ tục hành chính.

Hai là, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đã được Luật quy định để lưu trữ thông tin hộ tịch của cá nhân (cùng với cơ sở dữ liệu giấy), kết nối để cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Do đó, thông tin hộ tịch của cá nhân sẽ được quản lý tập trung, thống nhất, đồng bộ; các Bộ, ngành, địa phương sử dụng thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ công tác quản lý, cũng như giải quyết các thủ tục hành chín.

Ba là, Luật có những quy định cải cách về trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch, tạo thuận lợi cho người dân trong công tác hộ tịch.

Luật Hộ tịch đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn các nội dung về đăng ký hộ tịch; đã phân định rõ sự kiện nào được xác nhận vào Sổ hộ tịch, sự kiện nào được ghi vào Sổ hộ tịch.

Luật hộ tịch năm 2014 cũng quy định cá nhân có quyền được lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không phải phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây. Cá nhân có thể đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống. Khi đăng ký hộ tịch, người dân được cấp trích lục hộ tịch. Đối với một số nội dung hộ tịch quan trọng liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người dân là khai sinh, kết hôn, Luật quy định sau khi đăng ký người dân vẫn được cấp bản chính Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.

Ngoài ra, Luật quy định khi thực hiện đăng ký hộ tịch thì cá nhân có quyền lựa chọn 01 trong 03 phương thức đăng ký hộ tịch như sau: Nộp hồ sơ trực tiếp cho cơ quan đăng ký hộ tịch; thông qua hệ thống bưu chính hoặc thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến khi điều kiện cho phép. Đây là điểm mới theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch, hiện đại nhằm bảo đảm lợi ích của người dân.

Bốn là, Luật quy định việc miễn lệ phí đăng ký hộ tịch cho người thuộc gia đình có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người khuyết tật; đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.

Năm là, Luật hộ tịch năm 2014 đã thực hiện sự phân cấp mạnh mẽ hơn hẳn Nghị định số 158/2005/NĐ-CP theo hướng chuyển giao một số loại việc trước đây thuộc thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã.

Nếu theo Nghị định số 158/2005/NĐ-CP cùng với Nghị định số 62/2002/NĐ-CP, hệ thống quản lý hộ tịch ở nước ta gồm có năm (05) cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch, đó là: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Sở Tư pháp; Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã; Cơ quan Đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì theo Luật hộ tịch năm 2014 hệ thống quản lý hộ tịch ở nước ta gồm có ba (03) cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch, đó là: Ủy ban nhân dân cấp xã; Ủy ban nhân dân cấp huyện; Cơ quan Đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.

Luật quy định Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài; thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú trong nước, xác định lại dân tộc, trừ việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký các việc hộ tịch còn lại. Đây được coi là điểm mốc đánh dấu sự vận dụng một tư duy mới về phân cấp quản lý nhà nước trong công tác hộ tịch “việc nào, cấp nào thực hiện tốt hơn thì giao cho cấp đó” đồng thời cũng thể hiện sự đánh giá cao hơn về khả năng đảm nhận những nhiệm vụ ngày càng phức tạp hơn của hệ thống Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Sáu là, Luật quy định rõ tiêu chuẩn, trình độ của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ này, tăng cường trách nhiệm và tính chuyên nghiệp, hạn chế sai sót, vi phạm; làm rõ trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và những sai phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại địa phương do buông lỏng quản lý.

Như vậy, có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột phá về thể chế của công tác hộ tịch; là cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch; là cơ sở quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.

    1. 1.2. Thực hiện pháp luật về hộ tịch
      1. 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch

1.2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch

Trong điều kiện đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã khẳng định vai trò hàng đầu của pháp luật trong quản lý xã hội. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Đến Hiến pháp năm 2013 cũng đã khẳng định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [38, Điều 8].

Khi ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhà nước mong muốn các văn bản đó phải được tôn trọng và thực thi có hiệu quả trong thực tế. Đây cũng chính là yêu cầu để pháp luật phát huy được giá trị đích thực của chính nó đối với đời sống xã hội con người. Trong những năm vừa qua, nhà nước đã ban hành một hệ thống pháp luật về hộ tịch tương đối đầy đủ cả về nội dung và hình thức, quy định khá bao quát về những vấn đề của hộ tịch. Đây sẽ là tiền đề quan trọng để việc thực hiện pháp luật về hộ tịch trên thực tế đạt kết quả tốt. Vậy thực hiện pháp luật về hộ tịch là gì? Nó bao gồm những hình thức nào? Những yếu tố nào sẽ đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả pháp luật về hộ tịch trong cuộc sống?

Thực hiện pháp luật là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Một mặt, thực hiện pháp luật giúp đạt được những mục đích xã hội, mặt khác, còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật để đưa ra những phương hướng, giải pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đưa pháp luật vào cuộc sống.

Thực hiện pháp luật được tiến hành bởi các chủ thể khác nhau với nhiều cách thức khác nhau. Đó có thể là hành vi của mỗi cá nhân, hay cũng có thể là của các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác …. Việc thực hiện pháp luật có thể phụ thuộc vào ý chí của mỗi chủ thể, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của nhà nước. Hành vi hợp pháp này có thể được chủ thể thực hiện trên cơ sở tự nhận thức là cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp luật, cũng có thể chúng được thực hiện do chủ thể bị ảnh hưởng của những người xung quanh mà hành động, hoặc có thể có những hành vi hợp pháp được thực hiện là kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch là một bộ phận trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Qua việc tìm hiểu khái niệm và các đặc điểm của việc thực hiện pháp luật như trên, chúng ta có thể rút ra được khái niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch như sau: Thực hiện pháp luật về hộ tịch là một quá trình hoạt động có mục đích của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm đưa các quy phạm pháp luật về hộ tịch trở thành những hành vi thực tế hợp pháp.

1.2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch

Thứ nhất, chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch là các cơ quan nhà nước và cá nhân trong xã hội.

Cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, thực hiện pháp luật về hộ tịch phải thông qua hành vi của một chủ thể nhất định. Tùy vào từng quan hệ cụ thể của pháp luật về hộ tịch, mà chủ thể đó có thể là cơ quan nhà nước hoặc bất kỳ cá nhân nào trong xã hội. Do đặc thù của hộ tịch là liên quan trực tiếp và thường xuyên đến quyền và nghĩa vụ của mọi cá nhân trong xã hội nên chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch có phạm vi rộng lớn về số lượng, cụ thể như: Nếu trong quan hệ xử lý vi phạm hành chính thì chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thực hiện thông qua hành vi của cán bộ, công chức được giao thẩm quyền xử phạt), nhưng nếu trong quan hệ pháp luật về đăng ký hộ tịch thì chủ thể thực hiện pháp luật có thể là bất kỳ cá nhân nào trong xã hội…

Thứ hai, thực hiện pháp luật về hộ tịch là một quá trình hoạt động có mục đích xác lập quan hệ pháp luật hành chính về hộ tịch.

Thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về hộ tịch nói riêng luôn là hoạt động có mục đích của các chủ thể. Các chủ thể khi tiến hành các hành vi luôn mong muốn đạt được một kết quả cụ thể, nhất định. Mục đích đó có thể là lâu dài, trước mắt, mục đích chung cho toàn bộ quá trình hoặc được xác định theo từng nội dung cụ thể. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận và ghi vào hệ thống đăng ký các thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân, tạo cơ sở để xác lập mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước (quan hệ nhà nước – công dân), là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự khác của mình. Chẳng hạn, đối với chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch là một công dân đăng ký khai sinh. Hoạt động tuân thủ pháp luật về hộ tịch của công dân này nhằm mục đích là được cấp giấy khai sinh để phục vụ các công việc của bản thân.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về hộ tịch là nhằm hiện thực hóa các quy phạm pháp luật về hộ tịch đưa pháp luật vào đời sống.

Các quy định của pháp luật về hộ tịch muốn phát huy được hiệu lực, hiệu quả trên thực tế đòi hỏi phải có hành vi thực hiện pháp luật về hộ tịch của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Thông qua hành vi của mình, có thể bằng hành động hoặc không hành động, các chủ thể pháp luật đã đưa pháp luật về hộ tịch vào đời sống.

Ví dụ cụ thể như pháp luật về hộ tịch nghiêm cấm các hành vi: cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ của người khác để đăng ký hộ tịch, đe dọa, cưỡng ép, cản trở việc thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng ký hộ tịch, cam đoan, làm chứng sai sự thật để đăng ký hộ tịch, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ hộ tịch hoặc thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch, đưa hối lộ, mua chuộc, hứa hẹn lợi ích vật chất, tinh thần để được đăng ký hộ tịch, lợi dụng việc đăng ký hộ tịch hoặc trốn tránh nghĩa vụ đăng ký hộ tịch nhằm động cơ vụ lợi, hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước hoặc trục lợi dưới bất kỳ hình thức nào, người có thẩm quyền quyết định đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch cho bản thân hoặc người thân thích theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, truy cập trái phép, trộm cắp, phá hoại thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch nên bằng hành vi của mình, các chủ thể đã giúp quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch được đảm bảo.

      1. 1.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch

Pháp luật về hộ tịch giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì và thực hiện các sự kiện hộ tịch. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi đăng ký hộ tịch, quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính để buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đăng ký, quản lý hộ tịch. Đồng thời, pháp luật về hộ tịch quy định quy trình, thủ tục, cách thức thực hiện các sự kiện hộ tịch từ phía người dân cũng như từ phía cán bộ có thẩm quyền. Mọi quy trình, thủ tục đểu được pháp luật quy định chặt chẽ. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch được thể hiện cụ thể ở một số khía cạnh sau:

Một là, nhà nước công nhận một con người tồn tại với tất cả đầy đủ tính pháp lý thông qua việc đăng ký hộ tịch. Quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên, liên tục của các cơ quan nhà nước để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch. Trên cơ sở đó, nhà nước bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình khi tham gia vào các quan hệ xã hội như quyền được kết hôn khi công dân đủ tuổi theo quy định của pháp luật, quyền được giám hộ, quyền được thừa kế… từ đó, góp phần xây dựng các chính sách về phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình.

Trên cơ sở theo dõi biến động về hộ tịch mà các cơ quan nhà nước xây dựng chính sách phù hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính, nguồn nhân lực từ đó có phân tích đánh giá cụ thể làm cơ sở để hoạch định các chính sách về phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, thể dục thể thao, xây dựng cơ sở y tế, trường học, bố trí giáo viên…, chăm sóc sức khỏe trong nhân dân, đảm bảo cân bằng giới tính phục vụ an ninh quốc phòng…

Hai là, thực hiện pháp luật về hộ tịch thể hiện rõ ràng nhất sự tôn trọng của nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự, ví dụ như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi, v.v. Ở thực hiện pháp luật về hộ tịch chính là phương tiện để người dân thực hiện, hưởng thụ các quyền nhân thân đó. Các dữ liệu về căn cước công dân thể hiện trên chứng thư hộ tịch (giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn …) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi người, qua đó, các cơ quan tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người đó có khả năng, điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật hay không.

Ba là, việc đăng ký khai sinh của cơ quan đăng ký hộ tịch là bước khởi đầu của hoạt động quản lý nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng là bước khởi đầu cho mọi mối quan hệ giữa công dân với nhà nước. Như vậy, có thể khẳng định, thực hiện pháp luật về hộ tịch là một lĩnh vực hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của nhà nước. Với ý nghĩa đó, việc nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật hộ tịch chính là sự bảo hộ đối với việc thực hiện các quyền con người.

Bốn là, việc thực hiện pháp luật hộ tịch của các cơ quan nhà nước còn có vai trò to lớn đối với việc đảm bảo trật tự xã hội. Đặc biệt, sau khi Luật hộ tịch ra đời, hệ thống cơ sở dữ liệu hộ tịch có thể giúp truy tìm nguồn gốc của cá nhân một cách dễ dàng. Trong hoạt động tư pháp, khi cần đánh giá năng lực chủ thể của một cá nhân trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, các cơ quan tiến hành tố tụng luôn cần đến giấy khai sinh của cá nhân đó. Giấy khai sinh chứa đựng các dữ liệu gốc của cá nhân như ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, dân tộc, quốc tịch, quê quán, họ tên cha mẹ,…có thể được sử dụng là chứng cứ trong quá trình điều tra.

Với vai trò, ý nghĩa quan trọng như vậy, trong sự phát triển của mỗi quốc gia, việc xây dựng và khai thác hiệu quả hệ thống quản lý hộ tịch phục vụ cho công tác quản lý nhà nước luôn được quan tâm

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *