Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện

Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Nam Giang

Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện và sâu sắc các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta đã và đang không ngừng nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN thì bên cạnh việc xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, điều quan trọng hơn là phải đưa pháp luật vào thực tế xã hội để mọi thành viên trong xã hội, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS), hiểu được những nguyên tắc, quy định pháp luật; từ đó, sử dụng pháp luật như một công cụ để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cộng đồng và của mỗi người dân. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN, luôn luôn đặt pháp luật ở vị trí thượng tôn, yêu cầu mọi công dân phải sống, làm việc theo pháp luật; đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) cho các tầng lớp nhân dân nhằm trang bị cho họ những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật.

Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc “Đổi mới” do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đã đưa đất nước vượt qua được thời kỳ khủng hoảng kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề kinh tế – xã hội. Xây dựng “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Pháp huy dân chủ đi đôi với giữ vũng kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục phát luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”. Vì vậy, công tác GDPL rất được chú trọng và được đưa vào trong hệ thống các trường học, các cơ quan, tổ chức, các đoàn thể nhân dân.

Trong những năm qua, trên địa bàn huyện Nam Giang với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, công tác phổ biến, GDPL đã có những chuyển biến tích cực, đã góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập trên nhiều mặt, từ việc xác định mục tiêu GDPL, xây dựng đội ngũ báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV) pháp luật, lựa chọn nội dung, phương pháp cho đến hình thức GDPL cho đồng bào DTTS; bên cạnh đó trách nhiệm của các cấp, các ngành chưa được xác định cụ thể, rõ ràng nên kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu. Sự hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân vùng đồng bào DTTS vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; điều kiện để tiếp nhận thông tin, nhất là các văn bản pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa bị hạn chế. Vì vậy, vẫn còn có tình trạng các luật tục của người đồng bào DTTS chi phối, điều chỉnh các quan hệ xã hội ở thôn, buôn. Bối cảnh đó càng cho thấy việc tuyên truyền và GDPL Nhà nước, đưa pháp luật vào cuộc sống ở đây là vấn đề đòi hỏi cần được đáp ứng kịp thời.

Luật phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 đã quy định Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân điều đó khẳng định sự quan tâm thiết thực của Đảng, Nhà nước ta đối với đồng bào DTTS. Một vấn đề đặt ra là làm thế nào, cần có giải pháp gì để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào DTTS, trong đó có đồng bào DTTS huyện Nam Giang đi vào thực tiễn, từng bước nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân. Giữa hoạt động GDPL và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, khả năng sử dụng kiến thức pháp luật để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào DTTS, tăng cường xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật, giảm thiểu về tội phạm trong cộng đồng, đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn.

Như vậy hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS huyện Nam Giang đang là một yêu cầu khách quan, có tầm quan trọng trong điều kiện góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay của địa phương. Đó cũng là lý do tác giả chọn nghiên cứu vấn đề: “Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn chuyên ngành Luật Hiến pháp, Luật hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu phân tích lý luận, đánh giá thực tiễn công tác GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang; luận văn đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo đảm công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Phân tích cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động GDPL nói chung và cho đồng bào DTTS bao gồm: khái niệm, đặc trưng, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức…; những yếu tố tác động đến công tác GDPL cho nhóm đối tượng này.

– Khảo sát, đánh giá đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa – xã hội vùng đồng bào DTTS trên địa bàn nghiên cứu có ảnh hưởng đến công tác GDPL trong giai đoạn 2011-2018. Làm rõ thực trạng công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang giai đoạn 2011-2018, trên phương diện những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế, tìm nguyên nhân của thực trạng; từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc kiến nghị, đề xuất xây dựng các giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công tác này.

– Trên cơ sở các quan điểm có tính chất chỉ đạo, Luận văn đề xuất, luận giải tính khả thi của các giải pháp đảm bảo nâng cao về chất lượng, hiệu quả trong hoạt động công tác GDPL cho đồng bào DTTS huyện Nam Giang trong giai đoạn tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về hoạt độngGDPL cho đồng bào DTTS. Đây là đề tài có đối tượng nghiên cứu tương đối rộng, song trong khuôn khổ nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập về công tác GDPL cho đối tượng là đồng bào DTTS trên địa bàn Huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam nói chung và đại diện tiêu biểu là đồng bào DTTS chiếm số đông trong cộng đồng các DTTS ở huyện Nam Giang gồm: đồng bào Chăm Hroi và đồng bào Ê đê.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi của luận vănđược giới hạn theo không gian, thời gian và tính chất nghiên cứu. Theo không gian, phạm vi khảo sát thực tiễn vấn đề nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở huyện Nam Giang, tập trung khu vực các xã vùng III và nơi có đông đồng bào DTTS sinh sống. Theo thời gian, khảo sát hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS trong thời gian từ năm 2011 đến nay. Về tính chất nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu sâu về hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết học Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận nhận thức; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà nước ta về công tác dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, về vai trò GDPL nói chung và cho đồng bào DTTS nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụnghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp và phân tích; phương pháp lịch sử và lôgic; thống kê so sánh; khái quát hóa, hệ thống hóa… trong quá trình thực hiện luận văn.

Chương 1: Sử dụng phương pháp khái quát hóa, hệ thống hóa để làm rõ cơ sở lý thuyết về giáo dục pháp luật.

Chương 2: Sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để đánh giá phân tích thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào DTTS tại huyện Nam Giang.

Chương 3: Sử dụng phương pháp lịch sử và lôgic để trình bày một số quan điểm và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn luận giải, khái quát và nêu các đặc trưng của hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam; chỉ ra các yếu tố chủ quan, khách quan có tác động đến công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn nghiên cứu.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về GDPL cho một đối tượng, khu vực cụ thể; đồng thời bổ sung thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng, hoàn thiện về lý luận về GDPL cho đồng bào các DTTS ở tỉnh Quảng Nam nói chung và đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật và giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số

Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam hiện nay

Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam
Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

    1. 1.1. Khái niệm, mục đích giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số

1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật

GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Khái niệm GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Với tư cách là một dạng giáo dục thì GDPL ở nước ta hình thành và thực hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị, và giáo dục đạo đức. Với tư cách là một khái niệm pháp lý – GDPL được hình thành trong khoa học pháp lý cũng như được tiến hành trong thực tế ở nước ta rất muộn mằn so với nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy, quan niệm về GDPL ở nước ta vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau, đó là lẽ bình thường. Song để có một cách nhìn nhận đúng đắn khoa học về GDPL, trước hết cần xem xét một số các quan niệm về GDPL cơ bản sau đây (Vũ Quang Hưng, 2014):

– Thứ nhất, GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ đạt được sự tôn trọng pháp luật của nhân dân.

– Thứ hai, Xem GDPL chỉ đơn thuần là hoạt động phổ biến tuyên truyền, giải thích pháp luật thông qua các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng như: đài phát thanh, truyền hình và sách báo. Chỉ cần làm tốt công tác thông tin, phổ biến tuyên truyền pháp luật như vậy là có thể làm tốt công tác GDPL.

– Thứ ba, GDPL là lấy “trừng trị” để giáo dục người vi phạm và răn đe, giáo dục người khác. Thông qua việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật cũng như áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, xử phạt vi phạm hành chính hay áp dụng các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng GDPL cho mọi người.

– Thứ tư, Công tác GDPL đồng nghĩa với việc dạy và học pháp luật ở các trường học, còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì không phải là GDPL.

Các quan niệm trên, mặc dù ở những góc độ khác nhau nhưng đều có sự nhìn nhận GDPL ở những khía cạnh và mức độ hợp lý nhất định. Song ở các quan niệm đó đều bộc lộ ít nhiều sự phiến diện; chưa thể hiện được đặc thù và giá trị vốn có của GDPL. Vì vậy, những quan niệm đó đã hạ thấp vai trò, vị trí xã hội của GDPL. Mặt khác trong thực tiễn, các quan niệm trên đã không tạo ra khả năng hoặc thậm chí cản trở việc triển khai hoạt động GDPL có tổ chức cũng như quy mô việc thực hiện pháp luật; làm cho hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế không cao.

Để có quan niệm đúng đắn về GDPL, con đường duy nhất cần tiếp cận là những thành tựu của khoa học giáo dục học. Giáo dục là một hiện tượng xã hội và chỉ có trong xã hội loài người thể hiện nền văn minh nhân loại. Giáo dục luôn luôn là nhu cầu của xã hội, nó có vai trò tác động trở lại xã hội. Vì thế mà các nhà nước của giai cấp cầm quyền, để bảo vệ quyền lợi của mình đều thông qua giáo dục. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo hai nghĩa đó là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

+ Theo nghĩa rộng: giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều kiện khách quan (như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống….) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ định và định hướng của nhân tố con người) nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục. (Ngọ Văn Nhân, 2012)

+ Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội. (Ngọ Văn Nhân, 2012)

Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình thành ý thức cá nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục hiện nay chúng ta thường được hiểu theo nghĩa hẹp, từ đó các nhà khoa học đã xây dựng khái niệm GDPL bởi các yếu tố sau đây (Vũ Ngân, 2016):

Thứ nhất: Sự hình thành ý thức của con người là một quá trình chịu ảnh hưởng và sự tác động của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố chủ quan. Các Mác viết: “Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi”. Khi nghiên cứu sự tác động ảnh hưởng lên ý thức con người thì các nhà lý luận giáo dục đã phân biệt điều kiện khách quan và chủ quan. Điều kiện khách quan là những yếu tố ảnh hưởng hình thành lên ý thức con người và điều kiện chủ quan là nhân tố tác động có chủ đích, có định hướng, có nội dung và phạm vi nhất định. Vậy theo nghĩa hẹp của giáo dục có thể vận dụng vào quan niệm GDPL đó là sự tác động có định hướng của nhân tố chủ quan bằng việc xác định nội dung, chương trình pháp luật cần đưa vào kế hoạch giáo dục cho công dân.

Thứ hai: Từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm để xây dựng khái niệm GDPL chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”, “cái đặc thù”; trong mối quan hệ với giáo dục nói chung là “cái chung”, “cái phổ biến”, “cái riêng” vừa phải mang những đặc điểm chung vừa phải mang tính thể hiện những nét đặc thù. GDPL là “cái riêng” “cái đặc thù” trong mối quan hệ với giáo dục là “cái chung”, “cái phổ biến”. Tính đặc thù của GDPL so với các hoạt động giáo dục khác ở một số điểm: về mục đích, nội dung, về chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp GDPL.

Thứ ba: Quan niệm GDPL vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt hai phạm trù: GDPL và ý thức pháp luật. Hoạt động GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan, mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch về nội dung, chương trình, còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm, là kết quả của các ảnh hưởng của điều kiện khách quan, là sự tác động của nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố chủ quan này lại có vai trò chủ đạo và quyết định đến sự hình thành ý thức pháp luật.

Từ phân tích như trên có thể khái quát về GDPL như sau: Giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể GDPL, tác động đến đối tượng tiếp nhận GDPL nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen và hành vi ứng xử tích cực theo pháp luật và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN. (Vũ Ngân, 2016)

1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật

Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. GDPL được xem là cầu nối giữa đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, vấn đề xác định được mục đích của GDPL có ý nghĩa quan trọng, nhằm xây dựng ý thức pháp luật trong nhân dân. Dựa trên các nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tiễn, GDPL có những mục đích cơ bản như sau:

Thứ nhất, Nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng (Mục đích nhận thức): Không phải lúc nào mọi người trong xã hội cũng chủ động tìm hiểu, quan tâm, đồng tình ủng hộ và nghiêm túc thực hiện pháp luật của Nhà nước. Mặc dù, pháp luật được coi là phương tiện để công dân thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại của người khác, kể cả từ một số cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước. Trong xã hội, pháp luật cũng được một số người dân tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của bản thân như học tập, nghiên cứu, kiện tụng hay nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ. Cũng có những người luôn theo sát và tìm hiểu những quy định pháp luật mới được ban hành nhưng không nhiều và sự hiểu biết rõ về quy định pháp luật chưa sâu. Trong khi đó, do nhu cầu phát triển của đời sống kinh tế – xã hội, sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật phải được thực hiện và liên tục. Do đó, số đông quần chúng nhân dân chưa có điều kiện tiếp cận pháp luật cũng như có tiếp cận cũng chưa hiểu biết hết về pháp luật. Nếu pháp luật không được nhân dân biết đến và hiểu đúng thì pháp luật vẫn không đi vào cuộc sống và phát huy đúng vai trò của pháp luật trong Nhà nước pháp chế XHCN.

Chính vì vậy, mục đích của GDPL là nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng là một trong những mục đích quan trọng. GDPL là phương tiện truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với người dân, giúp cho họ hiểu biết, nắm bắt kịp thời pháp luật; là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân.

Thứ hai, Hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng (Mục đích cảm xúc): Để nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật không thể chỉ dùng biện pháp cưỡng chế mà phải tạo được lòng tin, sự tin tưởng của mọi người dân vào những quy định của pháp luật. Đây là mục đích rất quan trọng, vì nếu không có sự tôn trọng, lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật thì người dân rất dễ bị thế lực xấu kích động đứng lên chống phá nhà nước hoặc có những hành động vi phạm pháp luật.

Tạo dựng lòng tin vào pháp luật cho mỗi người dân trong xã hội đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng là GDPL để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện áp dụng pháp luật. Từ đó, mọi người sẽ hiểu biết đúng về quyền và lợi ích của bản thân trong xã hội và sẽ đồng tình ủng hộ pháp luật.

Thứ ba, Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng (Mục đích hành vi): Tự giác là tự mình hiểu mà làm, không cần nhắc nhở, đốc thúc (Nguyễn Quốc Sữu, 2011). Xây dựng ý thức tự giác chấp hành luật pháp của người dân đang là vấn đề được Nhà nước và xã hội rất quan tâm, bởi việc chấp hành pháp luật là điều kiện tiên quyết để xã hội vận hành có trật tự, kỷ cương và là điều kiện quyết định góp phần phát triển bền vững đất nước. Trong xã hội hiện đại, ý thức chấp hành pháp luật là một trong các biểu hiện của lối sống có văn hóa. Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật.

Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích luỹ kiến thức của hoạt động thực tiễn và công tác.

Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.

Sự tự giác ý thức pháp luật có được từ kết quả của nhiều yếu tố, trong đó giáo dục kết hợp với răn đe, xử lý, giữ vai trò quan trọng giúp mỗi cá nhân chấp hành luật pháp một cách nghiêm túc. Tất nhiên, để việc chấp hành pháp luật trở thành ý thức tự giác của phần lớn nhân dân, còn cần tới sự gương mẫu chấp hành của những người “cầm cân nảy mực”, sự công bằng và minh bạch trong thi hành pháp luật, có sự hỗ trợ và kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đoàn thể, khu dân phố và có sự tham gia của cả cộng đồng. Và hơn hết, mỗi người cần xác định rõ trách nhiệm của mình, để từng bước hình thành và xây dựng nếp sống tự giác chấp hành pháp luật, coi đó là tiêu chí của lối sống văn hóa từ trong chính gia đình, làng xóm, tổ dân phố, khu dân cư, nơi làm việc của mình.

Thứ tư, GDPL góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội: Vai trò quan trọng trong công tác GDPL bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật là phương tiện hàng đầu để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. GDPL giúp cho mọi người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi người.

GDPL đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.

    1. 1.2. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số

1.2.1. Chủ thể của giáo dục pháp luật

Theo lý luận giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào giáo dục pháp luật, có thể hiểu chủ thể của giáo dục pháp luật là tất cả những người có chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật cho các đối tượng của GDPL. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu và trình độ, kỹ năng GDPL khác nhau.

Chủ thể chuyên nghiệp GDPL là những người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện mục đích, nội dung GDPL (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền về pháp luật…)

Chủ thể không chuyên nghiệp GDPL là những người mà chức năng, nhiệm vụ chính không phải là GDPL, nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích GDPL (Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp…)

Các loại chủ thể đều có các hình thức, phương thức và phương pháp tiến hành hoạt động GDPL khác nhau.

1.2.2. Đối tượng của giáo dục pháp luật

Khách thể được quan niệm là “đối tượng chịu sự chi phối của hành động, trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động gọi là chủ thể”. Từ khái niệm chung đó có thể đồng nhất khách thể với đối tượng chịu sự tác động. “Khách thể của (đối tượng) của giáo dục pháp luật là những cá nhân, nhóm cộng đồng xã hội cùng với ý thức và hành vi pháp luật của họ”.

Tại Mục 2, Chương II- Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 có chỉ ra một số đối tượng đặc thù của phổ biến GDPL, gồm: Người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; người lao động trong các doanh nghiệp; nạn nhân bạo lực gia đình; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo. GDPL là giáo dục cho tất cả người dân trong xã hội. Quá trình GDPL thực chất là quan hệ xã hội giữa một bên là người giáo dục (chủ thể) và một bên là người được giáo dục (khách thể hay đối tượng). Mối quan hệ này có tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên tham gia trong mối quan hệ. Song chiều tác động chủ yếu vẫn là sự tác động, chi phối của người giáo dục (chủ thể). Sự tác động giáo dục là những hoạt động có ý thức, có định hướng, có kế hoạch, nhằm đạt tới mục tiêu, mục đích nhất định (bao gồm mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành vi, thói quen xử sự theo pháp luật). Nói cách khác, chủ thể GDPL tác động lên khách thể (đối tượng) GDPL với những mong muốn cụ thể là xây dựng được ý thức và những hành vi hợp pháp cho khác thể (đối tượng) GDPL.

    1. 1.3. Nội dung và hình thức giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số

1.3.1. Nội dung của giáo dục pháp luật

Muốn hiện thực hóa mục đích, mục tiêu GDPL thì phải có những nội dung giáo dục cụ thể. Đó là toàn bộ những gì mà chủ thể GDPL cần truyền đạt, chuyển tải cho đối tượng GDPL, giúp họ có những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật; trên cơ sở đó, hình thành, phát triển ý thức pháp luật, niềm tin đối với pháp luật và lối sống pháp luật.

Theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012, nội dung của phổ biến GDPL bao gồm: “1. Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. 2. Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thoả thuận quốc tế. 3. Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật”.

Phạm vi của nội dung GDPL bao gồm hệ thống pháp luật thực định, các văn bản pháp luật; các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật và thực tiễn pháp luật, các thông tin về tình hình vi phạm pháp luật, tình hình tội phạm; kết quả xử lí các vi phạm pháp luật theo các nguyên tắc, quy định của pháp luật hiện hành; các thông tin phản hồi từ các tầng lớp nhân dân góp ý, đề xuất ý kiến về việc thực hiện, xây dựng và hoàn thiện pháp luật…

Giáo dục pháp luật cho đồng bào DTTS trong giai đoạn hiện nay là một trong những yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết, là một loại hoạt động có ý nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng, hướng tới cung cấp, trang bị cho đồng bào DTTS những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật; từ đó, làm hình thành ở họ ý thức tôn trọng pháp luật, biết tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật một cách chủ động, tích cực và đúng đắn.

Để có thể khái niệm về công tác GDPL cho đồng bào DTTS thì nhất thiết phải đề cập đến các khía cạnh sau: Thứ nhất, GDPL là hoạt động thể hiện sự tương tác giữa chủ thể GDPL và đối tượng GDPL. Chủ thể GDPL ở đây chính là các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể có chức năng, nhiệm vụ thực hiện GDPL như Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội… Đối tượng tiếp nhận GDPL ở đây chính là đồng bào DTTS. Thứ hai, GDPL cho đồng bào DTTS là hoạt động có định hướng, có mục đích, bao hàm những tác động tự giác, tích cực, tuân theo kế hoạch đã được xác định của chủ thể GDPL lên đối tượng GDPL với các nội dung cụ thể. Thứ ba, quá trình GDPL cho đồng bào DTTS luôn tuân theo nội dung, chương trình PBGDPL cụ thể, dựa trên các phương pháp GDPL khoa học, hiện đại và các hình thức GDPL phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa, lối sống của đồng bào DTTS nhằm hiện thực hóa một cách tối ưu mục tiêu GDPL cho họ. Ngoài ra, hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS cũng phải phù hợp với các đặc điểm văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, truyền thống tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào. Thứ tư, các chủ thể GDPL phải chú trọng trang bị cho đồng bào DTTS những kiến thức, hiểu biết về các lĩnh vực pháp luật có liên quan mật thiết với cuộc sống, lao động của họ với nội dung thật cụ thể, rõ ràng; phương pháp phải truyền đạt dễ hiểu, dễ nhớ; hình thức phải hấp dẫn, sinh động, phù hợp với truyền thống văn hóa, tập quán lao động, sinh hoạt, học vấn của đồng bào DTTS. Thứ năm, GDPL cho đồng bào DTTS, suy cho cùng, phải đạt được mục tiêu, hiệu quả mà chủ thể GDPL đặt ra và cũng là những tiêu chí để đánh giá chất lượng công tác này. Mục tiêu, hiệu quả của GDPL cho đồng bào DTTS phải được đánh giá qua việc người dân đạt được những mục tiêu cụ thể gì từ quá trình này và được nhìn nhận trên ba tiêu chí: mục tiêu về nhận thức, mục tiêu về thái độ và mục tiêu về hành vi.

Từ sự phân tích các khía cạnh nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: GDPL cho đồng bào DTTS là hoạt động có định hướng, có tổ chức, do các chủ thể GDPL tiến hành theo chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức nhất định phù hợp với truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, tập quán sản xuất, sinh hoạt của đồng bào; làm hình thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành; góp phần xây dựng, củng cố ý thức về quyền con người, quyền công dân của đồng bào DTTS để họ có thể tiếp cận, bảo vệ các quyền đó một cách hiệu quả.

Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam
Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tế huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

1.3.2. Hình thức của giáo dục pháp luật

Hiện nay có rất nhiều để thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đó là tuyên truyền phổ biến GDPL qua nhà trường, qua báo chí, mạng lưới truyền thanh cơ sở, qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý và tư vấn pháp luật, qua mạng lưới internet…

Theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, các hình thức của phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm: “1. Họp báo, thông cáo báo chí. 2. Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật. 3. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư. 4. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật. 5. Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở. 6. Lồng ghép trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hoá khác ở cơ sở. 7. Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. 8. Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả”.

Qua khảo sát và tìm hiểu thực tiễn, có thể nhận thấy GDPL có 10 hình thức thông dụng nhất hiện nay. Mỗi hình thức có đặc trưng và kỹ năng riêng của mình:

– Tuyên truyền miệng về pháp luật: đặc trưng chính là dùng lời lẽ trực tiếp truyền đạt nội dung pháp luật cho người nghe.

– GDPL trên các loại hình báo chí, qua mạng internet và qua mạng lưới truyển thanh cơ sở: đặc trưng chính là sử dụng báo nói, báo viết, báo mạng, báo hình để truyền bá nội dung cần phổ biến giáo dục…

– Biên soạn và phát hành các loại tài liệu GDPL: dùng các ấn phẩm để truyền bá nội dung cần phổ biến.

– GDPL trong nhà trường: truyền đạt nội dung pháp luật thông qua các phuơng pháp sư phạm.

– Tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật: vận động, khuyến khích đối tượng tìm hiểu pháp luật thông qua thi thố tài năng.

– Thông qua sinh hoạt của các câu lạc bộ pháp luật: Đối tượng của GDPL đồng thời cũng chính là chủ thể của GDPL, ở mỗi thành viên phát huy tính nhận thức tích cực của mình trao đổi, tranh luận… để mở rộng kiến thức pháp luật của mình.

– Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật: Trực tiếp cung cấp tài liệu, thông tin pháp luật cho đối tượng.

– GDPL thông qua hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý: thông qua việc cung cấp dịch vụ pháp lý, giải đáp pháp luật, hương dẫn thân chủ ứng xử đúng pháp luật để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ mà nâng cao hiểu biết pháp luật cho họ.

– GDPL thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở và xét xử tại Toà án: Thông qua việc giới thiệu văn bản phân tích, hướng dẫn để các bên tranh chấp hiểu văn bản, tự đối chiếu với hành vi của mình và hành vi của phía bên kia để thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên, giúp các bên nhận thức pháp luật sâu sắc hơn. Hay tại các phiên toà xét xử, thẩm phán và các cơ quan hành pháp phân tích điều luật mà bị cáo vi phạm qua đó cả bị cáo và người dân hiểu rõ về pháp luật.

– GDPL thông qua các loại hình văn hoá, văn nghệ, đặc biệt là các loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thông: Khai thác nghệ thuật biểu đạt của một loại hình văn hoá, văn nghệ để đưa pháp luật tới nhân dân.

    1. 1.4. Các yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số

GDPL cho đồng bào DTTS luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan. Tất nhiên, sự phân chia các yếu tố chủ quan và khách quan chỉ có ý nghĩa tương đối, vì về cơ bản, các yếu tố này luôn nằm trong sự đan xen lẫn nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xem xét, đánh giá đúng đắn sự ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đến GDPL cho đồng bào DTTS là cơ sở khoa học, thực tiễn để xây dựng các giải pháp bảo đảm hiệu quả của công tác này.

1.4.1. Các yếu tố chủ quan

Có thể có nhiều yếu tố chủ quan; song, về cơ bản, các yếu tố chủ quan bao gồm trình độ học vấn và các nhân tố tâm lý.

a. Trình độ học vấn

Trình độ học vấn có vai trò đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Nó vừa là nền tảng sức mạnh tinh thần (tri thức là sức mạnh), vừa là động lực thúc đẩy mỗi người vươn lên trong cuộc sống, học tập, lao động, sản xuất nhằm làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Thực tế cho thấy, do nhiều nguyên nhân về lịch sử, kinh tế, xã hội nên nhìn chung trình độ học vấn của đồng bào DTTS còn tương đối thấp; đây là một khó khăn thực sự, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào. Thiếu nền tảng tri thức cần thiết để tiếp thu, lĩnh hội kiến thức pháp luật làm cho chủ thể GDPL mất nhiều thời gian vì phải giải thích lại nhiều lần. Về phía đối tượng, nghe mà không hiểu, không nhớ sẽ nảy sinh tâm lý chán nản, thiếu tự tin, không còn mặn mà tham gia các buổi PBGDPL nữa… Hệ quả của tình trạng này là GDPL không đạt được hiệu quả như mong muốn.

b. Các nhân tố tâm lý

Chất lượng, hiệu quả GDPL cho các đối tượng, trong đó có đồng bào DTTS dù ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng của các nhân tố tâm lý, quan trọng nhất là quá trình tâm lý bắt chướcquá trình lây lan tâm lý. Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành vi, tâm trạng, cách suy nghĩ hay ứng xử của một người hoặc một nhóm người, thấy những người xung quanh làm một việc thì cũng làm theo. Quá trình tâm lý bắc chước thường tạo ra và định hình các “khuôn mẫu hành vi” cho các thành viên trong xã hội; do đó, quá trình tâm lý bắc chước có ảnh hưởng nhất định đến công tác GDPL cho các đối tượng xã hội. Trong hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS, về cơ bản, quá trình tâm lý bắt chước có ảnh hưởng tích cực đối với việc tham gia hoạt động này của người dân, vì đa số đồng bào DTTS là những người chân thật, chất phác, sống đề cao tình nghĩa, coi trọng công lý; biết thực hiện những hành vi hợp pháp dù có thể chưa hiểu biết nhiều về pháp luật. Quá trình lây lan tâm lý cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS.

1.4.2. Các yếu tố khách quan

Các yếu tố khách quan được hiểu là các yếu tố tồn tại bên ngoài nhận thức, quan niệm của chủ thể GDPL và đối tượng tiếp nhận GDPL. Hoạt động GDPL cho bất kỳ đối tượng xã hội nào, trong đó có đồng bào DTTS ở huyện Sơn Hòa, luôn diễn ra trong một phạm vi không gian xã hội nhất định, phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhất định. Nhìn trên phương diện này, các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến GDPL cho đồng bào DTTS bao gồm yếu tố kinh tế, yếu tố văn hóa – xã hội.

a. Yếu tố kinh tế

– Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều kiện về kinh tế, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng như quá trình triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi để hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS đạt được chất lượng, hiệu quả cao. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển chậm, thiếu bền vững sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào. Điều đó nói lên rằng, yếu tố kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS.

– Điều kiện kinh tế: Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất, lợi ích kinh tế của được bảo đảm thì đồng bào DTTS sẽ phấn khởi, tin tưởng vào pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước; nhờ đó, củng cố niềm tin vào hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào DTTS hăng hái, nhiệt tình tham gia hoạt động GDPL nhằm trang bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật. Chỉ khi thu nhập, mức sống của đồng bào DTTS được cải thiện cơ bản, không còn phải lo lắng về cái ăn, cái mặc hàng ngày thì đồng bào mới có thể toàn tâm, toàn ý tham gia các công việc chung, trong đó có GDPL dành cho họ; từ đó, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ cương, phép nước. Còn khi lợi ích kinh tế không được đảm bảo, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn thì tư tưởng nhân dân, đồng bào DTTS sẽ diễn biến phức tạp; ý thức chủ động, tích cực tham gia GDPL sẽ bị suy giảm; và do đó, trình độ kiến thức pháp luật của đối tượng này cũng khó có thể được cải thiện.

Kinh tế phát triển, với nguồn lực kinh tế đủ mạnh, chính quyền các cấp có điều kiện để đầu tư kinh phí nhiều hơn cho việc xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các thiết bị kỹ thuật phục vụ GDPL cho đồng bào DTTS. Chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC quản lý và trực tiếp tham gia GDPL cho đồng bào DTTS nhờ đó cũng gia tăng. Ngoài ra, nguồn kinh phí dồi dào cũng giúp chính quyền các cấp đầu tư mạnh hơn cho việc lựa chọn, gửi con em đồng bào DTTS tham gia các hóa đào tạo chính quy, bài bản về chuyên ngành luật, trở thành cán bộ pháp lý và quay trở về phục vụ chính cộng đồng dân tộc mình. Kinh phí cũng phục vụ cho việc mua sắm các thiết bị điện tử, biên soạn sách pháp luật phổ thông, các loại tài liệu, tờ gấp, tờ rơi, băng, đĩa về pháp luật… phục vụ GDPL cho đồng bào DTTS. Ngược lại, nếu điều kiện kinh tế, nguồn chi ngân sách trung ương và địa phương cho GDPL cho đồng bào DTTS bị eo hẹp thì hoạt động GDPL cho đồng bào khó đạt hiệu quả như mong muốn.

b. Yếu tố văn hóa – xã hội

Yếu tố văn hóa – xã hội luôn gắn liền với một phạm vi không gian – xã hội nhất định – nơi các cá nhân và cộng đồng xã hội tổ chức các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, lối sống, phong tục, tập quán và tín ngưỡng. Các yếu tố văn hóa – xã hội đó bao gồm: các giá trị văn hóa truyền thống, ngôn ngữ, lối sống, các phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc DTTS, dư luận xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng. Ở mức độ khác nhau, các yếu tố đó ảnh hưởng đến GDPL cho đồng bào DTTS, bao gồm các tác động tích cực và cả tác động tiêu cực.

Lối sống của đồng bào DTTS – một thành tố của văn hóa – cũng có ảnh hưởng quan trọng tới GDPL cho họ. “Lối sống là tổng thể các nét cơ bản đặc trưng cho phương thức hoạt động sống và sinh hoạt của các giai cấp, dân tộc, các tập đoàn xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định về mặt lịch sử” [31, tr.318]. Về nguyên tắc, phương thức hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của một cộng đồng người như thế nào thì sẽ quy định và làm hình thành lối sống tương ứng như thế ấy. Căn cứ vào cách thức tổ chức cư trú, lao động, sinh hoạt của cư dân, lối sống được chia thành lối sống đô thị, lối sống nông thôn và vùng đồng bào DTTS với những nét đặc trưng riêng.

Đặc trưng nổi bật trong của lối sống của đồng bào DTTS là tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Ý thức cộng đồng giúp cho các chủ thể GDPL dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đồng bào DTTS. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các chủ thể GDPL hoàn thành tốt nhiệm vụ GDPL, vì “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Tinh thần đoàn kết là nền tảng để đồng bào DTTS động viên nhau, cùng nhau nhận thức được những lợi ích thiết thực mà việc hiểu biết pháp luật mang lại cho mỗi cá nhân; từ đó, đồng bào DTTS sẽ cùng nhau tích cực tham dự hoạt động GDPL.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *