Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật

Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật

Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

  1. 1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là kết tinh của quá trình đấu tranh, phát triển của xã hội loài người. Ngày 24/10/1945, Liên Hợp Quốc được thành lập và đánh dấu sự ghi nhận quyền con người với ý nghĩa quốc tế, thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội trên toàn thế giới.

Ở Việt Nam, quyền con người đã có từ lâu, song chỉ đến ngày 02/9/1945, quyền con người mới chính thức được công nhận bằng pháp luật. Nhà nước Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, bao giai đoạn đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội mà xét đến cùng là vì con người. Điều đó được phản ánh chân thực qua các bản Hiến pháp của Nhà nước ta các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều thể chế hóa quyền con người, từng bước mở rộng hơn quyền con người. Đảng ta cũng xác định mục tiêu phát triển của Việt Nam là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà ở đó quyền con người được tôn trọng và thực thi đầy đủ trong thực tiễn đời sống xã hội. Ngay từ năm 1991, Đảng ta đã xác định việc xây dựng đất nước không phải nhằm mục đích nào khác mà “vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người” [10].

Đi liền với đó, Nhà nước ta cũng chú trọng quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đáng chú ý, quyền con người trong các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia ký kết từng bước được thể chế hóa. Mặt khác, tùy từng điều kiện cụ thể, Việt Nam cũng dành nhiều chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo quyền con người trên thực tế. Đặc biệt, quyền con người của nhóm dễ bị tổn thương như người chưa thành niên, phụ nữ, người khuyết tật,… được cụ thể hóa đầy đủ trong các văn bản quy phạm pháp luật. Các cơ quan bảo vệ pháp luật không ngừng được kiện toàn, xã hội ngày càng tạo môi trường tự do và bình đẳng để mọi người phát triển, thực hiện quyền của mình và bảo vệ quyền đó khỏi các hành vi xâm hại.

Quyền con người, nhất là quyền con người trong lĩnh vực TTHS là vấn đề hết sức nhạy cảm, động chạm rất nhiều đến quyền con người. Không thể phủ nhận, hoạt động của các CQTHTT đã góp phần rất lớn trong việc thực thi, đảm bảo quyền con người trong thời gian qua. Theo đó, quyền của con người trong TTHS được tôn trọng và thực thi đúng theo quy định của pháp luật. Song trong tiến trình hoạt động có lúc, có nơi quyền con người, đặc biệt là đối với nhóm dễ bị tổn thương trong TTHS chưa được tôn trọng, chưa có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ dẫn đến oan sai, bức cung, dùng nhục hình, đặc biệt là đối với người bị tạm giam. Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có sự hạn chế, thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật và sai phạm trong áp dụng pháp luật.

Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của người bị tạm giam và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm thực hiện quyền của người bị tạm giam trong TTHS có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.

Đó cũng là lý do để tác giả chọn đề tài: “Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” làm luận văn nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền của người bị tạm giam, đồng thời nghiên cứu quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động TTHS về quyền của người bị tạm giam tại địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; thực trạng bảo đảm các quyền này trên thực tế, đề tài tìm ra các phương diện bảo đảm cho quyền của người bị tạm giam; chỉ ra những bất cập, hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục đích nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:

– Làm rõ các vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của người bị tạm giam và hệ thống lại các biện pháp bảo đảm quyền của người bị tạm giam trong pháp luật TTHS; làm rõ những đặc điểm chung và những đòi hỏi đặc thù về quyền của người bị tạm giam trong các giai đoạn TTHS;

– Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về quyền của người bị tạm giam trong BLTTHS và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam;

– Đánh giá thực trạng đảm bảo quyền của người bị tạm giam trong quá trình TTHS trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng nhằm tìm ra những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân của các vi phạm trong vấn đề này;

– Làm rõ các yêu cầu và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo quyền của người bị tạm giam theo pháp luật TTHS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của người bị tạm giam trong pháp luật TTHS Việt Nam, pháp luật thực định về quyền của người bị tạm giam và thực tiễn áp dụng pháp luật có liên quan trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tại địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật thực định hiện hành về quyền của người bị tạm giam và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan dưới góc độ khoa học luật TTHS, thuộc chuyên ngành Luật hình sự và TTHS, mã số: 8.38.01.04;

Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn bảo đảm quyền người bị tạm giam tại địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Phạm vi về thời gian: Các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập từ năm 2014 đến năm 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền XHCN, về quyền con người cũng như bảo đảm quyền con người trong TTHS.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã có sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, như khảo sát thực tiễn, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,… Quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn bảo đảm quyền của người bị tạm giam trong điều tra, truy tố, xét xử của CQĐT, Viện kiểm sát và TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, nghiên cứu hồ sơ một số vụ án điển hình làm cơ sở cho việc nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền con người của người bị tạm giam trong pháp luật TTHS và hệ thống hóa các cơ chế bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam;

– Phân tích có hệ thống các quy định của BLTTHS và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, đánh giá toàn diện thực tiễn bảo đảm quyền của người bị tạm giam trong pháp luật TTHS tại địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, từ đó tìm ra những hạn chế, vướng mắc và bất cập về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam trong TTHS và nguyên nhân của các hạn chế, bất cập đó.

– Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật TTHS về quyền con người, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam trong thực tiễn.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong học tập, nghiên cứu, lập pháp TTHS cũng như trong thực tiễn tiến hành các hoạt động về điều tra, truy tố, xét xử có liên quan. Đặc biệt là đối với các nhà nghiên cứu, người làm công tác thực tiễn liên quan đến quyền con người, quyền của người bị tạm giam.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu thành 3 chương sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về quyền con người của người bị tạm giam;

Chương 2: Thực tiễn đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam tại quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng;

Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam.

Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TTHS VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIAM

    1. 1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người của người bị tạm giam
      1. 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Khái niệm tạm giam và chế độ tạm giam

Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Đó là biện pháp bảo đảm cho hoạt động TTHS được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao, đồng thời thể hiện sự hạn chế của Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội xâm phạm các lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án, các CQTHTT nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, để bảo đảm đề cao và hạn chế vi phạm các quyền của công dân, quyền con người trong suốt quá trình đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Bản chất của tạm giam còn thể hiện ở chỗ, đây là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước áp dụng đối với những đối tượng nhất định và trong các trường hợp luật định, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở cho hoạt động TTHS.

Theo Điều 119 BLTTHS thì đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo, tức là những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử và không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị tạm giam mà chỉ áp dụng khi bị can, bị cáo rơi vào trường hợp sau:

– Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

– Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vẫn vi phạm;

+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác và người thân thích của những người này.

– Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

– Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp sau: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

– Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại tới an ninh quốc gia.

Là biện pháp cưỡng chế Nhà nước, pháp luật hình sự chỉ quy định một phạm vi hẹp những cơ quan và cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam, đó là:

– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT – Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

– Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự;

– Chánh án, Phó Chánh án TAND; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự và Hội đồng xét xử [30].

Như vậy, so với Điều 88 BLTTHS năm 2003, quy định về điều kiện để tạm giam tại Điều 119 BLTTHS năm 2015 có phần chặt chẽ hơn, nhất là đối với trường hợp tạm giam người phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng. Điều 119 BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ hơn một số hành vi cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử. Bên cạnh đó, Điều 119 BLTTHS năm 2015 còn bổ sung việc tạm giam mà BLHS quy định mức hình phạt đến 02 năm tù đối với người phạm tội không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch bị can, người phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm trong trường hợp họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Tạm giam là biện pháp hạn chế về mặt tự do mà CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp cụ thể do luật định. Thời hạn tạm giam phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng cũng như tính chất phức tạp của vụ án hình sự. Tạm giam là biện pháp mang tính nghiêm khắc nhất trong số các biện pháp ngăn chặn. Nếu như các biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến một số quyền tự do khác của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp thì tạm giam hạn chế các quyền này và nhiều quyền khác nữa. Biện pháp bắt và tạm giữ cũng là biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhưng điểm khác biệt nằm ở chỗ, thời gian hạn chế của nó ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Sau khi tiến hành bắt người, CQĐT có 24 giờ để lấy lời khai, ra các quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt; thời hạn tạm giữ là 03 ngày và nếu gia hạn thì tối đa là 09 ngày. Trong khi đó, thời hạn tạm giam để tiến hành việc điều tra có thể lên tới 12 tháng, thậm chí là 16 tháng. Cần lưu ý rằng, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam không đồng nhất với hình phạt tù bởi lẽ mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng đắn, khách quan, còn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án áp dụng nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội.

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn mang tính lựa chọn, tức là tùy nghi áp dụng. Không bắt buộc mọi trường hợp khi đủ căn cứ tạm giam đều phải áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Với mục đích ngăn ngừa tội phạm, việc quy định biện pháp tạm giam trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự của công dân. Tạm giam chính xác sẽ góp phần vào đảm bảo quyền con người. Tạm giam đúng còn bảo đảm cho công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có chất lượng, bảo đảm hoạt động của các cơ quan THTT được thuận lợi, hiệu quả.

Như vậy, tựu trung lại, tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do người có thẩm quyền ở CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp cụ thể do BLHS quy định nhằm mục đích ngăn ngừa tội phạm, bảo đảm hiệu quả hoạt động TTHS và bảo vệ lợi ích của công dân, Nhà nước và toàn xã hội.

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc trong TTHS hạn chế một số quyền tự do cơ bản của người bị tạm giam nhưng vẫn phải bảo đảm các quyền mà người bị tạm giam chưa bị tước bỏ hoặc hạn chế. Đó là lý do khoản 3 Điều 3 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định về chế độ tạm giam. Theo đó, “chế độ tạm giữ, tạm giam là chế độ quản lý giam giữ người bị tạm giữ, người bị tạm giam và chế độ ăn, ở, mặc, tư trang, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo và tài liệu, gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam” [31]. Cần lưu ý rằng, chế  độ tạm  giam không đồng nhất với chế độ dành cho người đang chấp hành hình phạt tù giam. Sự khác biệt này thể hiện ở nhiều chế độ như: nơi giam, sinh hoạt, chăm sóc, thăm gặp, nhận quà,… đều khác nhau. Bên cạnh đó, người bị tạm giam không phải chấp hành chế độ của người thi hành phạt tù mà chỉ chấp hành những quy định của Chính phủ về chế độ sinh hoạt, nhận quà và liên hệ với thân nhân trong thời gian bị tạm giam. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, chế độ tạm giam cũng bao gồm các nghĩa vụ mà người bị tạm giam phải tuân thủ, thực hiện.

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm, chế độ tạm giam là hệ thống quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giam mà cơ sở giam giữ phải bảo đảm cho người bị tạm giam thực hiện để thực hiện hiệu quả hoạt động quản lý, đồng thời bảo đảm quyền con người chưa bị hạn chế hoặc tước bỏ của người bị tạm giam trong suốt quá trình giam giữ.

1.1.1.2. Khái niệm người bị tạm giam

Người bị tạm giam là người bị CQTHTT nghi ngờ là đã thực hiện tội phạm. Do đó, họ có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn mà các biện pháp này ít nhiều tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền con người cơ bản trong khoảng thời gian nhất định. Trong các giai đoạn tố tụng khác nhau thì tên gọi cũng như địa vị pháp lý của người bị tạm giam cũng không giống nhau. Trước khi trở thành người bị tạm giam thì nhiều người trong số họ là người bị tạm giữ. Điều 59 BLTTHS quy định rất rõ: “Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”.[30]

Trong BLTTHS, không có điều luật nào quy định về khái niệm người bị tạm giam song dựa vào Điều 119 BLTTHS có thể thấy biện pháp tạm giam được áp dụng với bị can, bị cáo, tức là để trở thành người bị tạm giam trước hết họ phải là bị can, bị cáo. Các Điều 60, 61 BLTTHS quy định rất cụ thể bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.

Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam cũng quy định rất rõ về khái niệm người bị tạm giam. Theo đó, “Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bao gồm bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ”.[3303] Như vậy, có thể thấy Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam đã bổ sung thêm đối tượng bị tạm giam là “người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ”. Đây là quy định tạo sự phù hợp và tiệm cận với pháp luật quốc tế và các công ước về dẫn độ mà Việt Nam tham gia, ký kết.

Tóm lại, có thể đưa ra khái niệm sau: Người bị tạm giam là bị can, bị cáo bị các CQTHTT có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khi có căn cứ cho rằng họ có hành vi cản trở hoạt động tố tụng hoặc trốn tránh pháp luật để bảo đảm hiệu quả cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

      1. 1.1.1.3. Khái niệm quyền con người của người bị tạm giam

Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (tên tiếng Anh là Office of High Commissioner for Human Rights – viết tắt là OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu, theo đó, “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người” [8]. Như vậy, quyền con người được ghi nhận ở phạm vi rất rộng, đó là quyền tự do của con người.

Ở Việt Nam, quyền con người được ghi nhận bằng pháp luật từ năm 1945, nhưng mãi đến năm 1992 thì quyền con người mới được Hiến định. Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng[25]. Trên cơ sở đó, nhiều quy định của quyền công dân thể hiện quyền con người được ban hành và chi tiết hóa. Đến năm 2013, bản Hiến pháp mới được ban hành đã có nhiều sự cụ thể, mở rộng hơn về quyền con người, phân biệt rạch ròi quyền con người với quyền công dân, dần tiệm cận hơn với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết.

Theo giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, quyền con người được định nghĩa là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”[8, tr.38]. Như vậy, quyền con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự ghi nhận và bảo vệ từ pháp luật.

Quyền con người được nghiên cứu từ nhiều giác độ khác nhau, do đó mà cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người. Nhưng nhìn chung, quyền con người được nhìn nhận chủ yếu ở hai góc độ đạo đức và pháp luật. Ở phương diện đạo đức, quyền con người là giá trị vốn có của con người trong xã hội. Còn ở phương diện pháp luật, quyền con người phải được cụ thể hóa thành các quy tắc xử xự có tính bắt buộc chung.

Xuất phát từ bản chất của việc tạm giữ, tạm giam là cách ly người bị nghi thực hiện tội phạm một cách cấp thiết trong một thời gian nhất định, người bị tạm giam trong TTHS là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội, họ tham gia tố tụng với tư cách là người bị buộc tội. Từ địa vị pháp lý đó, họ có thể bị pháp luật hạn chế hoặc tước bỏ một số quyền con người. Nhưng dứt khoát, các quyền cơ bản mà pháp luật vẫn còn ghi nhận hoặc chưa hạn chế, tước đoạt của người bị buộc tội vẫn phải được đảm bảo. Đó là quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe; quyền được tôn trọng về nhân phẩm; quyền không bị truy bức, tra tấn; quyền được đối xử công bằng;… Trong giới hạn của đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quyền con người của người bị tạm giam ở góc độ là các quyền tố tụng, không đi sâu phân tích các quyền con người khác của người bị tạm giam.

Quyền con người của người bị tạm giam có quan hệ chặt chẽ với việc áp dụng biện pháp tạm giam. Như vậy, người bị tạm giam trước hết cần nhận thức và biết được căn cứ để tạm giam mình là gì. Tức là người bị tạm giam có quyền được biết tại sao mình bị tạm giam, để từ đó có cơ sở để được CQTHTT đảm bảo quyền lợi hợp pháp của chính người bị tạm giam. Mặt khác, người tạm giam có quyền khai báo, cung cấp tài liệu, đồ vật, chứng minh mình vô tội,… để bác bỏ sự buộc tội và việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với mình. Đó là chưa kể đến việc áp dụng biện pháp tạm giam ngoài việc phải có căn cứ, cần phải tuân thủ trình tự, thủ tục, thẩm quyền và thời hạn chặt chẽ theo đúng quy định của BLTTHS.

Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm quyền của người bị tạm giam như sau: Quyền con người của người bị tạm giam là toàn bộ những quyền và lợi ích mà người bị tạm giam chưa bị pháp luật hạn chế hoặc tước bỏ mà chủ thể có thẩm quyền tạm giam phải bảo đảm để người bị tạm giam được hưởng, được đòi hỏi khi tham gia vào các hoạt động TTHS.

      1. 1.1.2. Các nguyên tắc về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam

Về bản chất, nguyên tắc là “điều cơ bản được định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm[42]. Theo đó, nguyên tắc của TTHS là những quan điểm chỉ đạo trực tiếp, xuyên suốt quá trình TTHS. Tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992, một số nguyên tắc TTHS bước đầu được ghi nhận như: nguyên tắc suy đoán vô tội; nguyên tắc công bằng; nguyên tắc được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, uy tín nếu bị oan, sai [25]. Trong khi Hiến pháp năm 2013 bổ sung các nguyên tắc như: xét xử kịp thời, công khai, công bằng; không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm; quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (Điều 30, 31) [28]. Đáng chú ý, BLTTHS hiện hành đã dành hẳn một chương là Chương II (từ Điều 7 đến Điều 33) để quy định về những nguyên tắc cơ bản của hoạt động TTHS, trong đó, có một loạt nguyên tắc phản ánh tư tưởng bảo đảm quyền con người như:

  • Nguyên tắc pháp chế XHCN trong TTHS (các Điều 7, 17, 18, 19);
  • Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (các Điều 8, 10, 11, 12, 31, 32);
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trước Tòa án (Điều 9 và Điều 26);
  • Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13): Được suy đoán vô tội là quyền con người được rất nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và bảo đảm. Ở Việt Nam, nguyên tắc này không chỉ được quy định trong TTHS mà còn được Hiến định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 31 Hiến pháp);
  • Nguyên tắc trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự (Điều 15);
  • Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 16);
  • Nguyên tắc xét xử hai cấp; giám đốc xét xử (Điều 27);
  • Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai; xét xử tập thể và có sự tham gia của Hội thẩm; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (các Điều 22, 23, 24 ,25);
  • Nguyên tắc tranh tụng (Điều 26). Đây là nguyên tắc rất quan trọng đã được BLTTHS năm 2015 ghi nhận. Qua đó, tạo ra sự cân bằng hơn giữa bên gỡ tội và bên buộc tội, giúp bị can, bị cáo tiệm cận hơn, thực hiện tốt hơn quyền bào chữa, nhờ người khác bào chữa;
  • Nguyên tắc dân chủ (Điều 29, Điều 33);
  • Nguyên tắc công bằng (Điều 21). [30, tr.14-25]

Các nguyên tắc trong TTHS nhằm mục đích đề cao trách nhiệm của người, CQTHTT, nhất là lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của họ trong việc tuân thủ đúng các quy định pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con người trong TTHS. Mặt khác, ở góc độ nào đó, các nguyên tắc nói trên cũng phản ánh được hiệu lực của pháp luật TTHS trong việc ghi nhận và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam. Các nguyên tắc càng chặt chẽ, cụ thể thì quyền con người càng có cơ sở để được bảo đảm tốt hơn, hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, một số nguyên tắc trong TTHS vẫn chưa được cụ thể hóa, phản ảnh một cách đầy đủ tư tưởng lập pháp đổi mới, tiến bộ và thân thiện của Nhà nước ta, nhất là trong điều kiện các nước trên thế giới đang dành sự quan tâm vô cùng đặc biệt cho quyền con người nói chung và quyền con người của người bị tạm giam nói riêng.

      1. 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam

Quy định về quyền con người của người bị tạm giam cũng như những cơ chế bảo đảm thực thi các quyền đó là vấn đề hết sức cần thiết. Các quy định về quyền con người trước hết là sự cụ thể hóa các đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam. Nó phản ánh tinh thần, giá trị nhân văn của Việt Nam trong cách nhìn nhận về con người. Việc thể chế các quy định về quyền con người trong TTHS còn là tiền đề quan trọng để phát huy chức năng đặc biệt của TTHS, đó là “chức năng bảo vệ quyền con người” [23, tr.10-18]. Việc Nhà nước quy định các quyền của người bị tạm giam sẽ đảm bảo tính công bằng trong suốt quá trình THTT, đảm bảo không ai bị phân biệt đối xử, tạo ra hành lang pháp lý cho quá trình tố tụng; đồng thời chống oan, sai và đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội.

Bản chất của tạm giam là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Nhìn về nguồn gốc đã sản sinh ra tạm giam thì đây là biện pháp nhằm bảo vệ cho các lợi ích xã hội đang bị hoặc đe dọa bị xâm hại. Bên cạnh đó, quy định về tạm giam cũng đã tính đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho các CQTHTT thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình một cách hiệu quả. Qua đó, tạm giam trở thành một biện pháp hỗ trợ đắc lực cho công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng bên cạnh việc tạo thuận lợi cho CQTHTT còn nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền công dân và khi áp dụng chúng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng. Đây là điều không thể tránh khỏi vì tạm giam luôn tác động trực tiếp đến các quyền con người của người bị áp dụng, cơ bản và dễ nhận thấy nhất là quyền tự do thân thể, quyền tự do đi lại. Quy định về quyền của người bị tạm giam

Sẽ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc để người, CQTHTT thực thi nhiệm vụ của mình một cách công khai, minh bạch và khách quan nhất có thể.

Áp dụng tạm giam là biện pháp cưỡng chế cần thiết do cơ quan, người THTT nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa người bị buộc tội tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi cản trở các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Do đó, việc quy định quyền con người của người bị tạm giam và các cơ chế thực thi là biện pháp vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân.

Hiến pháp năm 2013 ra đời với nhiều sự ghi nhận và mở rộng về quyền con người. Liên quan đến các quyền cơ bản của con người, Hiến pháp năm 2013 quy định rất rõ các quyền con người “…về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm…” và các quyền này “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật…” (Điều 14). Liên quan đến vấn đề bắt, giam giữ, Hiến pháp 2013 có quy định việc bắt người phải có “…quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp bắt phạm tội quả tang…” (Điều 20). Về vấn đề chứng minh trong TTHS, Hiến pháp 2013 ghi nhận người bị buộc tội “được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 31). [28]

Trên cơ sở Hiến pháp, hàng loạt các đạo luật khác tiếp tục ghi nhận, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp. Điều này cho thấy Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển, hoàn thiện và đảm bảo quyền con người, đặc biệt là quyền con người trong TTHS. Việc quy định và đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam là sự hiện thực hóa các đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta trong quá trình phát triển và hội nhập. Các quy định về quyền con người của người bị tạm giam ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và tiệm cận hơn với các nước trên thế giới.

    1. 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị tạm giam
      1. 1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự và luật thi hành tạm giữ, tạm giam về quyền của người bị tạm giam
      2. 1.2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự

Từ Hiến pháp năm 1946, Việt Nam đã bước đầu ghi nhận về quyền công dân. Theo đó, Hiến pháp này đã khẳng định tất cả công dân của Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật (tại Điều 7) và công dân không bị bắt giam khi chưa có quyết định của Tòa án. Đến Hiến pháp năm 1959; Luật Tổ chức Tòa án và Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 1960 lại tiếp tục nhấn mạnh quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Trong đó, đặc biệt lưu ý các quy định trong việc bắt, giam giữ. Điều này được nhắc lại và khẳng định tại bản Hiến pháp năm 1980. Theo đó, công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể và không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án hoặc có quyết định hay phê chuẩn của Viện kiểm sát.

Năm 1992, Hiến pháp mới được ban hành với sự quan tâm đặc biệt dành cho quyền con người và nhất là quyền con người trong lĩnh vực TTHS. Điều 71 Hiến pháp quy định rất cụ thể về “quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”. Việc bắt giữ phải “có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang”. Trong hoạt động TTHS, “nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm…”. Bên cạnh đó, Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận trường hợp“Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh” (Điều 72). [25]

Hiến pháp năm 2013 ra đời có sự tách biệt giữa quyền con người và quyền công dân nhưng cũng tiếp tục nhấn mạnh các quyền con người của người bị giam giữ. Theo đó, Hiến pháp quy định: “…các quyền con người, quyền công dân về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và “…chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14) [28]. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận rất rõ rằng tất cả mọi người đều “…có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh sự nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hính thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định…”[28]. Có thể thấy, quyền con người, nhất là quyền con người của người bị tạm giam trong TTHS được Nhà nước ta đặc biệt chú trọng.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *