Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, trong bối cảnh tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt do tốc độ khai thác phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội, môi trường đang ngày càng trở nên ô nhiễm nghiêm trọng với khối lượng lớn chất thải phát sinh. Đặc biệt là việc phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị, dịch vụ tập trung, cùng với tốc độ gia tăng dân số đã tạo nên những áp lực đối với công tác quản lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn sinh hoạt nói riêng trên toàn quốc. Chất thải đang được xem là thách thức lớn trong công tác quản lý môi trường ở Việt Nam hiện nay. Trước thực trạng đó, để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải phát sinh, nâng cao hiệu quả quản lý, đặc biệt đối với đối tượng là chất thải rắn, cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành những quy định cụ thể để quản lý chất thải. Tuy nhiên, công tác quản lý, xử lý chất thải ở nước ta thời gian qua chưa được áp dụng theo phương thức quản lý tổng hợp, chưa chú trọng đến các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế từ chất thải dẫn đến khối lượng chất thải rắn phải chôn lấp cao, không tiết kiệm quỹ đất, tại nhiều khu vực chất thải chôn lấp ở các bãi chôn lấp tạm, lộ thiên, hiện đã và đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, công tác triển khai các quy hoạch quản lý chất thải rắn tại các địa phương còn chậm; việc huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng khu xử lý, nhà máy xử lý chất thải rắn còn gặp nhiều khó khăn; đầu tư cho quản lý, xử lý chất thải rắn còn chưa tương xứng; nhiều công trình xử lý chất thải rắn đã được xây dựng và vận hành, nhưng cơ sở vật chất, năng lực và hiệu suất xử lý chất thải rắn chưa đạt yêu cầu.

Cùng với sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung, thành phố Đà Nẵng cũng đang bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế mạnh mẽ, đời sống người dân ngày càng được cải thiện và phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển cũng bộc lộ nhiều vấn đề đáng quan tâm, tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của con người gây ra. Khối lượng chất thải rắn tại thành phố Đà Nẵng ngày càng gia tăng (8 – 10%), trong khi đó, việc xử lý lượng chất thải này vẫn còn nhiều bất cập. Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cho thấy, hiện nay, mỗi ngày, thành phố Đà Nẵng phát sinh hơn 1.100 tấn rác thải. Dự kiến, từ năm 2020 – 2025, phát sinh hơn 1.800 tấn/ngày; giai đoạn năm 2025 – 2030, hơn 2.400 tấn/ngày và hơn 3.000 tấn/ngày trong thời gian từ năm 2030 – 2040. Tuy vậy, công tác quản lý, thu gom và xử lý chất thải (chỉ tập trung vào chất thải rắn sinh hoạt) trên địa bàn thành phố nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế do ý thức của người dân chưa cao, dẫn đến môi trường cuộc sống nông thôn còn ô nhiễm chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra; nguyên nhân chủ yếu là do ý thức trách nhiệm và nhận thức của người dân về công tác thu gom và xử lý chất thải còn nhiều hạn chế. Mặt khác, việc phân công, phân cấp trong công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung, thu gom và xử lý chất thải nói riêng trên địa bàn thành phố vẫn đang còn nhiều bất cập, đã gây những tác động tổng hợp tới môi trường, sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế – xã hội. Bên cạnh đó, lĩnh vực tái chế và xử lý chất thải chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư; chưa đa dạng các thành phần kinh tế tham gia vào công tác thu gom, vận chuyển, xử lý,tái chế…

Để nghiên cứu những nội dung nêu trên, có thể thấy rằng việc lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn Thạc sĩ là xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế và có ý nghĩa thực tiễn trong công tác quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn hướng tới mục tiêu làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách quản lý chất thải, đồng thời luận văn đánh giá thực trạng thực hiện chính sách quản lý chất thải chất thải tại thành phố Đà Nẵng. Từ đó, Luận văn sẽ đề xuất những giải pháp tăng cường thực hiện chính sách quản lý chất thải tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách sách quản lý chất thải và thực hiện chính sách quản lý chất thải; tổng quan và nhận xét thực hiện chính sách hiện hành sách quản lý chất thải ở Việt Nam.

Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách sách quản lý chất thải tại thành phố Đà Nẵng; phát hiện vấn đề, nguyên nhân, những ưu điểm và hạn chế.

Đề xuất hoàn thiện các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách quản lý chất thải tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện chính sách quản lý chất thải cụ thể là nghiên cứu giải pháp tăng cường thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên thực trạng chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng rất đa dạng, nhiều chủng loại nên tác giả tập trung nghiên cứu việc thức hiện chính sách quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về không gian nghiên cứu: Địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Phạm vi thời gian khảo sát số liệu: Từ 2016 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành và phương pháp nghiên cứu chính sách quản lý chất thải. Cách tiếp cận quy phạm chính sách quản lý chất thải về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng và thực hiện và đánh giá chính sách quản lý chất thải có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách quản lý chất thải được soi sáng qua thực tiễn của chính sách quản lý chất thải góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách này.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: Phương pháp thu thập thông tin; Phương pháp phân tích và tổng hợp; Phương pháp thống kê và so sánh được sử dụng để thu thập; Phương pháp phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, Nghị Quyết của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các tài liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề thực hiện chính sách quản lý chất thải ở nước ta nói chung và thực tế tại thành phố Đà Nẵng nói riêng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài này cung cấp lý luận thực hiện chính sách quản lý chất thải về nghiên cứu vấn đề chính sách thu gom và xử lý chất thải (chất thải rắn sinh hoạt).

Hệ thống hóa một số lý luận và đánh giá thực tiễn từ đó đề xuất giải pháp tăng cường thực hiện chính sách thu gom và xử lý chất thải nhằm phát huy tối đa hiệu quả chính sách đã ban hành.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Cung cấp những vấn đề có tính thực tiễn trong việc vận dụng các lý thuyết về chính sách quản lý chất thải để xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về thực hiện chính sách quản lý chất thải tại thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đưa ra những đề xuất có giá trị tham khảo đối với các nhà quản lý để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách quản lý chất thải trong thực tiễn những năm tiếp theo.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách quản lý chất thải.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách về quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ CHẤT THẢI

    1. 1.1. Sự cần thiết của chính sách quản lý chất thải

Việc ban hành chính sách quản lý chất thải tốt góp phần:

Thứ nhất, định hướng cho việc quản lý chất thải cần tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác quản lý chất thải, đặc biệt là quản lý chất thải rắn; đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật để triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về việc giao Bộ Tài nguyên và Môi trường làm đầu mối thống nhất quản lý về chất thải, chất thải rắn. Kiến nghị hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ về quản lý chất thải, chất thải rắn. Đối với công tác quản lý chất thải của thành phố cần phải xây dựng hệ thống văn bản pháp lý, đặc biệt là xây dựng Nghị quyết chuyên đề về công tác quản lý chất thải, chất thải rắn của Thành ủy, Hội đồng Nhân dân thành phố; đồng thời xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung trong công tác quản lý về chất thải, chất thải rắn của thành phố. Nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản riêng về quản lý chất thải, chất thải rắn nông thôn; nâng tỷ lệ thu gom và xử lý. Tăng cường trách nhiệm của các sở, ban ngành của thành phố, các quận, huyện trong việc lập quy hoạch, bố trí ngân sách và tổ chức thực hiện công tác thu gom, xử lý chất thải, chất thải rắn nông thôn; tăng cường sự phối kết hợp giữa các quận, huyện trong quản lý chất thải, chất thải rắn nông thôn.

Thứ hai, khuyến khích và hỗ trợ cho các hoạt động quản lý chất thải cải thiện cơ chế, chính sách để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nhà nước tham gia quản lý chất thải, chất thải rắn trên địa bàn thành phố; xây dựng và công bố công khai các đơn giá về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải, chất thải rắn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế, xã hội của thành phố. Thực hiện công khai, minh bạch trong đấu thầu, tuyển chọn nhà đầu tư quản lý chất thải, chất thải rắn. Thực hiện đàm phán rõ ràng với nhà đầu tư, tránh trường hợp không đạt được mục tiêu bảo vệ môi trường; xem xét, nâng thời gian hợp đồng để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới, nâng cấp trang thiết bị, công nghệ

Thứ ba, phát huy những mặt tích cực trong thực tiển quản lý chất thải, đồng thời khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý chất thải tăng cường thực hiện các biện pháp giảm thiểu phát sinh chất thải, chất thải rắn và thúc đẩy phân loại tại nguồn. Cần khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các biên pháp sản xuất sạch hơn, kiểm toán chất thải, vòng đời sản phẩm, ISO 14000. Thực hiện các chương trình truyền thông để thúc đẩy tiêu dùng bền vững trong cộng đồng dân cư. Thực hiện nghiêm các quy định của Nghị định 40/2019/NĐ-CP để kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng việc hạn chế nhập khẩu phế liệu. Cần thúc đẩy thực hiện phân loại tại nguồn thành 3 loại: chất thải có thể tái chế; chất thải hữu cơ và; còn lại. Cần thực hiện thu gom, vận chuyển và xử lý riêng biệt đối với chất thải, chất thải rắn đã được phân loại, tránh chôn lấp chung.

Thứ tư, tạo lập sự cân đối trong quản lý chất thải kiểm soát và phân bố hợp lý nguồn liệu của quốc gia cần quan tâm, chú ý đến một số loại chất thải mới nổi, đặc thù, triển khai thực hiện thành công các chính sách về quản lý chất thải nhựa, túi nilon khó phân hủy, tiến tới chấm dứt hoàn toàn việc sản xuất, tiêu dùng túi nilon và sản phẩm nhựa sử dụng một lần từ 2026. Đối với chất thải điện tử, cần tiếp tục thúc đẩy thực hiện hiệu quả cơ chế thu hồi, xử lý các sản phẩm thải bỏ sau sử dụng. Đối với chất thải xây dựng, cần phát triển các mô hình tái chế, tái sử dụng.

Thứ 5, thúc đẩy sự phối hợp giữ các ngành, các cấp trong quản lý chất thải xây dựng cơ chế phối hợp liên bộ, liên vùng, địa phương trong quản lý chất thải, chất thải rắn; các tiêu chuẩn, quy chuẩn về tái chế chất thải, về sản phẩm tái chế, về lò đốt, về trang thiết bị thu gom, vận chuyển… Kiện toàn, thống nhất tổ chức bộ máy ở Trung ương và địa phương theo hướng phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành và giao Sở Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý chất thải, chất thải rắn ở tất cả các tỉnh, thành phố.

    1. 1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện chính sách quản lý chất thải

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện chính sách quản lý chất thải

Để đưa ra được khái niệm thực hiện chính sách quản lý chất thải là gì, trước hết cần làm rõ một sô thuật ngữ sau:

Chính sách là gì ?

Theo nghĩa hẹp, chính sách có thể được thể hiện thông qua, một chương trình, một mục tiêu của chương trình hay sự tác động của chương trình lên một số vấn đề của xã hội, chẳng hạn như chính sách trợ cấp hay chính sách giải quyết yêu cầu của sinh viên về nhà ở, học bổng. Chính sách cũng có thể coi là một kế hoạch hoạt động. Đó là một bản kế hoạch, được xây dựng công phu, cụ thể chứ không phải là những lời nói, tư duy suy nghĩ ban đầu. Kế hoạch được đưa ra trong bối cảnh, môi trường cụ thể mà nhà làm chính sách đã hình dung ra hoặc do chủ thể xác định (tổ chức, cá nhân, nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, các tổ chức quần chúng, các loại hình doanh nghiệp, v.v…) đưa ra. [15]

Theo quan niệm của các nhà chính trị, chính sách là sự bày tỏ quan điểm chính trị của các tổ chức (theo nghĩa rộng của từ này) nhằm đạt được những mục tiêu nhất định, hay nói cách khác, đó là những quyết định của các tổ chức, cá nhân về những gì họ sẽ làm hay không làm. Còn những nhà quản lý vĩ mô của các tổ chức quan niệm, chính sách là những định hướng tư duy cho các nhà quản lý điều hành, tác nghiệp đưa ra những quyết định cần thiết trong những điều kiện cụ thể của môi trường sản xuất, kinh doanh. Như vậy, thực chất của chính sách theo cách này chỉ là những chỉ dẫn cần thiết cho các nhà quản lý tác nghiệp để họ vận dụng vào điều kiện cụ thể, không chỉ ra cách thức tiến hành (các tác nghiệp cụ thể). Theo các quan niệm, chính sách đó là một sự lựa chọn trong tập hợp các phương án khác nhau để đi đến mục tiêu. [15]

Chính sách công?

Những chính sách do các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính sách công. Chính sách công thường mang tính hành động, tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội với mục tiêu xác định. Hiện có nhiều quan điểm về khái niệm này. [45]

Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của chủ thể nắm quyền lực công, nhăm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được mục tiêu đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định. [45]

Chất thải là gì ?

Theo Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23/6/2014 của Quốc hội Khóa 13 có định nghĩa: Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh,dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.[22]

Theo cách hiểu thông thường “Chất thải là những chất mà con người bỏ đi, không tiếp tục sử dụng nữa. Khi bị thải bỏ, những chất này tồn tại trong môi trường dưới những trạng thái nhất định và có thể gây ra rất nhiều tác động bất lợi cho môi trường cũng như sức khoẻ con người”. Chất thải là vấn đề quan trọng trong cuộc sống ngày nay vì vậy cho nên chúng ta cần phải nghiên cứu và tìm hiểu, có như vậy mới biết cách để quản lý, phân loại, và tận dụng, đồng thời cũng từ đó xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể khi không tuân thủ quy trình xả, thải theo quy định của pháp luật.

Dưới giác độ ngữ nghĩa, chất thải được hiểu là những “chất” không còn sử dụng được nữa bị con người “thải” ra trong các hoạt động khác nhau. Chất thải được sản sinh trong các hoạt động khác nhau của con người thì được gọi với những thuật ngữ khác nhau như: Chất thải rắnphát sinh trong sinh hoạt thì gọi là rác thải; Chất thải phát sinh sau khi sử dụng nguyên liệu trong quá trình sản xuất thì gọi là phế liệu; Chất thải phát sinh sau quá trình sử dụng nước thì gọi là nước thải…

Khái niệm chất thải cũng được sử dụng trong pháp luật quốc tế về môi trường, được đề cập tại Công ước Basel. Điều 2 khoản 1 Công ước Basel. Khái niệm chất thải còn được đề cập trong pháp luật của khối liên kết chính trị – kinh tế Liên minh Châu Âu (EU). Điều 1 Nghị định 259/93 của EU về vận chuyển chất thải ngày 1/2/1993 có hiệu lực từ ngày 6/5/1994 và Điều 3 khoản 1 Luật khuyến khích kinh tế tuần hoàn và đảm bảo xử lý các chất thải phù hợp với môi trường ngày 27/9/1994 được sửa đổi bổ sung ngày 25/8/1998 của Cộng hòa Liêng bang Đức. Cả hai định nghĩa trên đều có một điểm chung là “vật chất được xác định là chất thải khi nó nằm trong Phụ lục I của Luật”. Như vậy, cả hai luật này đều quan tâm đến việc đưa vật chất nào và không đưa vật chất nào vào trong Phụ lục của mình. Giả sử có những vật chất chưa được đưa vào Phụ lục nhưng nó lại có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường khi chủ sở hữu thải bỏ thì sẽ được xác định như thế nào, đây là hạn chế mà các nhà làm luật cần phải bổ sung. Hơn nữa, điều này sẽ khó khi áp dụng vào Việt Nam bởi chung ta chưa đảm bảo được yếu tố về mặt kỹ thuật, công nghệ khi xác định các dạng vật chất nằm trong danh mục chất thải thuộc sở hữu của các chủ thể khác nhau.

Quản lý chất thải ?

Trong cuộc sống hàng ngày, con người không chỉ tiêu thụ và sử dụng một số lượng lớn các nguyên liệu, sản phẩm từ thiên nhiên, từ sản xuất để tồn tại và phát triển đồng thời cũng vứt, thải lại cho thiên nhiên và môi trường sống các phế thải, rác thải. Nền kinh tế – xã hội càng phát triển, dân số tại các vùng đô thị, trung tâm công nghiệp càng tăng nhanh thì phế thải và rác thải càng nhiều và ảnh hưởng trực tiếp trở lại đời sống của con người, làm cho môi trường bị ô nhiễm, con người mắc bệnh tật, giảm sức khoẻ cộng đồng, đất đai bị biến thành bãi rác, làm mất cảnh quan tại các khu đô thị. Đã từ lâu, ở các nước phát triển, nhà nước và cộng đồng đã đưa ra các biện pháp xử lý rác thải, đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; xây dựng hệ thống cống ngầm thoát nước, quy định những nơi chôn rác sinh hoạt, những quy chế, phương pháp thu gom, phân loại, tái chế và quản lý rác. [22]

Để quản lý hiệu quả loại các loại chất thải (bao gồm cả chất thải rắn thông thường), trên thế giới hiện có ba phương thức quản lý, với ba cách tiếp cận không giống nhau. Đó là phương thức quản lý cuối đường ống sản xuất, phương thức quản lý dọc theo đường ống sản xuất và phương thức quản lý nhấn mạnh vào khâu tiêu dung. Ở nước ta, theo thống kê hàng năm có: Hơn 15 triệu tấn rác, trong đó rác sinh hoạt đô thị và nông thôn vào khoảng 12,8 triệu tấn, rác công nghiệp khoảng 2,7 triệu tấn; rác y tế 2,1 vạn tấn, các chất độc hại trong công nghiệp là 13 vạn tấn, trong nông nghiệp là 4,5 vạn tấn. Như vậy, tại Việt Nam nếu chúng ta thực hiện được việc quản lý, thu gom, phân loại và tái chế số lượng chất thải khổng lồ này thì sẽ góp phần không nhỏ làm tăng ngân sách nhà nước 5 và tăng lượng sản phẩm xã hội. Nhưng để làm được việc này một mặt chúng ta cần xây dựng cơ chế quản lý chất thải trong đó có chất thải rắn thông thường, một mặt đưa ra những biện pháp nhằm phát huy tinh thần hợp tác của nhân dân.

Khái niệm về quản lý chất thải được định nghĩa đầu tiên tại Thông tư số 1590/TTLTBKHCN&MT ngày 17 tháng 10 năm 1997 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành Chỉ thị số 199/TTg ngày 3 tháng 4 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách trong quản lý chất thải rắnở các đô thị và khu công nghiệp. Ngoài ra trong một số văn bản khác như: Nghị định 175/NĐ-CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993; Quyết định số 152/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến 2020; Chỉ thị số 23/2005/CT- TTg ngày 21 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn tại các khu đô thị và công nghiệp; Theo Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23/6/2014 của Quốc hội Khóa 13 định nghĩa về quản lý chất thải.

Sau khi đã tìm hiểu các định nghĩa khác nhau về quản lý chất thải, ta có thể đưa ra định nghĩa phù hợp về quản lý chất thải như sau: Quản lý chất thải là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải.

Qua khái niệm này ta thấy quản lý chất thải hịên nay ở nước ta được thể hiện ở các khía cạnh sau:

* Chủ thể thực hiện quản lý chất thải;

* Quản lý quản lý chất thải có mục đích của nó;

* Nội dung của quản lý quản lý chất thải.

Quản lý chất thải thường liên quan đến những vật chất do hoạt động của con người sản xuất ra, đồng thời đóng vai trò giảm bớt ảnh hưởng của chúng đến sức khỏe con người, môi trường hay tính mỹ quan. Quản lý chất thải cũng góp phần phục hồi các nguồn tài nguyên lẫn trong chất thải. Quản lý chất thải có thể bao gồm chất rắn, chất lỏng, chất khí hoặc chất thải phóng xạ, mỗi loại được quản lý bằng những phương pháp và lĩnh vực chuyên môn khác nhau.

Cách quản lý chất thải có phần khác nhau tại những quốc gia phát triển và đang phát triển, tại khu vực đô thị và nông thôn, và tùy vào loại hình sản xuất dân dụng hay công nghiệp. Quản lý chất thải vô hại từ đối tượng hành chính và dân dụng ở các vùng đô thị thường là trách nhiệm của cơ quan chính quyền địa phương, trong khi quản lý chất thải vô hại từ đối tượng thương mại và công nghiệp thường là trách nhiệm của nhà sản xuất.

Chính sách quản lý chất thải là một loại chính sách công được xây dựng để điều tiết các hoạt động thu gom, xử lý chất thải. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) thì Chính sách chất thải là một tập hợp các biện pháp có quan hệ nhân quả nhằm góp phần bảo vệ môi trường do việc xả thải của con người gây nên.

Với mỗi cách tiếp cận khác nhau có các định nghĩa khác nhau về Chính sách quản lý chất thải. Có ý kiến cho rằng Chính sách chất thải là tập hợp các mục tiêu và hệ thống các biện pháp (tổ chức, hành chính, tài chính, kinh tế, xã hội,…) để thực hiện động thu gom, xử lý chất thải nhằm bảo vệ môi trường. Trong đó, các mục tiêu được phân loại như sau: mục tiêu chiến lược (dài hạn), mục tiêu chiến thuật (ngắn hạn), mục tiêu tổng hợp và mục tiêu cụ thể, mục tiêu toàn cầu và mục tiêu cục bộ (quốc gia),…

Trong khuôn khổ luận văn này, chính sách quản lý chất thải được hiểu là các chủ trưởng, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm bảo vệ môi trường phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Chính sách quản lý chất thải?

Thực hiện chính sách quản lý chất thải?

Tổ chức thực thi chính sách trong tiếng Anh là Organization of policy implementation. Tổ chức thực thi chính sách (Organization of policy implementation) là việc tổ chức thực thi chính sách của toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chỉ của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lí nhằm đạt được mục tiêu định hướng của nhà nước.

Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà nước). Nếu chính sách không được thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước. Qua thực hiện mới biết được chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống hay không. Quá trình thực hiện với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Đồng thời, việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ có cơ sở đầy đủ, sức thuyết phục sau khi được thực hiện.

Từ cách hiểu trên về thực thi chính sách có thể đưa ra cách hiểu thực thi chính sách quản lý chất thải trong phạm vi Luận văn này như sau: Thực thi chính sách quản lý chất thải là quá trình đưa chính sách quản lý chất thải vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách quản lý chất thải và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách là bảo vệ môi trường, bảo vệ đời sống xã hội của người dân. Các chủ thể trong chính sách quản lý chất thải ở đây là các cơ quan hệ thống Lập pháp (Quốc hội), các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) và các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp (Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân); các đối tượng quản lý ở đây là các hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải.

Đặc điểm của việc thực hiện chính sách quản lý chất thải?

Thứ nhất, chất thải phải được quản lý trong toàn bộ quá trình phát sinh, giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy.

Thứ hai, chất thải thông thường có lẫn chất thải nguy hại vượt ngưỡng quy định mà không thể phân loại được thì phải quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải nguy hại.

1.2.2. Vai trò của việc thực hiện chính sách quản lý chất thải

Thứ nhất, tổ chức thực thi chính sách quản lý chất thải là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực. Nếu chính sách chỉ được hoạch định mà không được thực thi thì sẽ không có tác dụng trong thực tế.

Thứ hai, tổ chức thực thi chính sách quan lý chất thải để từng bước thực hiện mục tiêu chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu chính sách quản lý chất thải có liên quan đến nhiều hoạt động chính trị, kinh tế xã hội theo những cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, trong cùng một thời điểm không thể giải quyết tất cả các vấn đề liên quan và cũng không thể bỏ qua giai đoạn của mỗi quá trình. Do vậy, thực thi chính sách quản lý chất thải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu của chính sách là đảm bảo vệ sinh môi trường từ đó góp phần thực hiện các mục tiêu về kinh tế – xã hội.

Thứ ba, thực thi chính sách quản lý chất thải là để khẳng định tính đúng đắn của chính sách. Chính sách quản lý chất thải đứng đắn là chính sách đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của một chính sách tốt. Tuy nhiên, một chính sách quản lý chất thải được coi là tốt thì giá trị của nó cũng chỉ mới dừng lại ở phương điện nguyện vọng, mong muốn mà thôi. Một khi chính sách quản lý chất thải được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội, thì tính đúng đắn của nó mới được khẳng định ở mức cao hơn, tức là được cả xã hội thừa nhận, nhất là các đối tượng thụ hưởng chính sách.

Thứ tư, qua thực thi chính sách quản lý chất thải giúp cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh. Chính sách được hoạch định bởi tập thể nên không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng của ý chí chủ quan. Bên cạnh đó, các quá trình kinh tế xã hội lại thường xuyên vận động, phát triển trong khi chính sách được hoạch định lại dựa chủ yếu vào thực trạng của môi trường sống nên có khoảng cách khá lớn về thời gian kể từ khi hoạch định cho đến lúc tổ chức thực thi.

Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Thực hiện chính sách quản lý chất thải trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Vì hai nguyên do trên nên giữa chính sách quản lý chất thải và thực tế xã hội trong giai đoạn tổ chức thực thi chính sách quản lý chất thải chắc chắn có khoảng cách cần được lấp đầy bằng những điều chỉnh về chính sách hay các biện pháp tổ chức thực thi chính sách. Đó chính là hoạt động hoàn chỉnh những chính sách đang có và góp phần rút kinh nghiệm cho việc hoạch định các chính sách kì sau.

    1. 1.3. Chủ thể thực hiện chính sách quản lý chất thải

Tùy thuộc vào chế độ chính trị, những quy định của hiến pháp, nguyên tác thực thi quyền lực nhà nước, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, mức độ dân chủ, công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước, trình độ phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi quốc gia mà số lượng và loại chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách quản lý chất thải ở các nước khác nhau là khác nhau. Những người thực hiện chính sách là những tổ chức, nhóm xã hội hoặc cá nhân mà những hành động cụ thế của họ có tác dụng đưa chính sách từ lý thuyết trở thành hiện thực, từ đó tạo ra những biến đổi trong thực tế đòi sống xã hội. Lực lượng tham gia thực hiện chính sách rất đông đảo, gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, nhân dân hoặc các đối tượng của chính sách; trong đó, chủ thể triển khai trước hết và quan trọng nhất là các cơ quan hành chính nhà nước cùng với các công chức của các cơ quan đó. Như vậy, có rất nhiểu chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách quản lý chất thải và các chủ thể này có mối quan hệ tương tác với nhau trong quá trình thực hiện chính sách; số lượng chủ thể và vai trò của từng chủ thề tham gia tùy thuộc vào từng chính sách cụ thể và bốì cảnh của từng nước. Gồm các chủ thể tham gia vào thực thi chính sách sau:

1.3.1. Cơ quan quản lý Nhà nước

Trách nhiệm thực hiện của các chủ thể trên cụ thể như sau:

Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và có trách nhiệm: Trình Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; Trình Chính phủ quyết định chính sách, chiến lược, kế hoạch quốc gia về bảo vệ môi trường; Chủ trì giải quyết hoặc đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết các vấn đề môi trường liên ngành, liên tỉnh; Xây dựng, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường theo quy định của Chính phủ; Chỉ đạo xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường quốc gia và quản lý thống nhất số liệu quan trắc môi trường; Chỉ đạo, tổ chức đánh giá hiện trạng môi trường cả nước phục vụ cho việc đề ra các chủ trương, giải pháp về bảo vệ môi trường; Quản lý thống nhất hoạt động thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi trường, đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước; tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền; hướng dẫn việc đăng ký cơ sở, sản phẩm thân thiện với môi trường và cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường; Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Trình Chính phủ tham gia tổ chức quốc tế, ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về môi trường; chủ trì các hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường với các nước, các tổ chức quốc tế; Chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của Uỷ ban nhân dân các cấp; Bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, chiến lược quốc gia về tài nguyên nước và quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh; chiến lược tổng thể quốc gia về điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, chế biến tài nguyên khoáng sản.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, vùng và dự án, công trình quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan đối với sản xuất, nhập khẩu, sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, chất thải trong nông nghiệp; đối với quản lý giống cây trồng, giống vật nuôi biến đổi gen và sản phẩm của chúng; đối với các hệ thống đê điều, thủy lợi, khu bảo tồn rừng và nước sạch phục vụ cho sinh hoạt ở nông thôn.

Bộ Công thương có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan đối với lĩnh vực công nghiệp; xử lý các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc thẩm quyền quản lý; chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp môi trường.

Bộ Xây dựng có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan đối với các hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng cấp nước, thoát nước, xử lý chất thải rắnvà nước thải tại đô thị, khu sản xuất dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề và khu dân cư nông thôn tập trung.

Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan đối với hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông và hoạt động giao thông vận tải.

Bộ Y tế chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý chất thải y tế; công tác bảo vệ môi trường trong các cơ sở y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm và hoạt động mai táng.

Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm huy động lực lượng ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ môi trường trong lực lượng vũ trang thuộc thẩm quyền quản lý.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương theo quy định sau đây:

Ban hành theo thẩm quyền quy định, cơ chế, chính sách, chương trình, kế hoạch về bảo vệ môi trường; Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và nhiệm vụ về bảo vệ môi trường; Chỉ đạo xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường của địa phương; Chỉ đạo định kỳ tổ chức đánh giá hiện trạng môi trường; Tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền; Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường; Chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định khác của pháp luật có liên quan; phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan giải quyết các vấn đề môi trường liên tỉnh.

Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương theo quy định sau đây:

Ban hành theo thẩm quyền quy định, cơ chế, chính sách, chương trình, kế hoạch về bảo vệ môi trường; Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và nhiệm vụ về bảo vệ môi trường; Tổ chức đăng ký và kiểm tra việc thực hiện cam kết bảo vệ môi trường; Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường; Chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp huyện có liên quan giải quyết các vấn đề môi trường liên huyện; Thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo uỷ quyền của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh; Chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương theo quy định sau đây:

Chỉ đạo, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn, khu dân cư thuộc phạm vi quản lý của mình; tổ chức vận động nhân dân xây dựng nội dung bảo vệ môi trường trong hương ước của cộng đồng dân cư; hướng dẫn việc đưa tiêu chí về bảo vệ môi trường vào trong việc đánh giá thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và gia đình văn hóa; Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của hộ gia đình, cá nhân; Phát hiện và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp trên trực tiếp; Hoà giải các tranh chấp về môi trường phát sinh trên địa bàn theo quy định của pháp luật về hoà giải; Quản lý hoạt động của thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và tổ chức tự quản về giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường trên địa bàn.

Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường

* Trách nhiệm và quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Tuyên truyền, vận động các tổ chức thành viên và nhân dân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường.

Tư vấn, phản biện, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia bảo vệ môi trường.

* Trách nhiệm và quyền của tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp

Tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có trách nhiệm sau:

Tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường;

Tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường.

Tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có quyền sau:

Được cung cấp và yêu cầu cung cấp thông tin về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật;

Tham vấn đối với dự án có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình;

Tư vấn, phản biện về bảo vệ môi trường với cơ quan quản lý nhà nước và chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có liên quan theo quy định của pháp luật;

Tham gia hoạt động kiểm tra về bảo vệ môi trường tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình;

Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

1.3.2. Các tổ chức, cá nhân khác

* Tránh nhiệm của các hộ gia đình, cá nhân cụ thể như sau:

Thực hiện việc phân loại, lưu giữ chất thải theo quy định. Hộ gia đình, cá nhân phải nộp phí vệ sinh cho thu gom, vận chuyển chất thải theo quy định. Chủ nguồn thải chất thải có trách nhiệm ký hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý; thanh toán toàn bộ chi phí theo hợp đồng dịch vụ.

* Tránh nhiệm của tổ chức, cá nhân thu gom, vận chuyển chất thải gồm: Chất thải phải được thu gom theo tuyến để vận chuyển tới điểm tập kết, trạm trung chuyển và cơ sở xử lý chất thải theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Trên các đường phố chính, các khu thương mại, các công viên, quảng trường, các điểm tập trung dân cư, các đầu mối giao thông và các khu vực công cộng khác phải bố trí các thiết bị lưu chứa phù hợp và điểm tập kết chất; Các thiết bị lưu chứa chất thải phải có kích cỡ phù hợp với thời gian lưu giữ; Các thiết bị lưu chứa tại các khu vực công cộng phải bảo đảm tính mỹ quan; Trong quá trình vận chuyển chất thải phải bảo đảm không làm rơi vãi chất thải, gây phát tán bụi, mùi, nước rò rỉ.

* Tránh nhiệm của chủ thu gom, vận chuyển chất thải: Bảo đảm đủ yêu cầu về nhân lực, phương tiện và thiết bị chuyên dụng để thu gom, vận chuyển toàn bộ chất thải tại những địa điểm đã quy định; Thông báo rộng rãi về thời gian, địa điểm, tần suất và tuyến thu gom chất thải tại các điểm dân cư; Thu gom, vận chuyển chất thải đến điểm tập kết, trạm trung chuyển hoặc cơ sở xử lý bằng các phương tiện, thiết bị đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và quy trình quản lý theo quy định; Trường hợp phân loại được chất thải nguy hại từ chất thải tại các điểm tập kết, trạm trung chuyển thì phải chuyển sang quản lý theo quy định về quản lý chất thải; Chịu trách nhiệm về tình trạng rơi vãi chất thải, gây phát tán bụi, mùi hoặc nước rò rỉ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường trong quá trình thu gom, vận chuyển; Đào tạo nghiệp vụ, trang bị bảo hộ lao động cho công nhân thu gom, vận chuyển chất thải; Tổ chức khám bệnh định kỳ, bảo đảm các chế độ cho người lao động tham gia thu gom, vận chuyển chất thải theo quy định; Định kỳ hàng năm báo cáo về tình hình thu gom, vận chuyển chất thải theo quy định.

Tuy được phân công trách nhiệm rõ ràng, nhưng do nguồn nhân lực vẫn còn thiếu  và yếu, thiếu kinh phí và cơ sở hạ tầng, chưa đưa ra được cơ chế phối hợp hiệu quả nên công tác quản lý chưa đạt được mục tiêu đề ra. Như vậy, để không xảy ra sự chồng chéo, xung đột trong công tác quản lý chất thải đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận dưới sự điều hành chung của UBND tỉnh/thành phố, nâng cao trình độ nhân lực, đặc biệt là trong vấn đề quy hoạch.

    1. 1.4. Các bước thực hiện chính sách quản lý chất thải

Để tổ chức, điều hành có hiệu quả công tác thực thi chính sách quản lý chất thải, cán bộ, công chức nhà nước cần phải thực hiện nhiều nội dung quản lý khác nhau, nhưng trước tiên cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:

1.4.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách quản lý chất thải

Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách vì quá trình tổ chức thực thi chính sách quản lý chất thải là quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách quản lý chất thải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách quản lý chất thải bao gồm những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, lập kế hoạch tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lý và công chức thực thi; cơ chế tác động giữa các cấp thực thi chính sách.

Thứ hai, xác định kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực như dự kiến về các cơ sở kiến trúc, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách; các nguồn lực tài chính, các vật tư văn phòng phẩm…

Thứ ba, xác định thời gian triển khai thực hiện thông qua dự kiến về thời gian duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu. Có thể dự kiến mỗi bước cho phù hợp với một chương trình cụ thể của chính sách.

Thứ tư, lên kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến về tiến độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách.

Thứ năm, xây dựng dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách quản lý chất thải bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách…

Dự kiến kế hoạch thực thi ở cấp nào do lãnh đạo cấp đó xem xét thông qua. Sau khi được quyết định thông qua, kế hoạch thực thi chính sách mang giá trị pháp lý, được mọi người chấp hành thực hiện. Việc điều chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch quyết định.

1.4.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách quản lý chất thải

Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành triển khai tổ chức thực hiện theo kế hoạch. Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách quản lý chất thải. Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách quản lý chất thải. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định; và về tính khả thi của chính sách… để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao. Việc làm này cần được tăng cường đầu tư về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, về trang thiết bị kỹ thuật… nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền, vận động.

Trong thực tế có không ít cơ quan, địa phương do thiếu năng lực tuyên truyền, vận động đã làm cho chính sách bị biến dạng, làm cho lòng tin của dân chúng vào nhà nước bị giảm sút. Tuyên truyền, vận động thực thi chính sách quản lý chất thải cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách quản lý chất thải đang được thi hành, để mọi đối tượng cần được tuyên truyền luôn củng cố lòng tin vào chính sách và tích cực thực thi chính sách.

Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách được thực hiện bằng nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng tiếp nhận; gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng… Tuỳ theo yêu cầu của các cơ quan quản lý, tính chất của từng loại chính sách và điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn các hình thức tuyên truyền, vận động thích hợp.

Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần được đầu tư về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật…. Vì đây là đòi hỏi của thực tế khách quan. Việc tuyên truyền này cần phải thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi chính sách đang được thực thi và với mọi đối tượng và trong khi tuyên truyền phải sử dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp trao đổi,….

1.4.3. Phân công, phối hơp thực hiện chính sách quản lý chất thải

Bước tiếp theo sau bước tuyên truyền, phổ biến là phân công, phối hợp các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách quản lý chất thải theo kế hoạch được phê duyệt. Chính sách quản lý chất thải được thực thi trên phạm vi rộng lớn, tối thiểu cũng là một địa phương – vì thế số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác động của chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ chức thực thi của nhà nước. Không chỉ có vậy, các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách quản lý chất thải diễn ra cũng hết sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian, chúng đan xen nhau, thúc đẩy hay kìm hãm nhau theo quy luật… Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính sách có hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Trong thực tế người ta thường hay phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào đó. Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý. Hoạt động phân công, phổi hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách quản lý chất thải một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách. Mặt khác, các hoạt động thực thi mục tiêu hết sức đa dạng, phức tạp chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp, ngành để triển khai chính sách nếu hoạt động này diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ động, khoa học thì sẽ có hiệu quả cao và duy trì ổn định.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\CHINH SACH CONG\HUYNH DUC LUOC

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *