Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ

Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ

Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài 

Ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn đề hết sức bức xúc, ảnh hưởng xấu đến đời sống và sức khỏe của con người, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững và sự tồn vong của xã hội. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của môi trường và những tác hại do ô nhiễm môi trường, trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, tiêu biểu như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004, Bộ Chính trị (khóa IX) “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đặc biệt là Luật Bảo vệ môi trường năm 2014… Việc tổ chức thực hiện các chính sách về bảo vệ môi trường đã đem lại những kết quả nhất định, giúp cho giảm thiểu ô nhiễm môi trường, chất lượng môi trường được cải thiện cũng như ngăn chặn, phòng ngừa sự suy giảm chất lượng môi trường. Tuy nhiên, dưới sức ép của phát triển kinh tế, của sự gia tăng dân số… môi trường ngày càng bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng, có lúc đã đến ngưỡng báo động. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chúng ta quá chú trọng phát triển kinh tế, chưa có sự quan tâm, hành động và đầu tư đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, ý thức của người dân còn thấp… trong đó, quan trọng nhất là việc thực hiện các chính sách về bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu.

Đối với huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, một địa phương đang trong quá trình đô thị hóa và phát triển, các hoạt động sản xuất kinh doanh chưa phát triển mạnh, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn… Mặc dù, chính quyền cấp tỉnh cũng như cấp huyện đã có những cố gắng nhất định trong công tác bảo vệ môi trường, nhưng nhìn chung môi trường tại địa bàn các xã, thị trấn trong huyện hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm, đặc biệt là rác thải phát sinh ngày càng nhiều gây ô nhiễm môi trường, có lúc, có nơi khiến nhân dân bức xúc. Một trong những nguyên nhân quan trọng là quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trên địa bàn còn nhiều bất cập. Xuất phát từ những trăn trở đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ chính sách công, với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc bảo vệ môi trường tại địa phương.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 

3.1. Mục đích nghiên cứu 

Đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tăng cường việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 

Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên cần thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

– Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. 

– Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua.

– Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 

4.1. Đối tượng nghiên cứu 

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách bảo vệ môi 
trường.

4.2. Phạm vi nghiên cứu 

– Về không gian: Không gian nghiên cứu của luận văn là tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. 

– Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2011 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 

5.1. Cơ sở lý luận

Để nghiên cứu việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường, luận văn sử dụng các cách tiếp cận:

– Tiếp cận chính sách công: Tiếp cận chính sách công giúp cho việc nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách bảo vệ môi trường được xem xét ở nhiều góc độ, từ đó sẽ có những giải pháp hoàn thiện hơn nữa việc thực thi chính sách bảo vệ môi trường tại địa phương hiện nay.

– Tiếp cận hệ thống: Hệ thống là một thể thống nhất và khách quan để mọi chủ thể tồn tại và phát triển. Các hoạt động của hệ thống luôn thể hiện ở trạng thái cân bằng và được điều chỉnh kịp thời khi chịu tác động. Do đó, khi đánh giá bất kỳ vấn đề gì cũng cần xem xét tính một cách toàn diện, tổng thể.

Với cách tiếp cận này, luận văn đã xem xét tổng thể vấn đề nghiên cứu như một hệ thống, vừa đánh giá phân tích các yếu tố riêng lẻ vừa đặt chúng trong một tổng thể lớn hơn. Điều này, hàm ý nhấn mạnh rằng việc thực hiện tốt chính sách bảo vệ môi trường là rất quan trọng, do đó luôn phải đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường của một địa phương. Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu này sẽ dựa vào định hướng chính trị, năng lực thực tế của chủ thể tham gia thực hiện chính sách, môi trường thực hiện chính sách,sự tồn tại của chính sách và tình trạng pháp luật tại địa bàn nghiên cứu.

Tiếp cận liên ngành luôn là cần thiết khi muốn tìm hiểu nhiều chiều cạnh khác nhau vốn rất cần các tiếp cận của chuyên ngành khác, gần gũi với xã hội trong triển khai nghiên cứu đề tài (như tâm lý học, kinh tế học.). Thực tế, việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường liên quan đến nhiều chủ thể và đối tượng khác nhau, tạo nên tính tổng thể liên ngành, nhưng ở đấy cũng thường xuất hiện những xung đột lợi ích của các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, điều đó dẫn đến những bất cập trong bảo vệ môi trường hiện nay. Với cách tiếp cận này, đề tài xem xét tất cả các yếu tố có liên quan để từ đó đưa ra được những giải pháp tăng cường việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian đến.

5.2. Phương pháp nghiên cứu 

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

– Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tư liệu: được sử dụng để thu thập, phân tích, tổng hợp các thông tin từ các nguồn đã công bố liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới chính sách bảo vệ môi trường.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nhỏ làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết liên quan đến chính sách công, trên cơ sở đó, đó hình thành các giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành. 

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả luận văn cung cấp thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng các lý thuyết về chính sách công, xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về việc phân tích, đánh giá về chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi từ đó nâng cao hiệu quả của chính sách trong những năm tiếp theo. 

– Cung cấp thêm cơ sở khoa học cho ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, các phòng, ban, ngành, đoàn thể có liên quan trong quá trình thực hiện chính sách bảo vệ môi trường để chính sách có thể mang lại hiệu quả trong việc phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường tại địa phương trong thời gian đến. 

7. Kết cấu của luận văn 

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể như sau:

– Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường ở Việt Nam.

– Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

– Chương 3. Các giải pháp tăng cường việc thực hiện chính sách bảo vệ môi 
trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

    1. 1.1. Một số khái niệm liên quan đến thực hiện chính sách bảo vệ môi trường

1.1.1. Môi trường và bảo vệ môi trường

Môi trường là khái niệm có nội hàm vô cùng rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong cuộc sống người ta dùng nhiều khái niệm môi trường như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường giáo dục… Môi trường theo định nghĩa thông thường “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy[26, tr.618] hay là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ[25, tr.616].

Môi trường nhân tạo bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo ra trên cơ sở quy luật của tự nhiên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, phục vụ cuộc sống của chính mình như ô tô, máy bay, điện thoại, công trình thủy lợi, công trình nghệ thuật, công trình xây dựng…

Môi trường xã hội là tổng hợp tất cả các yếu tố về xã hội có liên quan và tác động tới đời sống con người. Đó là những quy định ở các cấp khác nhau của: Liên hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể…

Tuy nhiên khái niệm về môi trường được sử dụng một cách thống nhất hiện nay tại Việt Nam là định nghĩa về môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường đã được thông qua ngày 23 tháng 6 năm 2014 như sau: “Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.

Môi trường dưới sự tác động của con người luôn có xu hướng bị ô nhiễm. Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường, thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các thành phần và đặc tính vật lý, hóa học, nhiệt độ, sinh học, chất hòa tan, chất phóng xạ…

1.1.2. Chính sách bảo vệ môi trường và thực hiện chính sách bảo vệ môi trường

Chính sách bảo vệ môi trường phải cụ thể hoá Luật Bảo vệ Môi trường (trong nước) và các Công ước quốc tế về môi trường. Ở mỗi cấp có thẩm quyền quản lý hành chính về môi trường đều có những chính sách môi trường riêng. Nó vừa cụ thể hoá luật pháp và những chính sách của các cấp cao hơn, vừa tính tới đặc thù địa phương. Việc ban hành chính sách của các cấp địa phương có vai trò quan trọng trong đảm bảo sự thành công của các chính sách do cấp trung ương.

Theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường, các chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường được pháp luật quy định khá cụ thể như: Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường. Ðẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường. Sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. Ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư. Ðầu tư cho việc bảo vệ môi trường là đầu tư cho sự phát triển; thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm. Việc ưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường và các sản phẩm thân thiện với môi trường; kết hợp hài hoà giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho phát triển. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích nghiên cứu, áp dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường; tăng cường, nâng cao năng lực quốc gia về bảo vệ môi trường theo hướng chính quy, hiện đại.

Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, để những chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường đi vào cuộc sống và trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể về bảo vệ môi trường, phát huy tác dụng của nó trong thực tiễn.

Như vậy có thể khẳng định, Chính sách bảo vệ môi trường là một nội dung của Chính sách công bao gồm hệ thống thể chế quy định về hoạt động bảo vệ môi trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm định hướng và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống liên quan đến môi trường nhằm bảo vệ môi trường trước những xâm hại của con người, qua đó tạo lập môi trường sống trong lành và xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững.

Như vậy thực hiện chính sách bảo vệ môi trường là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường; bảo vệ, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững.

Chính sách môi trường được tổ chức thực hiện thông qua hệ thống tổ chức quản lý môi trường cùng với sự tham gia của các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp và các cộng đồng trong xã hội.

Các hình thức tuyên truyền, vận động, thuyết phục để người dân nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường. Hệ thống tổ chức quản lý môi trường của nhà nước và hệ thống các tổ chức, các cộng đồng được phối kết hợp với nhau trong tổ chức thực hiện chính sách môi trường dưới nhiều hình thức khác nhau.

    1. 1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường

Tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường là hoạt động của các chủ thể thực hiện chính sách thông qua trình tự các bước nhằm thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên thực tế. Chính sách bảo vệ môi trường là một nội dung của Chính sách công, do đó các bước tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường về cơ bản tương tự với Chính sách công, tuy nhiên có một số đặc trưng riêng, cụ thể:

Bước 1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.

Đây là bước đầu tiên và có ý quan trọng quyết định thành bại của việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Hệ thống chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ môi trường theo thẩm quyền được phân công xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách với các nội dung như:

+ Kế hoạch tổ chức nhân sự bao gồm: bộ phận điều hành, bộ phận thực thi, giám sát…;

+ Kế hoạch xây dựng các phương án về vật chất, tiền bạc… cho việc thực hiện chính sách;

+ Kế hoạch cho từng giai đoạn cụ thể với mục tiêu cụ thể của quá trình thực hiện chính sách bảo vệ môi trường;

+ Kế hoạch về các nội dung khen thưởng và chế tài cho các cá nhân, tổ chức thực hiện chính sách;

+ Kế hoạch đánh giá, lấy ý kiến của những đối tượng chịu tác động của việc thực hiện chính sách ở từng giai đoạn và sau khi chính sách được thực hiện;

Kế hoạch thực hiện chính sách bảo vệ môi trường phải được xây dựng dựa vào những quy định thống nhất của Nhà nước về bảo vệ môi trường, phù hợp với mục tiêu, nội dung của chính sách và mang tính khả thi. Bên cạnh đó, kế hoạch phải được ban hành bởi cá nhân, cơ quan đúng thẩm quyền quy định và được xây dựng đảm bảo dân chủ, cầu thị.

Bước 2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ môi trường.

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật là bước giúp quảng bá, truyền thông kế hoạch thực hiện chính sách nói riêng và chính sách bảo vệ môi trường nói chung. Việc tuyên truyền hiệu quả mới thu hút được sự tham gia đông đảo của người dân và xã hội vào việc thực hiện chính sách, bên cạnh sự hiểu biết tường tận của những người trực tiếp tham gia thực hiện chính sách.

Để đảm bảo bước này có hiệu quả, cần thiết có sự chuẩn bị chặt chẽ từ nhân lực đến phương tiện. Về nhân lực, cần thiết xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên chuyên nghiệp, nắm bắt tâm lý, đặc điểm nhận thức của từng nhóm đối tượng để có phương pháp thực hiện hiệu quả. Phương tiện tuyên truyền phải có sự đan xen giữa các phương tiện truyền thống và hiện đại. Trong đó, tùy đối tượng tuyên truyền để lựa chọn phương tiện truyền thông phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh phương tiện truyền thông truyền thống như hệ thống loa phát thanh, tuyên truyền thông qua văn bản thì sử dụng mạng xã hội lại trở nên hiệu quả đối với đại bộ phận giới trẻ.

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến được thực hiện thường xuyên, liên tục và không ngừng đổi mới phương pháp lẫn nội dung đảm bảo người được tuyên truyền không cảm thấy nhàm chán để tự miễn nhiễm với những nội dung tuyên truyền. Hoạt động tuyên truyền phải được tổ chức thường xuyên để người được tuyên truyền cập nhật thông tin, nắm bắt được các nội dung một cách liên tục. Bên cạnh đó, cần thiết trong nội dung tuyên truyền phải lồng ghép các kết quả đạt được của thực hiện chính sách qua các giai đoạn nhằm giúp người dân hiểu rõ việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên thực tiễn.

Bước 3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.

Việc thực hiện chính bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả hay không phụ thuộc vào hiệu quả trong thực hiện công việc của từng người, từng nhóm người tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện chính sách. Muốn vậy, trước hết phải có sự phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo vệ môi trường rành mạch, logic và công bằng cho từng người hay nhóm người cụ thể. Sự phân công này giúp những người thực hiện chính sách hiểu rõ về vai trò, trách nhiệm của mình đối với việc thực hiện chính sách. Qua đó, bản thân mỗi người hay nhóm người được phân công sẽ nỗ lực hết sức và bằng các phương thức khác nhau để hoàn thành nhiệm vụ được phân công. Việc phân công nhiệm vụ cũng đồng nghĩa với việc xác lập trách nhiệm của từng người và nhóm người trong thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.

Phối hợp thực hiện chính sách được thực hiện sau khi có sự phân công. Phối hợp là sự kết nối, thể hiện mối quan hệ giữa những người hay nhóm người với nhau trong thực hiện chính sách. Sự phối hợp chặt chẽ, hợp lý sẽ đem lại hiệu quả tích cực trong công việc, ngược lại nếu không có sự phối hợp chặt chẽ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.

Bước 4. Duy trì chính sách bảo vệ môi trường.

Duy trì chính sách bảo vệ môi trường là việc làm quan trọng giúp quá trình thực hiện chính sách đạt được mục tiêu đã đề ra. Bước này phải được đảm bảo để tránh tình trạng thực hiện chính sách theo phong trào, không đảm bảo tính toàn vẹn của chính sách. Để duy trì được chính sách bảo vệ môi trường đòi hỏi sự tham gia của nhiều chủ thể, song quan trọng nhất chính là những người trực tiếp thực hiện chính sách bảo vệ môi trường theo nhiệm vụ đã phân công, trong đó những cá nhân, tổ chức càng trực tiếp càng quan trọng. Bên cạnh đó cũng phải kể đến vai trò duy trì chính sách của người dân, bởi lẽ nguyên do chủ yếu khiến cho tình trạng môi trường bị ô nhiễm xuất phát từ hoạt động sản xuất và sinh sống của người dân.

Bước 5. Điều chỉnh chính sách bảo vệ môi trường.

Xã hội luôn biến đổi, các mối quan hệ xã hội cũng vì thế mà thay đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau. Quy mô của sản xuất, kinh doanh và các hoạt động sống khác có xu hướng gia tăng theo thời gian, khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng, các nội dung chính sách như mục tiêu, công cụ, giải pháp… để thực hiện chính sách bảo vệ môi trường cũng vì thế có những biến đổi khác đi so với thời điểm bắt đầu thực hiện chính sách. Chính vì thế, cần thiết có sự điều chỉnh của chính sách để phù hợp hơn với những thay đổi của xã hội. Việc điều chỉnh chính sách phải diễn ra kịp thời với những quan sát nhạy bén nhằm đảm bảo thực hiện chính sách bảo vệ môi trường đi đúng hướng và đúng tiến độ đã đề ra.

Bước 6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.

Việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường cũng như thực hiện chính sách công nói chung phải được liên tục theo dõi, kiểm tra và đôn đốc. Theo dõi, kiểm tra để kịp thời phát hiện những sai lệch, những biểu hiện tiêu cực của thực hiện chính sách nhằm đề xuất các giải pháp thay thế hoặc sửa đổi. Đốn đốc thực hiện chính sách nhằm đảm bảo sự liền mạch của thực hiện chính sách, không để xảy ra gián đoạn hay thực hiện chính sách theo kiểu phong trào.

Bước 7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường.

Đây là bước cuối cùng trong tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Đánh giá, tổng kết để thấy được những điểm đạt được và chưa đạt được trong quá trình thực hiện chính sách trên cơ sở đối chiếu kết quả thực tiễn với mục tiêu chính sách bảo vệ môi trường đã đặt ra. Việc đánh giá, tổng kết được thực hiện thông qua nhiều thang đo định tính và định lượng khác nhau. Tuy nhiên, với lĩnh vực môi trường, thang đo chủ yếu vẫn là những chuyển biến tích cực của tình trạng ô nhiễm môi trường trên thực tế. Bên cạnh đó, các tiêu chí về thái độ, sự đóng góp của những cá nhân, tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường và ý thức, thái độ của người dân về bảo vệ môi trường cũng trở thành thang đo của việc thực hiện chính sách. Thông qua kết quả đánh giá, tổng kết có những khen thưởng và chế tài xứng đáng dành cho những cá nhân, tổ chức có công trạng hoặc mắc khuyết điểm trong quá trình thực hiện chính sách. Đối với những hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách, các hạn chế trên thực tiễn khi đối chiếu với mục tiêu chính sách cần thiết phải được làm rõ, tìm ra nguyên nhân và định hướng được các giải pháp nhằm rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường sau đó.

    1. 1.3. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách bảo vệ môi trường

Trên thực tế, việc bảo vệ môi trường thuộc về trách nhiệm của toàn xã hội. Tuy nhiên, trong phạm vi của chính sách công, chủ thể thực hiện chính sách công lấy trọng tâm là các cá nhân, tổ chức công quyền được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, cũng cần kể tới các bên liên quan khác.

Theo đó chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ môi trường gồm:

Thứ nhất, chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trọng tâm là hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng thực hiện chính sách về bảo vệ môi trường. Các cơ quan này từ trung ương đến địa phương bao gồm: Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp được quy định cụ thể tại chương XIV Luật bảo vệ môi trường 2014, Ban quản lý các khu công nghiệp, Sở Tài nguyên và môi trường, Cảnh sát môi trường là cơ quan tham mưu, giúp việc UBND Tỉnh, thành phố trong việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường. Cụ thể thẩm quyền của các chủ thể như sau:

– Chính phủ thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành thực hiện Chương trình, Kế hoạch bảo vệ môi trường trong cả nước.

– Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các lĩnh vực: môi trường, tài nguyên nước, đất đai; tài nguyên khoáng sản…và có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật về BVMT; phê duyệt chiến lược, quy hoạch, chương trình phát triển các ngành, lĩnh vực về BVMT; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên và môi trường.

– Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ: có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, ban hành thông tư, thông tư liên tịch về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ trực tiếp quản lý

Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được quy định cụ thể tại điều 142, Chương XIV, Luật bảo vệ môi trường năm 2014.

– Ủy ban nhân dân các cấp:

+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố (cấp tỉnh): thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh, thành phố trong việc bảo vệ môi trường tại địa phương.

+ Đối với cấp quận, huyện (cấp huyện), hoạt động quản lý nhà nước về môi trường được giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện. Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND quận, huyện quản lý nhà nước về môi trường và có các nhiệm vụ cụ thể sau:

Trình UBND quận, huyện ban hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hằng năm; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực môi trường.

Tổ chức đăng ký, xác nhận và kiểm tra việc thực hiện cam kết BVMT, đề án BVMT, kế hoạch BVMT và các kế hoạch phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường trên địa bàn; thực hiện công tác BVTM làng nghề trên địa bàn; lập báo cáo hiện trạng môi trường theo định kỳ; đề xuất các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trên địa bàn.

Tổ chức thực hiện kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và tham gia cập nhật kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn cấp huyện.

Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về BVMT, tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoảng sản, bảo vệ môi trường biển.

Theo dõi, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về tài nguyên và môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí về tài nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật và phân công của UBND câp huyện.Giúp UBND quận, huyện quản lý nhà nước đối với các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; tham gia quản lý hoạt động tổ chức và hoạt động của các hội trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện.

Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định ủa UBND cấp huyện và Sở Tài nguyên và Môi trường

Thứ hai, bên cạnh các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường kể trên, các bên liên quan trong thực hiện chính sách bảo vệ môi trường còn bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các Tổ chức chính trị – xã hội và các cá nhân, tổ chức xã hội liên quan trực tiếp đến hoạt động bảo vệ môi trường. Trong đó Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các Tổ chức chính trị – xã hội là những tổ chức có chức năng chủ yếu tuyên truyền chính sách bảo vệ môi trường đến người dân và xã hội. Bên cạnh đó, hai nhóm tổ chức này còn có chức năng giám sát và phản biện trong xuyên suốt chu trình chính sách, từ xây dựng, ban hành đến thực hiện. Chức năng giám sát và phản biện nếu được thực hiện hiệu quả, khách quan sẽ đóng vai trò lớn đối với hiệu quả của thực hiện chính sách bảo vệ môi trường nhờ tạo ra được những áp lực cần thiết lên chủ thể thực hiện chính sách cũng như giúp chuyển tải tiếng nói của người dân, đặc biệt những người trực tiếp chịu sự tác động của chính sách bảo vệ môi trường.

Người dân và đại diện cộng đồng dân cư tại nơi chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chính sách bảo vệ môi trường có những quyền nhất định đối với việc thực hiện chính sách.

Ngoài ra, các tổ chức xã hội, các tổ chức Phi chính phủ (NGo) hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng có những tác động nhất định đến thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Các tổ chức xã hội với tư cách là đại diện lợi ích của các nhóm dân cư sẽ là phương tiện khuếch đại tiếng nói của người dân về các vấn đề liên quan đến môi trường, đồng thời đó cũng là kênh giám sát quan trọng của người dân với thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Trong khi đó, các tổ chức NGo hoạt động trong lĩnh vực môi trường có chuyên môn sâu để trở thành các cố vấn cho các chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ môi trường, đồng thời ở nhiều nội dung, có thể để chính các tổ chức NGo đảm nhận trực tiếp việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường nhằm giảm bớt gánh nặng cho nhà nước, trong khi đó có thể tận dụng được các công nghệ, kỹ thuật thực hiện chính sách từ nước ngoài.

    1. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo vệ môi trường

Chính sách công xuất phát từ nội tại xã hội và quay trở lại thay đổi tích cực xã hội, do đó bản thân chính sách công chịu sự chi phối, ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Có thể tạm thời liệt kê 03 yếu cố cơ bản: yếu tố kinh tế; yếu tố xã hội và yếu tố thể chế.

1.4.1. Yếu tố kinh tế

Ở nghĩa rộng lớn, trong môi trường xã hội, hầu hết các hoạt động hay mối quan hệ đều chịu sự chi phối của thể chế, vì thế ở phía ngược lại, các hoạt động hay mối quan hệ phản ánh một cách sâu sắc trình độ, nền tảng và quan điểm kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ. Chính sách công sau khi xuất phát từ những mâu thuẫn trong lòng xã hội để ra đời sẽ quay trở lại cải tạo xã hội, nhằm làm cho xã hội tốt đẹp hơn, phát triển mọi mặt trong đó có kinh tế. Vậy nên sự tác động giữa kinh tế và chính sách công là mối quan hệ biện chứng, tương hỗ. Cả hai đều là tiền đề và đều là kết quả của nhau.

Ở nghĩa hẹp hơn, nếu xem kinh tế là sự giàu có của các nguồn lực, thì rõ ràng yếu tố kinh tế ở đây chính là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện chính sách được diễn ra trên thực tế. Ở các quốc gia phát triển và giàu có trên thế giới, nền kinh tế của họ dồi dào đủ cung cấp các yếu tố vật chất cho thực hiện chính sách sẽ đảm bảo cho chính sách đó được thực hiện ở quy mô lớn, do vậy đạt được sự cải biến lớn. Điều ngược lại xảy ra ở các quốc gia đang phát triển hay nghèo khó. Bài toán chi phí cơ hội không cho phép các quốc gia này sử dụng quá nhiều đồng tiền trong tổng số ngân sách hạn chế để thực hiện chính sách bảo vệ môi trường và đôi khi đây chính là đối tượng đánh đổi đầu tiên cho giấc mơ phát triển kinh tế vượt bậc. Chính vì thể có thể khẳng định tình trạng ô nhiễm môi trường ở các quốc gia này ngày càng trầm trọng.

Ở khía cạnh khác, sự phát triển kinh tế luôn tác động đến môi trường, qua đó gián tiếp làm ảnh hưởng đến sự thành bại của thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Cụ thể, kinh tế phát triển với tốc độ ngày càng nhanh của các tổ chức sản xuất, khai thác kéo theo hai hệ quả: thứ nhất, nhu cầu nguyên liệu đầu vào tăng nhanh. Với các quốc gia đang phát triển, nguyên liệu đầu vào đa số được khai thác trực tiếp từ tự nhiên thay vì tìm kiếm các nguyên liệu nhân tạo thay thế. Hoạt động khai thác nguyên liệu từ tự nhiên khiến cho tài nguyên dần bị cạn kiệt, các hoạt động khai thác có tác động tiêu cực đến môi trường sống tự nhiên. Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Thực tế cho thấy, hoạt động khai thác tác động xấu đến môi trường nhanh chóng, nhưng để phục hồi môi trường nhờ các chính sách bảo vệ môi trường phải tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc. Chính vì thế, kết quả của các chính sách bảo vệ môi trường còn phụ thuộc vào mức độ tác động tiêu cực của hoạt động khai thác nguyên liệu tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế. Mặt khác, hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng đem đến những tác động tiêu cực khi tạo ra lượng rác thải lớn làm ảnh hưởng đến cả môi trường nước, đất và không khí. Nền kinh tế càng phát triển, thị trường càng nhộn nhịp thì hoạt động sản xuất và kinh doanh càng lớn, dẫn đến tỷ lệ nghịch về mức độ trong lành của môi trường. Cũng như hoạt động khai thác, các hệ lụy từ sản xuất và kinh doanh đến môi trường luôn có xu hướng lớn hơn kết quả của các hoạt động bảo vệ môi trường. Chính vì thế có thể nói ở khía cạnh này, mặt trái của phát triển kinh tế làm môi trường bị hủy hoại mạnh mẽ hơn và khiến cho việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường gặp khó khăn và kém hiệu quả.

Như vậy, có thể thấy, tác động của kinh tế đối với hoạt động bảo vệ môi trường có hai mặt. Những tác động tiêu cực đến từ tham vọng phát triển kinh tế, bỏ qua việc duy trì môi trường sống đã dẫn đến hệ quả môi trường bị tàn phá, khiến cho việc thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường trở nên yếu ớt. Tác động này thấy rõ ở các quốc gia đang phát triển bởi xu hướng dịch chuyển của nền kinh tế thế giới mà trong đó có Việt Nam.

1.4.2. Yếu tố xã hội

Các vấn đề xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực trong đời sống con người và có tác động sâu sắc đến những yếu tố còn lại, trong đó có môi trường. Trong các vấn đề xã hội, có thể kể đến một số lĩnh vực trực tiếp ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo vệ môi trường như: dân số; việc làm; tập quán và quan điểm xã hội.

Thứ nhất, việc gia tăng của dân số kéo theo các nhu cầu cũng gia tăng. Trong tháp nhu cầu của con người, từ những nhu cầu nhỏ nhất như ăn, ở, mặc và đi lại đến những nhu cầu cao hơn như công việc, sự giàu có… đều có mối liên hệ với môi trường. Cụ thể, để thỏa mãn các nhu cầu, con người khai thác chủ yếu các nguồn vật chất từ tự nhiên khiến cho hầu hết các tài nguyên hữu dụng với đời sống con người đều có nguy cơ bị cạn kiệt. Bên cạnh đó, với hoạt động sống ngày càng phức tạp, con người tạo ra nhiều chất thải hơn, sản xuất ra nhiều chất độc hơn và làm biến đổi sự phát triển tự nhiên của môi trường. Chính điều đó khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường tồi tệ hơn khi dân số gia tăng. Chính sách bảo vệ môi trường luôn phải đối mặt với tình trạng lượng rác thải và các chất độc hại sinh ra từ hoạt động sống của con người ngày càng nhiều. Do đó, hầu hầu hết các chính sách bảo vệ môi trường đều dành một nguồn lực lớn và dự liệu các vấn đề biến cố xảy ra trong thực hiện chính sách do vấn đề bùng nổ dân số mang lại. Song trên thực tế có thể thấy nhiều chính sách đã thất bại do sự bùng nổ dân số hoặc di dân. Đương nhiên ở một khía cạnh khác, sự gia tăng dân số cũng mang lại lợi ích cho thực hiện chính sách bảo vệ môi trường với điều kiện lúc này dân số nói chung tích cực tham gia vào hoạt động phục hồi và bảo vệ môi trường. Song đây là một giả thuyết chưa được kiểm chứng trên thực tiễn, bởi đến nay chưa xác lập được một hoạt động thực hiện chính sách mà toàn bộ xã hội đều tham gia vào đó với một mục đích chung, do vậy đây vẫn chỉ là mô hình lý tưởng.

Thứ hai, đối với việc làm, yếu tố quan trọng ở đây là sự gia tăng của các việc làm tự phát, trong đó có nhiều hoạt động ngành nghề tự phát tác động rất lớn đến môi trường. Các hoạt động ngành nghề tự phát thường nhỏ lẻ, trong quá trình sản xuất không tuân thủ các quy trình về đảm bảo vệ sinh môi trường, đồng thời các thiết bị nhằm đảm bảo quy trình cũng không được đầu tư lắp đặt. Do đó, tình trạng chung hoạt động ngành nghề này thường xả trực tiếp chất thải ra môi trường, làm tình trạng môi trường ngày một xấu đi. Thực tế này phổ biến tại khu vực nông thôn, các làng nghề truyền thống hay các khu khai thác, chế xuất tự phát của người dân. Trong quá trình thực hiện chính sách bảo vệ môi trường đã gặp không ít các khó khăn, vất vả do hoạt động của các ngành nghề mang lại, không những thế xu hướng của hoạt động này ngày một gia tăng, do đó trong thực hiện chính sách bảo vệ môi trường luôn phải tăng cường đầu tư nguồn lực khắc phục.

Thứ ba, về tập quán, ý thức xã hội. Khâu quan trọng nhất trong thực hiện chính sách chính là tuyên truyền chính sách để người dân và xã hội được thông suốt, từ đó lôi cuốn được đông đảo người dân tham gia thực hiện chính sách bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, những thói quen tạo nên tập quán xấu đối với môi trường hay quan niệm xã hội thiếu tôn trọng môi trường tự nhiên trở thành cản lực của hoạt động này. Tập quán chính là những thói quen được thực hiện ở phạm vi cộng đồng, không ít các tập quán có tác động tiêu cực đến môi trường như tục đốt vàng mã, đốt rừng làm rẫy vào vụ mùa mới, thả đèn trời… Các hoạt động này phục vụ cho những nghi thức hoặc tín ngưỡng của con người nhưng tác động tiêu cực đến môi trường. Ở những nơi tập quán này hiện hữu và được thực hiện một cách thường xuyên, công tác bảo vệ môi trường gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ tập quán có vị thế rất quan trọng trong đời sống cộng đồng và theo thói xưa “phép vua thua lệ làng” khiến cho nhiều lúc tập quán được bảo vệ một cách chặt chẽ và được đề cao hơn những giá trị khác của cộng đồng. Bên cạnh tập quán, hiểu biết xã hội về vai trò của môi trường thấp dẫn đến những tác hại đến môi trường từ tập quán tiêu cực không được phát hiện, lợi ích thỏa mãn nghi thức, tín ngưỡng được đặt cao hơn lợi ích khi duy trì một trạng thái môi trường lý tưởng. Tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ môi trường ở các quốc gia có nhận thức về vai trò của môi trường thấp cộng với việc duy trì nhiều tập quán tiêu cực sẽ vấp phải rất nhiều cản lực. Hoạt động bảo vệ môi trường lúc này phải đối mặt với sự phản đối từ phía xã hội để bảo vệ những nghi thức và niềm tin tín ngưỡng của họ. Ngược lại, ở những xã hội đề cao vai trò của môi trường, hiểu rõ giá trị của tự nhiên và nguy cơ khi môi trường bị xâm phạm thì việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường nhận được nhiều hưởng ứng và thuận lợi.

1.4.3. Yếu tố thể chế

Thể chế ở đây được hiểu là các quy định mang tính pháp lý về vấn đề bảo vệ môi trường. Chính sách bảo vệ môi trường ở đây được hiểu là chính sách công với vai trò cụ thể hóa và đưa pháp luật về môi trường vào đời sống nhằm tác động và cải biến thực tiễn theo tinh thần của luật pháp. Vì thế, trước hết chính sách bảo vệ môi trường phải dựa vào một hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường đầy đủ và thống nhất. Cơ sở pháp lý này bao gồm các quan điểm lập pháp rõ ràng về vấn đề bảo vệ môi trường, các cơ chế thực thi, một hành lang với giới hạn cụ thể và những chế tài tương ứng với những hành vi vi phạm. Tất cả các cơ sở này sẽ làm tiền đề cho thực hiện chính sách về bảo vệ môi trường. Các cơ sở pháp lý này càng thống nhất, rõ nét và công bằng thì việc thực hiện chính sách càng có được nhiều lợi thế trên thực tiễn. Ngược lại, thiếu cơ chế đảm bảo từ thể chế, chính sách bảo vệ môi trường không thể thực thi trên thực tế, vì lịch sử cho thấy vấn đề bảo vệ môi trường phải song hành với những cơ chế mang tính bắt buộc, nếu chỉ là tự nguyện, con người dễ dàng thỏa hiệp sự trong lành của môi trường với những giá trị kinh tế và thường họ sẽ chọn vế thứ hai.

    1. 1.5. Chính sách bảo vệ môi trường của Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, chất lượng môi trường bị suy thoái trầm trọng. Đảng ta đã nhận thức được mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của vấn đề suy thoái môi trường toàn cầu đến sự phát triển đất nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo gắt gao công tác bảo vệ môi trường.

Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống thể chế chính sách góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường trong sạch và phát triển bền vững.

Các văn bản này điều chỉnh các nhóm quan hệ sau:

+ Nhóm quan hệ hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước đối với môi trường thuộc phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật Bảo vệ môi trường và các luật có liên quan;

Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi

+ Nhóm quan hệ về phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, phòng chống sự cố môi trường. kiểm soát các hoạt động ảnh hưởng đến môi trường thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản có liên quan;

+ Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng các thành phần môi trường thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về tài nguyên;

+ Nhóm quan hệ về giải quyết tranh chấp môi trường, xử lý vi phạm pháp luật môi trường thuộc phạm vi điều chỉnh của các ngành luật dân sự, hình sự, hành chính;

+ Nhóm quan hệ về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở việc điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội chủ yếu kể trên, pháp luật bảo vệ môi trường được cấu thành bởi một số chế định căn bản sau:

– Chế định về quản lý nhà nước về môi trường

– Chế định đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường .

– Chế định bảo vệ các thành tố môi trường, các nguồn tài nguyên.

– Chế định về quan hệ quốc tế trong việc bảo vệ môi trường

Hệ thống chính sách, phát luật về bảo vệ môi trường hiện nay có thể được thống kê như sau:

Đối với hệ thống Luật và Pháp lệnh, việc bảo vệ môi trường được quy định bởi Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các văn bản có liên quan. Hiện nay có 33 Luật và 22 Pháp lệnh có nội dung liên quan tới công tác bảo vệ môi trường. Trong hệ thống các Luật, Pháp lệnh về bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường có thể coi là đạo luật trung tâm trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn có các đạo luật, pháp lệnh về bảo vệ các thành tố môi trường (còn gọi là các đạo luật, Pháp lệnh về tài nguyên). Ngoài ra, quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường hoặc nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các tổ chức, cá nhân còn nằm rải rác trong nhiều đạo luật khác. Bên cạnh đó, một số đạo luật, pháp lệnh còn quy định cụ thể việc xử lý vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường hay một số đạo luật, pháp lệnh có những nội dung quan trọng liên quan đến vấn đề tài chính trong bảo vệ môi trường.

Để thực hiện các Luật, Pháp lệnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành hữu quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn có nội dung quy định về bảo vệ môi trường. Các văn bản này tập trung vào giải quyết các nội dung chính sau: quy định hệ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường Việt Nam; quy định quy trình đánh giá tác động môi trường; quy định về giấy phép môi trường; quy định về thanh tra môi trường; quy định về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; quy định về các thiết chế bảo vệ môi trường (tổ chức, bộ máy, phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan bảo vệ môi trường)… Kết quả rà soát cho thấy, hiện có hơn 90 Nghị định của Chính phủ, hơn 50 Quyết định và 30 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, cùng hàng trăm thông tư, chỉ thị, quyết định của các Bộ, ngành đã ban hành có nội dung liên quan trực tiếp tới công tác bảo vệ môi trường.

Cụ thể, có thể thống kê một số văn bản quan trọng theo thời gian như sau:

Luật bảo vệ môi trường đầu tiên đã được Quốc Hội khóa IX, kỳ họp thứ tư, thông qua ngày 27-12-1993 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10-01-1994.

Ngày 25-06-1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị số 36-CT/TW để chỉ đạo đẩy mạnh hơn nữa công tác bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 153/2004/QĐ – TTg ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, có vai trò như một chiến lược khung bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện.

Năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường 2005 và được áp dụng đến 31/12/2014 góp phần thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đến năm 2014, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23/6/2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 với 20 chương 170 điều, quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường. Điểm nổi bật cơ bản của Luật là đã xây dựng mới nội dung về quy hoạch bảo vệ môi trường; quy định cụ thể hơn về nội dung cần phải có của báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; bổ sung quy định về cam kết bảo vệ môi trường… Luật quy định bổ sung và cụ thể về trách nhiệm của các hộ gia đình, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại các làng nghề; các điều kiện về bảo vệ môi trường tại các làng nghề; trách nhiệm của UBND cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh đối với bảo vệ môi trường làng nghề. Đồng thời, bổ sung trách nhiệm của người tiêu dùng và cơ quan quản lý Nhà nước bên cạnh trách nhiệm của nhà sản xuất đối với việc thu hồi các sản phẩm hết hạn sử dụng và thải bỏ; bổ sung quy định trách nhiệm của các chủ đầu tư khu công nghiệp, khu chế xuất trong quản lý chất thải…

Các nội dung cơ bản về bảo vệ môi trường được quy định tại Điều 5, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 gồm:

– Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường; kiểm tra, giám sát thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường

– Tuyên truyền, giáo dục kết hợp với các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng kỷ cương và văn hóa môi trường

– Bảo tồn đa dạng sinh học; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch và tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải

– Ưu tiên xử lý các vấn đề môi trường bức xúc, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường nguồn nước; chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư; phát triển hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường

– Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; bố trí khoản chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng chung; các nguồn kinh phí bảo vệ môi trường được quản lý thống nhất và ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực trọng điểm trong bảo vệ môi trường

– Ưu đãi, hỗ trợ về tài chính, đất đai cho các hoạt động bảo vệ môi trường, cơ sở sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường

– Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường

– Phát triển khoa học công nghệ môi trường; ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường; áp dụng tiêu chuẩn môi trường đáp ứng các yêu cầu tốt hơn về bảo vệ môi trường

– Gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên với ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường

– Nhà nước ghi nhận, tôn vinh tổ chức và cá nhân có những đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường

– Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường.

Trên cơ sở quy định của các Luật, các văn bản dưới luật cũng được ban hành để thực hiện chính sách bảo vệ môi trường như:

Ngày 05/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1216/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Nghị quyết số 35-NQ/CP ngày 18/3/2013 của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;

Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;

Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ qui định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường;

Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi

Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường;

Thông tư số 26/2015/TT-BTNMT ngày 28/5/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về đề án bảo vệ môi trường chi tiết, đề án bảo vệ môi trường đơn giản;

Thông tư số 31/2016/TT-BTNMT ngày 14/10/2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;

Quyết định số 166/QĐ-TTg ngày 21/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030…

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\CHINH SACH CONG\CAO THI ANH NGUYET\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *