Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn

Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn

Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh và “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia. Chất lượng này phụ thuộc và được quyết định bởi sự nghiệp giáo dục và đào tạo, trong đó có đào tạo nghề. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI khi đánh giá về giáo dục và đào tạo (trong đó có đào tạo nghề) nhấn mạnh những hạn chế yếu kém của công tác này, đó là “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội”.

Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng khẳng định trong ba đột phá chiến lược phát triển trong những năm tới của Việt Nam là cải cách hành chính, xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước khi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng, quyết định.

Đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho thanh niên nói riêng không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội mà các quốc gia đều rất quan tâm. Chính sách đào tạo nghề là chính sách lớn, có ý nghĩa là đòn bẩy đối với mỗi nền kinh tế. Có thể nói, hiệu quả của việc đào tạo nghề gắn liền

với sự quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, vấn đề đào tạo nghề cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Đảng Cộng Sản Việt Nam khi lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cho sự phát triển nhanh và bền vững luôn coi “Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Vì vậy vấn đề thanh niên phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Bước sang thế kỷ XXI, với những cơ hội và thách thức, trên cơ sở nhìn nhận sâu sắc những ưu điểm và những biểu hiện phức tạp của thanh niên hiện nay, Nghị quyết Đại Hội IX của Đảng đã xác định đối với thế hệ trẻ cần phải “chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quận Ngũ Hành Sơn là một trong các quận nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của thành phố Đà Nẵng, là miền đất đầy tiềm năng về phát triển kinh tế. Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển của cả thành phố, quận Ngũ Hành Sơn có những bước chuyển mạnh mẽ về nhiều mặt, đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt nhiều thành tựu quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, chính trị ổn định. Trong những thành tựu đó có vấn đề đào tạo cho người lao động nói chung, thanh niên nói riêng.

Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề cho thanh niên còn nhiều bất cập, thiếu định hướng nghề nghiệp, khó khăn trong tiếp cận việc làm, quan hệ cung cầu trong lao động thanh niên đang mất cân đối… vẫn là vấn đề xã hội tồn tại trong thanh niên, đặc biệt là thanh niên tại các xã nông thôn trên địa bàn quận. Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp, thiếu việc làm cao và đang có xu hướng gia tăng, nhiều thanh niên trong quận đã rời quê hương đi làm ăn xa tại các đô thị lớn, nguyên nhân là do quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp phục vụ các dự án trên địa bàn và áp dụng kỹ thuật công nghệ sử dụng ít lao động, bên cạnh đó là trình độ học vấn, tay nghề, ý thức kỷ luật, tác phong lao động còn hạn chế, không đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng tại địa phương. Mặt khác, một bộ phận thanh niên ở địa phương này không có việc làm do trình độ học vấn và tay nghề chuyên môn còn thấp, chưa thực sự thay đổi suy nghĩ, tập quán sống, chưa thích ứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong khi đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn chưa coi thanh niên trong xã là lực lượng lao động chủ chốt, nên chưa nhiệt tình và tin cậy để phổ biến nghề mới, đào tạo nghề, tư vấn nghề và hỗ trợ các kỹ năng nghề cho thanh niên còn hạn chế. Do đó, tỷ lệ thiếu việc làm và tình trạng thất nghiệp của thanh niên có xu hướng ngày càng tăng, mức thu nhập thấp đã dẫn tới con đường thanh niên phải tự tìm kiếm việc làm mới, không ít trường hợp bị lừa gạt hoặc phải làm những công việc ở mức lương thấp hoặc những việc làm trái với pháp luật, đạo đức của xã hội: mại dâm, trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, buôn bán ma túy mà mục đích chỉ vì cuộc sống sinh tồn thiếu việc làm và thất nghiệp. Chính vì thế, công tác đào tạo nghề, định hướng nghề nghiệp, giải quyết tình trạng thất nghiệp cho thanh niên hiện nay là một yêu cầu và thách thức. Như vậy, căn cứ vào những cơ sở trên đây, rõ ràng rằng đào tạo nghề giải quyết việc làm cho thanh niên ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đang kéo theo hàng loạt những vấn đề xã hội cấp bách cần được giải quyết

Xuất phát từ nhận định trên, Tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” là yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam để có cơ sở khoa học đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên quận Ngũ Hành Sơn và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở nước ta hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam

Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên tại quận Ngũ Hành Sơn, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các hạn chế, bất cập.

Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện đào tạo nghề cho thanh niên ở nước ta hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu.

Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam, cụ thể là nghiên cứu giải pháp và công cụ chính sách đào tạo nghề cho thanh niên dưới góc độ khoa học chính sách công.

4.2. Phạm vi nghiên cứu.

Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến nay và đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở nước ta trong thời gian tới.

Thời gian nghiên cứu: Tháng 6/2018 đến tháng 8/2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế với cách tiếp cận đa ngành về khoa học xã hội về chính sách công, về chu trình chính sách công từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khai thác thông tin dữ liệu từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm: các văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ ngành ở TW và địa phương; thu thập thông tin trên mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác như các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách đào tạo nghề ở nước ta nói chung và thực tế quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng nói riêng.

Luận văn sử dụng phương pháp định tính, phương pháp nghiên cứu tài liệu vào quá trình nghiên cứu đề tài cũng đòi hỏi tiếp cận, kết hợp việc cập nhật những vấn đề, lĩnh vực mới mẻ trong đời sống KT-XH từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, phù hợp với yêu cầu của cấu trúc luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Ý nghĩa lý luận của luận văn thể hiện ở chỗ các kết quả, kết luận rút ra từ việc nghiên cứu đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công, thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở Việt Nam nói chung và quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thể hiện ở chỗ đã đề xuất các giải pháp thiết thực, các kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Luận văn có thể sử dụng như tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành chính sách công ở nước ta.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu thành 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách đào tạo nghề cho thanh niên.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở nước ta hiện nay.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐẠO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN

    1. 1.1. Khái niệm, đặc điểm, những yếu tố ảnh đến đào tạo nghề

1.1.1. Khái niệm Nghề

Có khá nhiều diễn đạt về khái niệm nghề. Có tác giả quan niệm “Nghề là một hình thức phân công lao động, nó được biểu thị bằng những kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định. Những công việc được sắp xếp vào một nghề là những công việc đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp như nhau, thực hiện trên những máy móc, thiết bị, dụng cụ tương ứng như nhau, tạo ra sản phẩm thuộc về cùng một dạng”.

Ở một khía cạnh khác, có tác giả quan niệm “Nghề” là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội”.

Bên cạnh đó cũng có thể hiểu, Nghề” là một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động của xã hội, là toàn bộ kiến thức (hiểu biết) và kỹ năng mà một người lao động cần có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao động nhất định”.

Danh mục về diễn giải khái niệm nghề có thể rất dài, nhưng tựu trung lại, nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc. Nghề nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v… Công nghệ các hợp chất cao phân tử tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du lịch tiếp nối ra đời… Bên cạnh đó, rất nhiều nghề đã có thời kỳ gần như không thể thiếu trong đời sống xã hội trước đây nay đã mất đi, từ những nghề hoàn toàn thủ công, lao động chân tay (như nghề đóng cối xay lúa tồn tại hàng vài thế kỷ, nhưng khi máy xay sát được đưa vào hoạt động thì nghề này không còn nữa) hoặc sử dụng công nghệ ở trình độ thấp (như nghề trực tổng đài điện thoại tại các cơ quan để nối đến các máy lẻ đã mất đi nhiều năm nay khi công nghệ viễn thông phát triển).

Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.

Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chuyên môn nhiều như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác. Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước ta, mỗi năm ở cả 3 hệ trường (dạy nghề, trung học chuyên ngiệp và cao đẳng – đại học) đào tạo trên dưới 300 nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau.

Từ các cách hiểu trên cho thấy nghề là kết quả của sự phân công lao động xã hội, xã hội phát triển thì ngành nghề cũng thay đổi theo.Và dưới góc độ đào tạo, nghề là toàn bộ các kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm nghề nghiệp và các phẩm chất khác.

Muốn trở thành một nghề thì ít nhất cũng phải trải qua đào tạo, cho dù là đào tạo dài hạn, bài bản; hoặc hướng dẫn kèm cặp. Xuất phát từ quan niệm như vậy, có tác giả phân loại nghề thành hai nhóm là nghề qua đào tạo và nghề xã hội. Nghề đào tạo là nghề mà muốn nắm vững nó, con người phải có trình độ văn hóa nhất định, được đào tạo hệ thống, bằng nhiều hình thức và được nhận bằng hoặc chứng chỉ. Các nghề được đào tạo được phân biệt với nhau qua các yêu cầu về nội dung chương trình, mức độ chuyên môn và thời gian cần thiết để đào tạo. Nghề xã hội là nghề được hình thành một cách tự phát theo nhu cầu của đời sống xã hội, thường được đào tạo với các chương trình đào tạo ngắn hạn, cũng có thể thực hiện thông qua hướng dẫn, kèm cặp hoặc truyền nghề.

Trong hệ thống nghề đào tạo có hai dạng: đào tạo lao động kỹ thuật hệ thực hành và đào tạo lao động chuyên môn, hệ kiến thức hàn lâm.

Lao động chuyên môn, hệ kiến thức hàn lâm bao gồm chủ yếu là lao động qua đào tạo ở cấp trình độ đại học, sau đại học, đào tạo thuộc hệ đào tạo nặng hơn về kiến thức hàn lâm, kiến thức lý thuyết và làm các công việc như: nghiên cứu khoa học, phân tích – thống kê kinh tế, giảng viên các trường đại học (không bao gồm các giảng viên kỹ thuật hệ thực hành), nhà quản lý, chuyên gia thuộc các lĩnh vực kinh tế – xã hội khác nhau…

Lao động kỹ thuật hệ thực hành là lao động đã được đào tạo qua các cấp trình độ nghề kỹ thuật (dạy nghề), trung cấp kỹ thuật, cao đẳng kỹ thuật thực hành, đại học kỹ thuật thực hành, sau đại học kỹ thuật thực hành. Hệ thống đào tạo này thực hiện việc đào tạo các chuyên ngành về kỹ thuật, công nghệ, nghiệp vụ nhưng đào tạo nặng hơn về thực hành. Lao động này làm các công việc như: kỹ sư công nghệ, kỹ sư kinh tế, kỹ thuật viên, kỹ sư chỉ đạo sản xuất, công nhân kỹ thuật

Như vậy có rất nhiều nghề trong xã hội, trong khuôn khổ luận văn chỉ nghiên cứu nghề trong hệ thống nghề được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề của địa phương bao gồm công nhân kỹ thuật được đào tạo chính quy tại các trường, lớp dạy nghề; nhân viên nghiệp vụ và phổ cập nghề cho người lao động.

1.1.2. Đào tạo nghề

Khái niệm đào tạo thường gắn với giáo dục, nhưng hai phạm trù vẫn có một số sự khác nhau tương đối. Giáo dục được hiểu là các hoạt động và tác động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực (bao gồm tri thức, kỹ năng và kỹ sảo…) và phẩm chất (niềm tin, tư cách, đạo đức…) ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ nhất và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Hay nói cách khác, giáo dục còn là quá trình khơi gợi các tiềm năng sẵn có trong mỗi con người, góp phần nâng cao các năng lực và phẩm chất cá nhân của cả thầy và trò theo hướng hoàn thiện hơn, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài người đương đại.

Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Thứ nhất, theo từ điển Tiếng Việt, “đào tạo” được hiểu là việc: làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”.

Thứ hai, “Đào tạo” là quá trình trang bị kiến thức nhất định về mặt chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định”.

Thứ ba, từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt Nam, khái niệm tương đối đầy đủ là: “Đào tạo” là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt được các kiến thức, kỹ năng và kỹ sảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để thực hiện thành công một hoạt động xã hội (nghề nghiệp) cần thiết”.

Hay nói cách khác, đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định.

Giáo dục và đào tạo cùng có điểm chung là đều hướng vào việc trang bị kiến thức kỹ năng để phát triển năng lực của người lao động. Tuy nhiên, trong giáo dục nhằm vào những năng lực rộng lớn còn đào tạo lại nhằm vào những năng lực cụ thể để người lao động đảm nhận công việc xác định, thường đào tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo…

Tại Điều 3 trong Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp. Hay nói theo cách khác, đào tạo nghề là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức đến người học nghề để hình thành và phát triển một cách có hệ thống những kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, trong đó có nhu cầu quốc gia, nhu cầu doanh nghiệp và nhu cầu bản thân người học nghề.

1.1.3. Khái niệm đào tạo nghề cho thanh niên

Đào tạo nghề cho thanh niên là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm việc và đào tạo lao động thanh niên phù hợp chỗ làm việc để có các việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả lao động thanh niên và người sử dụng lao đồng thời đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Với khái niệm trên, đào tạo nghề không chỉ là nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh nghiệp và ngay bản thân người lao động. Đào tạo nghề cho thanh niên là tổng hợp những biện pháp, trong đó:

+ Là quá trình đào tạo cho lao động trẻ có kỹ năng phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.

+ Là các biện pháp có tính hỗ trợ thanh niên tự tạo ra việc làm cho bản thân, gia đình và xã hội.

* Đặc điểm thanh niên và đào tạo nghề cho thanh niên

Để đào tạo nghề cho thanh niên cần nghiên cứu những nét đặc trưng của xu hướng việc làm và đặc điểm thị trường lao động.

Thứ nhất, xu hướng việc làm thanh niên:

+ Xu hướng giảm việc làm của lao động có trình độ thấp, đặc biệt là trong nông nghiệp và những ngành, nghề truyền thống đang mất dần do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới.

+ Xu hướng tăng việc làm cho các nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế động lực…

Thứ hai, đặc điểm thị trường lao động:

+ Cung lao động rất lớn trong khi cầu lao động lại rất chọn lọc.

+ Thiếu sự chuẩn bị đào tạo nghề nghiệp, tỷ lệ được đào tạo thường rất nhỏ, đa số thanh niên chưa có điều kiện tiếp cận các cơ hội đào tạo nghề nghiệp trước khi bước vào thị trường lao động.

+ Đối với những người được đào tạo, cũng gặp phải vấn đề chưa ăn khớp, hoặc bất cập của hệ thống đào tạo với yêu cầu của thị trường lao động, nên khả năng hội nhập thị trườg. lao động của thanh niên cũng gặp khó khăn.

+ Thanh niên chưa đủ thời gian để tích luỹ kinh nghiệm, khi vào thị trường lao động họ phải cạnh tranh quyết liệt với lao động ở độ tuổi trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm hơn trong nghề nghiệp.

Do áp lực của kinh tế thị trường, người sử dụng lao động yêu cầu lao động thanh niên phải có trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm làm việc, trong khi đáp ứng của lao động thanh niên đối với yêu cầu này còn hạn chế, mặt khác khi tuyển lao động thanh niên, người sử dụng lao động cũng phải cân nhắc tính hiệu quả, vì phải tăng chi phí đào tạo lại, đào tạo bổ sung kỹ năng mới cho họ phù hợp với công nghệ đang ứng dụng.

* Vai trò của đào tạo nghề cho thanh niên

Đào tạo nghề là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Chính sách đào tạo nghề vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị – xã hội cũng như giáo dục con người. Việc hoạch định và thực thi không tốt chính sách đào tạo nghề sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực tiếp cả về kinh tế, chính trị và xã hội cho đất nước.

Trước hết, đào tạo nghề phải đảm bảo việc làm cho thanh niên tham gia hoạt động kinh tế, kết nối họ vào các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ nhận được những khoản thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của chính bản thân mình, cũng như nuôi sống gia đình mình. Tạo nhiều việc làm tạo điều kiện cho thanh niên dễ dàng lựa chọn công việc phù hợp, tạo năng suất cao hơn và có cơ hội nhận được thu nhập cao hơn.

Thứ hai, thông qua đào tạo nghề cho thanh niên. Các doanh nghiệp người sử dụng lao động lựa chọn sức lao động trẻ cần thiết theo khối lượng và chất lượng theo nhu cầu của mình Nhưng không phải lúc nào cũng sẵn có lực lượng thanh niên cần thiết trong một khu vực, chính vì vậy nhờ việc giải quyết việc làm sẽ cung cấp đầy đủ các thông tin về ngành nghề, nơi nào đang dư thừa lao động thanh niên và nơi nào thì khan hiếm lao động trẻ, cũng như việc thanh niên cần phải trang bị những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp gì để có thể kiếm được việc làm.

Thứ ba, đào tạo nghề cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch sẽ giúp cho cả cho người sử dụng lao động cũng như bản thân thanh niên có những kế hoạch. Trong thực tế, những năm vừa qua cho thấy rằng, lao động trẻ có tay nghề cao, có óc sáng tạo, năng động, biết thích ứng nhanh với môi trường mới thì sẽ không bao giờ thiếu việc làm. Mặc khác, đào tạo nghề cho thanh niên sẽ tạo ra môi trường làm việc thuận lợi, đảm bảo quan hệ qua lại trong tập thể lao động, cũng như giữa chủ doanh nghiệp với lao động trẻ.

Thứ tư, đào tạo nghề cho thanh niên còn đảm bảo việc phân bổ lại lao động trẻ hoạt động kinh tế thường xuyên trong trường hợp sắp xếp, đổi mới lại các doanh nghiệp. Ở Việt Nam, vẫn đang cổ phần hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp đã làm cho lao động trẻ mất việc. Nhưng bên cạnh đó, cũng cho phép thành lập nhiều doanh nghiệp mới đã giải quyết nhiều chỗ việc làm mới cho lao động trẻ. Tỷ trọng lao động trẻ trong các thành phần kinh tế, các ngành nghề, các khu vực dần thay đổi theo hướng hợp lý, thích ứng và phù hợp.

Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
Giải pháp chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Tóm lại, đào tạo nghề cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch hợp lý thì sẽ có tác động tích cực đến kinh tế – xã hội nói chung và bản thân thanh niên. Nhưng, nếu không có sự quan tâm xây dựng, giải quyết hợp lý, sẽ tạo cho bản thân thanh niên tính trông chờ, ỷ lại, thiếu ý chí phấn đấu, thờ ơ với các hoạt động chính trị, xã hội, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu tôn trọng pháp luật và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, sa vào các tệ nạn xã hội dẫn đến vi phạm pháp luật, là thói quen ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ trẻ.

    1. 1.2. Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Khái niệm chính sách công: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và giải pháp, công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”(TS. Đỗ Phú Hải, 2012, 2014). Nhà nước là cơ quan duy nhất được ban hành chính sách, vì vậy mục đích của chính sách công là vừa đảm bảo quyền lợi của đa số cá nhân trong xã hội và thể hiện được quyền lực của nhà nước. Khi Nhà nước đưa ra các quyết định để thực hiện mục tiêu tổng quát về phát triển KT – XH cần phải tính tới vai trò của con người để thực hiện các quyết định đó, đây được xem là nguồn lực quan trọng có ý nghĩa quyết định quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Theo định nghĩa nêu trên thì chính sách đào tạo nghề cho thanh niên chính là mục tiêu và giải pháp Nhà nước đưa ra trong đó tạo sự đảm bảo quyền lợi đối với thanh niên nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện chuyển đổi cơ cấu việc làm trong phát triển nền kinh tế đất nước.

Đào tạo nghề cho thanh niên là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động thanh niên, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH.Do tính đặc thù của thanh niên, nên việc Đào tạo nghề cho thanh niên cần phải có những cách thức tổ chức phù hợp với từng nhóm đối tượng. Để xây dựng được các mô hình, chính sách đào tạo nghề cho thanh niên phù hợp, chúng ta cần nghiên cứu triển khai một số nội dung chủ yếu sau:

* Xác định nhu cầu sử dụng thanh niên qua đào tạo nghề và nhu cầu học nghề của thanh niên

Thứ nhất, khi xác định nhu cầu chúng ta phải triển khai các hoạt động điều tra, khảo sát nhu cầu sử dụng nhân lực qua đào tạo nghề trong các ngành kinh tế, vùng kinh tế và từng địa phương. Việc “nắm” nhu cầu phải đi trước một bước và phải triển khai thường xuyên với quy mô và mức độ khác nhau, để kịp thời bổ sung những thông tin nhu cầu về những nghề mới với quy mô và trình độ phù hợp. Nhu cầu sử dụng lao động thanh niên chính là “đầu ra” của đào tạo, qua đó có thể biết được cần đào tạo những nghề gì với trình độ nào.

Thứ hai, đồng thời với việc nắm thông tin về nhu cầu sử dụng lao động thanh niên, cần thiết phải khảo sát nhu cầu học nghề của đối tượng, nghĩa là cần có sự phân nhóm đối tượng để tổ chức các khoá đào tạo phù hợp. Vì vậy, có thể có những đối tượng chỉ có thể tham gia được các khoá đào tạo ngắn hạn, nhưng cũng có nhóm đối tượng (ví dụ từ 16- 24 tuổi) có thể và có điều kiện tham gia các khoá đào tạo dài hạn. Mặt khác, cần thiết phải phân các nhóm đối tượng trên trình độ học vấn, đối với những người có trình độ học vấn thấp, họ có thể theo học các khoá dạy nghề ngắn hạn (sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên). Ngược lại, đối với những người có học vấn cao hơn (THCS, THPT…) có đủ điều kiện có thể theo các khoá học nghề ở trình độ trung cấp hoặc cao đẳng nghề. Hơn nữa, cũng phải khảo sát đặc điểm và thói quen canh tác của thanh niên ở các vùng miền khác nhau để có thể có các hình thức đào tạo phù hợp.

* Xác định ngành nghề đào tạo cho thanh niên

Dựa trên kết quả điều tra nhu cầu sử dụng LĐTN (lao động thanh niên) qua ĐTN (đào tạo nghề) và nhu cầu của các đối tượng TN (thanh niên) học nghề, trên cơ sở phân tích các yếu tố về KT – XH, đặc điểm của TN theo từng vùng miền và từng thời điểm khác nhau để xác định ngành nghề đào tạo của TN, nhằm tạo cơ hội tìm được việc làm bao gồm cả việc làm tự tạo và việc làm nhận lương, làm công. Củng cố và hoàn thiện công tác ĐTN các ngành truyền thống trong lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển NT đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội và nâng cao đời sống của TNNT như: các ngành trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng và nuôi trồng thủy sản. Các nghề này sẽ được tập trung cho các đối tượng là TNNT với định hướng ở lại NT làm NN. Do vậy, hình thức đào tạo trước mắt chủ yếu vẫn sẽ là sơ cấp và dạy nghề thường xuyên nhằm nâng cao tay nghề, chuyên môn kĩ thuật cao đối với từng chuyên ngành h p. Tuy nhiên, cần lưu ý NN sẽ dần tiến lên hiện đại và TNNT cũng cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp hơn trong dài hạn.

Do kiến thức, kĩ năng và hiểu biết của thanh niên từ trước đến nay về lĩnh vực nghề phi NN này còn khá hạn chế, nên cần có hình thức tổ chức đào tạo đặc thù, tốt nhất là gắn với mạng lưới các ngành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ tại các địa phương (đào tạo tại cơ sở sản xuất kinh doanh).

Tại những vùng mà các hoạt động phi NN này chưa phát triển cần có nghiên cứu phát triển mạng lưới sản xuất kinh doanh này trước nhằm mục tiêu phát triển KT – XH địa phương một cách tổng thể, cân đối, hiệu quả và đúng định hướng. Tập trung đào tạo ngành nghề phi NN, đặc biệt là các ngành nghề mang tính phục vụ và hỗ trợ cho sản xuất CN và dịch vụ như: chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, tiểu thủ CN, dịch vụ NN… Các nghề này được đào tạo cho TN ở lại nông thôn làm các nghề sản xuất phi NN. Ngoài ra, việc khôi phục lại các làng nghề tại các địa phương, thu hút TN tham gia vào học nghề và sống được với các nghề truyền thống là một trong những yếu tố chuyển đổi TN lao động NN sang TN lao động phi NN

* Lựa chọn phương thức ĐTN cho TNNT

Để nâng cao hiệu quả đào tạo, việc tổ chức các khoá học với các hình thức và phương thức khác nhau đối với TN rất quan trọng (khái quát lại là các mô hình ĐTN). ĐTN cho TN có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như dạy tại các cơ sở dạy nghề; ĐTN theo đơn đặt hàng của các tập đoàn, Tổng công ty; ĐTN lưu động (tại các xã, thôn); ĐTN tại doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ; ĐTN gắn với các vùng chuyên canh, làng nghề;… Phương thức đào tạo cũng cần phải đa dạng hoá, phù hợp với từng nhóm đối tượng và điều kiện của từng vùng, miền…, như đào tạo tập trung tại CSDN đối với những TN chuyển đổi nghề nghiệp (trung tâm dạy nghề, trường trung cấp, CĐ nghề, các trường khác có tham gia dạy nghề…); ĐTN lưu động cho TN làm nông dân hiện đại tại các làng, xã, thôn; ĐTN tại nơi sản xuất, tại hiện trường.

Đối với nhóm đối tượng TN đào tạo để có thể làm nông nghiệp hiện đại, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, TN làm việc theo mùa vụ, nên các khoá đào tạo cần gắn với vừa học, vừa làm việc của TN, hoặc phải lựa chọn thời gian nông nhàn của TN để tổ chức khoá học cho phù hợp. Mặt khác, do tính đa dạng của vật nuôi, cây trồng nông nghiệp, khoá học nên được tổ chức gắn với thời kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng. Điều này đòi hỏi việc xây dựng chương trình đào tạo phải rất linh hoạt và khoa học.

Ngoài ra, đối với TN định hướng sẽ chuyển hẳn ra các khu vực thành thị với các công việc trong CN, kinh doanh, dịch vụ… cũng cần được quan tâm ĐTN một cách bài bản. Các ngành nghề đào tạo, nội dung, phương pháp thực hiện cần được nghiên cứu kĩ và áp dụng sao cho phù hợp với cả phía sử dụng TN và TN tham gia học nghề. Hình thức này cần phối hợp cả ngắn và dài hạn hoặc định kỳ để đáp ứng yêu cầu về mặt thời gian và tài chính của người đi học nghề do nhóm đối tượng này thường bị ràng buộc khá chặt chẽ về các vấn đề này. Nên đặc biệt chú ý đến hình thức đào tạo tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… để có thể tạo điều kiện đáp ứng yêu cầu của cả LĐTN và người sử dụng LĐTN. Cần nghiên cứu đề ra các biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động đào tạo kiểu này nhằm đảo bảo tính hiệu quả và bền vững đồng thời tạo sự bảo đảm nhất định cho LĐTN sau khi được ĐTN.

* Đánh giá kết quả ĐTN

Trong hoạt động đầu tư vào vốn con người, đặc biệt khi đầu tư vốn con người vào TN (Hỗ trợ ĐTN cho TN), khi chúng ta đầu tư, hỗ trợ cho TN học nghề đúng thời điểm, đúng giai đoạn thì hiệu quả mang lại kết quả cao. Nếu lao động thanh niên được ĐTN sớm và đúng độ tuổi khi đó lao động thanh niên sẽ sớm nhận được kiến thức kỹ năng lúc trẻ, điều đó giúp cho kết quả đào tạo TNNT tự tạo ra việc làm, tăng năng suất trong hoạt động nghề nghiệp, cải tiến kỹ thuật và quản lý hiệu quả hơn. Việc đánh giá kết quả ĐTN có thể tập trung ở hai tiêu chí cơ bản sau:

Chất lượng ĐTN: Là tiêu chí đánh giá khó khăn, không thể trực tiếp đo đếm được và cảm nhận được. Chất lượng ĐTN phản ánh trạng thái ĐTN nhất định và trạng thái đó thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Sẽ không thể biết được chất lượng ĐTN nếu chúng ta không đánh giá thông qua một hệ thống các chỉ tiêu và các yếu tố ảnh hưởng. Tiêu chí chất lượng ĐTN là để chỉ chất lượng các TN được đào tạo trong hệ thống GDNN theo mục tiêu và chương trình đào tạo xác định trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, biểu hiện một cách tổng hợp nhất ở mức độ chấp nhận của thị trường LĐ, của xã hội đối với kết quả ĐTN.

Việc làm sau ĐTN: Kết quả của ĐTN cho TN là tạo cho họ có một nghề để có thể tự tạo việc làm trong nông nghiệp (tăng năng suất LĐ) hoặc tìm được việc làm phi nông nghiệp (ở nông thôn hoặc ngoài nông thôn). Nói cách khác, kết quả của việc ĐTN cho TN là đào tạo gắn với giải quyết việc làm cho TN. Đây là vấn đề cốt lõi đối với ĐTN cho TN, nhất là đối với nhóm TN cần phải chuyển sang làm trong lĩnh vực phi Nông nghiệp, công nghiệp. Nếu không gắn được với việc làm thì TN sẽ không tham gia học nghề nữa và nguồn lực xã hội sẽ bị lãng phí. Do đó, trong quá trình ĐTN rất cần thiết có sự kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất để họ một mặt tham gia vào quá trình đào tạo; mặt khác có thể tạo cơ hội cho người học được tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp từ khi còn học và sau khi học nghề xong là có thể làm việc được ngay với nghề nghiệp của mình.

    1. 1.3. Sự cần thiết khách quan của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phục vụ cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nhà nước không chỉ là người khởi xướng, tiên phong trong mọi hoạt động, mà còn phải là người dẫn dắt, điều hành chung trong suốt quá trình đó. Có thể nói, vai trò của nhà nước là vai trò của một nhạc trưởng trong một dàn nhạc mà mỗi nhạc công là một lĩnh vực kinh tế – xã hội. Nói đến điều này để thấy rằng, vai trò của nhà nước không thể thiếu trong hoạt động kinh tế – xã hội nói chung và trong vai trò hoạch định chính sách nói riêng.

Nhà nước là chủ thể quản lý xã hội, quản lý chung mọi hoạt động kinh tế – xã hội, trong đó có hoạch định chính sách về ĐTN cho thanh niên. Nhà tạo cơ chế và thông qua các chính sách nhà nước tận dụng mọi nguồn lực để ĐTN, tạo việc làm cho người lao động. Chỉ có nhà nước mới có thể “hợp chuẩn hóa” các quy trình, thủ tục trong quá trình quản lý đào tạo nghề cho người lao động. Để quản lý nhà nước sử dụng các công cụ như: các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, các biện pháp điều chỉnh… Thông qua việc ban hành các thể lệ, chính sách và giám sát việc thực thi các chính sách, các văn bản pháp luật, nhà nước đã tạo thị trường lao động để giải quyết việc làm cho người lao động. Ngoài tầm quan trọng xuất phát từ vị trí của nhà nước, việc cần thiết phải hoạch định chính sách đào tạo nghề cho TN còn xuất phát từ nhiều lý do khác nhau.

Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của thanh niên. Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc. Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên, ban hành Luật Thanh niên, đã khẳng định vai trò to lớn của thanh niên, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để các cấp, các ngành và mỗi công dân chăm lo bồi dưỡng, giáo dục và phát huy những tiềm năng to lớn của thanh niên.

Thứ hai, xuất phát từ tầm quan trọng của chính công tác tạo việc làm cho TN hiện nay. Hiện nay, khái niệm “thất nghiệp” được nhắc đến nhiều, số lượng việc làm cũng bị giảm xuống rất nhiều, trong khi đó, số người trong độ tuổi lao động ngày một tăng. Do đó áp lực về việc làm là rất lớn đối với người lao động. Nói như vậy không phải là hiện nay chúng ta đang thiếu việc làm. Ngược lại, các khu công nghiệp được xây dựng, các nhà máy ra đời, và các doanh nghiệp nước ngoài đổ xô vào đầu tư ở Việt Nam ngày một nhiều, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Tóm lại, hoạch định chính sách về ĐTN cho thanh niên là một tất yếu khách quan. Nó góp phần giải quyết lao động là thanh niên, góp phần nâng cao mức thu nhập cho người dân, giảm thiểu tệ nạn xã hội… đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

    1. 1.4. Vai trò của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Đảng ta luôn xác định thanh niên là đội hậu bị của Đảng, đánh giá cao vai trò của thanh niên trong quá khứ cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay. Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo cho thanh niên, những người chủ tương lai của nước nhà luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Trong công tác thanh niên, bên cạnh việc giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh, lập trường thi vấn đề đào tạo, bồi dưỡng về tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, tạo việc làm cho thanh niên là nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi lẽ có việc làm, lao động mang lại thu nhập mới đảm bảo đời sống cho thanh niên, là điều kiện cần thiết cơ bản để thanh niên tiếp tục rèn luyện, phấn đấu, vươn lên, cống hiến ngày càng nhiều hơn cho Tổ quốc. Thực trạng tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm, việc làm không ổn định còn diễn ra gay gắt trong thanh niên, nhất là đối với thanh niên nông thôn hiện nay càng yêu cầu Nhà nước phải thể chế hóa đường lối của Đảng về công tác thanh niên thành các cơ chế, chính sách cụ thể, đặc biệt trong lĩnh vực giải quyết việc làm.

Bên cạnh đó, để đáp ứng tốt nguồn nhân lực cho thực tế xã hội, Nhà nước quản lý chương trình và nội dung đào tạo khuyến khích các cơ sở đào tạo chuẩn hoá chương trình và đẩy lên ngang tiêu chuẩn quốc tế, có tác dụng giúp cho việc hội nhập khu vực và thế giới được thuận lợi hơn, đáp ứng được nhu cầu việc làm tại các nước. Việc đào tạo nghề, định hướng nghề cho TN còn có ý nghĩa quan trọng để định ra nội dung và đặc điểm đào tạo. Nếu đào tạo nghề cho TN mà không đáp ứng được nhu cầu thực tế, không nắm bắt được nhu cầu theo từng vùng lãnh thổ có nghĩa là không đáp ứng được nhu cầu giải quyết việc làm cho mỗi vùng cũng như các doanh nghiệp. Việc xác định được cơ cấu đào tạo nghề phù hợp sẽ tránh được sự mất cân bằng cung – cầu. lao động trên thị trường, không gây lãng phí nguồn lực của xã hội. Đồng thời, qua các hình thức đào tạo nghề tập trung cho đối tượng lao động trẻ có thể đáp ứng được yêu cầu của sản xuất – kinh doanh và làm việc tại địa phương; đồng thời giúp cho TN định hướng được nghề nghiệp và tự tạo việc làm và chủ động tìm kiếm việc làm.

Một thực trạng hiện nay trong công tác triển khai chính sách về đào tạo nghề cho TN, đó là xảy ra tình trạng trùng lắp, chồng chéo các chính sách. Tình trạng này đã dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực, hiệu quả đầu tư và ở một khía cạnh nào đó gây nên sự mất cân đối, bất bình đẳng giữa các vùng, các địa phương. Để khắc phục tình trạng này, cần tăng cường phối hợp công tác giữa chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp tham gia vào ĐTN cho TN nhằm điều tiết các nguồn lực, tối đa hóa hiệu quả đầu tư, đồng thời đảm bảo cân đối giữa các vùng, miền trong quá trình phát triển. Trong sự phối hợp này, cơ quan QLNN phải đóng vai trò cơ quan điều phối, điều tiết nỗ lực hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Muốn tạo động lực và sự thoả mãn nhu cầu cho TN làm việc có hiệu quả ngay tại địa phương, Nhà nước đã và đang đưa ra các biện pháp đảm bảo các nhu cầu về việc làm và thu nhập, việc học tập nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nghề nghiệp, nhu cầu về hoạt động văn thể, chăm lo sức khỏe, tinh thần, vui chơi, giao tiếp…

    1. 1.5. Nội dung Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu lý luận và thực tiễn cũng như tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình thực hiện chính sách về đào tạo nghề cho TN, người viết nghiên cứu nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, ban hành và tổ chức thực hiện các chiến lược, chính sách, chương trình đào tạo nghề cho thanh niên.

Nghiên cứu, dự báo và lập kế hoạch về tình hình đào tạo nghề và đào tạo làm cho TN; rà soát các văn bản pháp luật có liên quan đến chính sách về ĐTN cho TN để điều chỉnh, bổ sung, đồng thời tiếp tục banhành cơ chế, chính sách về đào tạo nghề, định hướng nghề nghiệp cho TN.

Ban hành và thực hiện các chương trình, dự án, trong đó có lồng ghép mục tiêu đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động ở các địa phương triển khai dự án, trong đó, lực lượng lao động chủ yếu là TN.

Ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho thanh niên, tổ chức của thanh niên làm chủ các công trình, dự án có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước với những điều kiện ưu đãi nhất định. Có thể nói đến các chính sách cụ thể như sau:

Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 nhấn mạnh “Thực hiện tốt chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất là lao động nghèo; ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở trường, lớp học, thiết bị, đào tạo giáo viên dạy nghề; gắn dạy nghề với tạo việc làm đối với lao động nghèo”. Như vậy, có thể xác định vấn đề của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên là tạo cơ hội để thanh niên tham gia các hình thức đào tạo nghề ngắn hạn, dài hạn phù hợp thông qua các cơ sở đào tạo nghề, truyền nghề truyền thống. Sau khi thanh niên có nghề thì cơ hội tìm kiếm việc làm trở nên dễ dàng hơn và từng bước vươn lên ổn định cuộc sống. Để giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, cho thành niên nói riêng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đó việc tái cơ cấu lại nền kinh tế tăng trưởng theo hướng phát triển hợp lý cả chiều rộng và chiều sâu sẽ góp phần tăng cơ hội việc làm, hướng tới việc làm bền vững với giá trị tăng cao.

Bên cạnh các chính sách của Nhà nước, thành phố Đà nẵng ban hành nhiều các chính sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (trong đó có đào tạo nghề) như: Quyết định 5882/QĐ-UBND ngày 23/7/2012 về việc Phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực thành phố Đà nẵng giai đoạn 2011-2020; Quyết định 31/2016/QĐ-UBND ngày 10/10/2016 quy định chính sách hỗ trợ học nghề đối với lao động thuộc diện chính sách, xã hội trên địa bàn thành phố Đà nẵng. Các chính sách có mức hỗ trợ cụ thể như: Đối với chính sách hỗ trợ học nghề ngắn hạn (sơ cấp nghề), chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn, lao động nông nghiệp, nông thôn thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, người khuyết tật sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khóa học; hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày thực học/người (mức tối đa không quá 450.000 đồng/người/tháng); hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên. Đối với lao động nông nghiệp, nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học. Đối với lao động nông nghiệp, nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khóa học. Đối với học nghề dài hạn (trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề), lao động nông nghiệp, nông thôn được vay để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Ngoài ra, lao động nông nghiệp, nông thôn là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo và hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo tham gia học trung cấp nghề, cao đẳng nghề được hưởng chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú.

Đối với đối tượng thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất (bao gồm: lao động trong các hộ thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất; học sinh trong các hộ thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất; hộ gia đình thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất) sẽ được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề). Theo đó, sẽ hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khóa học; hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày thực học/người (mức tối đa không quá 450.000 đồng/người/tháng); hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên. Bên cạnh đó, thành phố sẽ hỗ trợ học phí cho con của các hộ nông dân (nông, lâm, ngư nghiệp) thuộc diện thu hồi đất sản xuất, di dời, giải tỏa phải chuyển đổi ngành nghề đang học văn hoá tại các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, bao gồm các loại hình công lập và ngoài công lập trên địa bàn thành phố: Hỗ trợ 100% học phí trong thời hạn 03 năm cho các hộ thuộc diện thu hồi từ 50% diện tích đất sản xuất trở lên; Hỗ trợ 50% học phí trong thời hạn 03 năm cho các hộ thuộc diện thu hồi dưới 50% diện tích đất sản xuất. Mức học phí hỗ trợ cho học sinh đang học tại các trường ngoài công lập bằng mức học phí các trường công lập cùng địa bàn.

Đối với doanh nghiệp tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và giải quyết việc làm, thành phố sẽ hỗ trợ theo phương thức: doanh nghiệp tiếp nhận lao động là đối tượng của chính sách (lao động thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; lao động thuộc hộ nghèo; thuộc các hộ trong diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất; là người dân tộc thiểu số; là bộ đội xuất ngũ; là người khuyết tật; lao động khác) vào làm việc tại doanh nghiệp sau thời gian đào tạo theo hình thức hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên hoặc hợp đồng lao động không xác định thời hạn, được hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề ngắn hạn bằng 500.000 đồng/người/tháng, thời gian hỗ trợ không quá 3 tháng cho một khóa đào tạo.

Đối với việc hỗ trợ học nghề trình độ sơ cấp đối với lao động thuộc diện chính sách, xã hội trên địa bàn thành phố, chính sách mới sẽ hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề) với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khóa học. Riêng lao động thuộc hộ nghèo còn được hỗ trợ tiền ăn và tiền đi lại với mức 15.000 đồng/ngày thực học/người (mức tối đa không quá 450.000 đồng/người/tháng); hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên. …

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\CHINH SACH CONG\HOANG TRAN CHAU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *