Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn

Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu

Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực phẩm là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng và năng lượng chủ yếu để con người duy trì sự sống và các hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Thực phẩm an toàn đóng góp to lớn trong việc cải thiện sức khoẻ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng giống nòi. Bên cạnh đó, thực phẩm cũng chính là nguồn truyền bệnh nguy hiểm, nếu như không bảo đảm được vệ sinh và an toàn. Ngộ độc thực phẩm và các bệnh do thực phẩm gây ra không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ và cuộc sống của mỗi người, mà còn gây thiệt hại lớn về kinh tế, là gánh nặng chi phí cho chăm sóc sức khoẻ của mỗi quốc gia. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hiện có hơn 400 các bệnh lây truyền qua thực phẩm không an toàn, hơn 1/3 dân số các nước phát triển bị ảnh hưởng của các bệnh do thực phẩm gây ra mỗi năm.

Vì vậy, việc tiếp cận với thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối với mỗi con người và an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề đang rất được quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong thời gian qua, các vấn đề liên quan đến đảm bảo ATTP đã được đặt lên hàng đầu tại nhiều hội nghị quốc tế về y tế, chăm sóc sức khỏe, các diễn đàn về lương thực, thực phẩm xanh, an toàn. Ở nước ta hiện nay, chất lượng vệ sinh ATTP là một hiện tượng đáng báo động, điều này đã được các phương tiện thông tin đại chúng liên tục phản ánh với nhiều kênh thông tin và nội dung phức tạp, những mối nguy hại từ thực phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đời sống của người dân. Việc sử dụng các sản phẩm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc tăng trọng, kháng sinh, hóa chất không an toàn, không đúng quy định trong các lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, thủy hải sản trên cả nước chưa được quản lý chặt chẽ, một số nơi còn buông lỏng quản lý nhà nước trên lĩnh vực an toàn thực phẩm; các loại thực phẩm không rõ nguồn gốc, có chứa các hóa chất, phụ gia, chất bảo quản, phẩm màu công nghiệp có hại cho sức khỏe vẫn còn lưu hành rất nhiều trên thị trường… đang là vấn nạn thật sự nhức nhối, nguy hại trực tiếp đến sức khỏe của mỗi người dân. Cùng với tình trạng vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm đang tăng cao thì các bệnh lây truyền qua thực phẩm và ngộ độc thực phẩm đang có nhiều diễn biến phức tạp về cả tính chất, mức độ và phạm vi ảnh huởng. Theo báo cáo kết quả công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của Ban Chỉ đạo liên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm Trung ương, riêng năm 2017, các ngành chức năng tiến hành kiểm tra 625.060 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, qua đó phát hiện 123.914 cơ sở vi phạm, chiếm tỷ lệ 19,8%, xử lý hành chính 35.759 cơ sở với số tiền trên 61 tỷ đồng. Cả nước ghi nhận 139 vụ ngộ độc thực phẩm với 3.869 người mắc; số người tử vong do ngộ độc thực phẩm là 24 người.

Trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng hiện nay có hơn 5.000 cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm và dịch vụ ăn uống phục vụ cho dân cư của quận, thành phố và khách du lịch. Vì vậy, vấn đề ATTP là mối quan tâm hàng đầu, luôn được các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện thường xuyên, liên tục, trong đó nhấn mạnh vai trò của mỗi tổ chức, cá nhân liên quan là hết sức quan trọng. Để góp phần làm giảm nguy cơ mất vệ sinh ATTP thì mỗi tổ chức, mỗi gia đình, mỗi cá nhân trên địa bàn quận cần tích cực tham gia thực hiện chính sách đảm bảo ATTP, chấp hành các quy định của pháp luật về đảm bảo ATTP nhằm góp phần bảo vệ sức khoẻ cho bản thân, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả đảm bảo ATTP đó là công tác quản lý nhà nước của quận trên lĩnh vực ATTP và nâng cao ý thức của người dân trong tham gia công tác đảm bảo ATTP, đây là những nhiệm vụ hết sức cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Nhằm đánh giá đúng tình hình thực hiện chính sách đảm bảo ATTP trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, để từ đó đưa ra giải pháp đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn quận, tôi nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng” thực sự có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Bởi lẽ, việc nghiên cứu này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách đảm bảo ATTP, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế – xã hội trọng tâm của quận, đặc biệt là công tác an sinh xã hội hướng đến mục tiêu cuối cùng là bảo vệ và nâng cao chất lượng đời sống của người dân.

  1. Tình hình nghiên cứu đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện chính sách an toàn thực phẩm; phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảm bảo an toàn thực phẩm ở quận Hải Châu trong thời gian tới.

    1. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Làm rõ cơ sở lý luận, lý thuyết về an toàn thực phẩm và thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm ở Việt Nam, qua đó thống nhất về mặt lý thuyết phục vụ công tác nghiên cứu.

– Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đảm bảo ATTP trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

– Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách đảm bảo ATTP của nước ta hiện nay từ thực tiễn của quận Hải Châu và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đảm bảo ATTP của quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    1. Đối tượng nghiên cứu

Chính sách đảm bảo ATTP, trọng tâm là các giải pháp và công cụ thực hiện chính sách đảm bảo ATTP nhìn từ góc độ khoa học chính sách công.

    1. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi không gian: Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

– Phạm vi thời gian: từ năm 2016 đến nay.

  1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
    1. Cơ sở lý luận

Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và vận dụng triệt để phương pháp luận nghiên cứu chính sách công, đó là cách tiếp cận quy phạm về quy trình thực hiện chính sách công.

    1. Các phương pháp cụ thể

Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp với các phương pháp như: so sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích đánh giá chính sách để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ đặt ra.

  1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
    1. Ý nghĩa lý luận

– Góp phần làm rõ hơn, minh chứng cũng như hoàn thiện các lý thuyết liên quan đến chính sách công nói chung và lý luận về chính sách đảm bảo ATTP nói riêng.

– Góp phần cung cấp những căn cứ cho lý luận từ thực tiễn vận dụng các lý thuyết chính sách công trong thực hiện chính sách đảm bảo ATTP nói chung và trường hợp quận Hải Châu nói riêng.

    1. Ý nghĩa thực tiễn

– Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho các cơ quan, ban ngành hữu quan của quận Hải Châu trong quá trình thực thi chính sách đảm bảo ATTP trên địa bàn quận nhằm thực hiện một cách hiệu quả công tác này trong thời gian tới, qua đó góp phần phát triển kinh tế – xã hội bền vững của quận.

– Luận văn có thể được sử dung làm tài liệu tham khảo cho những tổ chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề đảm bảo ATTP và thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm hiện nay.

  1. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết tắt, luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Phương hướng và các giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn quận Hải Châu giai đoạn 2018-2020.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO AN TOÀN THỰC PHẨM

    1. Một số khái niệm cơ bản
      1. Thực phẩm

Thực phẩm hay còn được gọi là thức ăn là bất kỳ vật phẩm nào, bao gồm chủ yếu các chất: đường bột (cacbohydrat), chất béo (lipid), chất đạm (protein), hoặc nước, mà con người hay động vật có thể ăn hay uống được, với mục đích cơ bản là thu nạp các chất dinh dưỡng nhằm nuôi dưỡng cơ thể hay vì sở thích ăn uống [1].

Theo Điều 2, Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 được Quốc hội (khóa XII) thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 định nghĩa: “Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản”, thực phẩm bao gồm các loại:

– Thực phẩm tươi sống là thực phẩm chưa qua chế biến bao gồm thịt, trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ, quả tươi và các thực phẩm khác chưa qua chế biến.

– Thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là thực phẩm được bổ sung vitamin, chất khoáng, chất vi lượng nhằm phòng ngừa, khắc phục sự thiếu hụt các chất đó đối với sức khỏe cộng đồng hay nhóm đối tượng cụ thể trong cộng đồng.

– Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của cơ thể con người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm bớt nguy cơ mắc bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học.

Luật cũng định nghĩa một số loại thực phẩm đặc biệt và cụ thể trong một số trường hợp như sau:

– Thực phẩm biến đổi gen là thực phẩm có một hoặc nhiều thành phần nguyên liệu có gen bị biến đổi bằng công nghệ gen.

– Thực phẩm đã qua chiếu xạ là thực phẩm đã được chiếu xạ bằng nguồn phóng xạ để xử lý, ngăn ngừa sự biến chất của thực phẩm.

– Thức ăn đường phố là thực phẩm được chế biến dùng để ăn, uống ngay, trong thực tế được thực hiện thông qua hình thức bán rong, bày bán trên đường phố, nơi công cộng hoặc những nơi tương tự.

– Thực phẩm bao gói sẵn là thực phẩm được bao gói và ghi nhãn hoàn chỉnh, sẵn sàng để bán trực tiếp cho mục đích chế biến tiếp hoặc sử dụng để ăn ngay.

Bên cạnh việc xác định rõ thế nào là thực phẩm thì khái niệm liên quan đến ATTP cũng được đưa ra.

      1. An toàn thực phẩm

ATTP hiểu theo nghĩa hẹp là một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp mang tính phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. ATTP cũng bao gồm một số thói quen, thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm năng nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, ATTP là toàn bộ những vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. [2]

Ở Việt Nam, Luật An toàn thực phẩm năm 2010 hiện nay quy định: “ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người”.

      1. Chính sách của Nhà nước về ATTP

Chính sách của Nhà nước về ATTP là chính sách công bao gồm tập hợp các quyết định quản lý của Nhà nước về bảo đảm ATTP nhằm đưa ra các mục tiêu, giải pháp và công cụ thực hiện chính sách để giải quyết các vấn đề về ATTP, đảm bảo chất lượng của thực phẩm theo đúng quy chuẩn quy định với mục đích cuối cùng là thực phẩm không gây hại đến sự an toàn cho người tiêu dùng.

Chính sách của Nhà nước về ATTP được cụ thể hóa tại Luật An toàn thực phẩm năm 2010, trong đó, Điều 4 của Luật xác định rõ chính sách của Nhà nước về ATTP bao gồm các nội dung sau:

– Xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể về bảo đảm ATTP, quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên.

– Sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực khác đầu tư nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ phục vụ việc phân tích nguy cơ đối với ATTP; xây dựng mới, nâng cấp một số phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn khu vực, quốc tế; nâng cao năng lực các phòng thí nghiệm phân tích hiện có; hỗ trợ đầu tư xây dựng các vùng sản xuất nguyên liệu thực phẩm an toàn, chợ đầu mối nông sản thực phẩm, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm quy mô công nghiệp.

– Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất thực phẩm chất lượng cao, bảo đảm an toàn; bổ sung vi chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm; xây dựng thương hiệu và phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn.

– Thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức thực hiện lộ trình bắt buộc áp dụng hệ thống Thực hành sản xuất tốt (GMP), Thực hành nông nghiệp tốt (GAP), Thực hành vệ sinh tốt (GHP), Phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) và các hệ thống quản lý ATTP tiên tiến khác trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

– Mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ký kết điều ước, thoả thuận quốc tế về công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực thực phẩm.

– Khen thưởng kịp thời tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn.

– Khuyến khích, tạo điều kiện cho hội, hiệp hội, tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào các hoạt động xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm ATTP.

– Tăng đầu tư, đa dạng các hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức người dân về tiêu dùng thực phẩm an toàn, ý thức trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với cộng đồng.

    1. Quy trình thực hiện chính sách đảm bảo ATTP

Thực hiện chính sách ATTP là một trong những giai đoạn quan trọng trong chu trình chính sách ATTP. Đây là giai đoạn vận dụng những giải pháp định trước để đạt được các mục tiêu chính sách ATTP đã đề ra; chính trong giai đoạn này, chính sách được biến thành kết quả trên thực tế. Giai đoạn thực hiện chính sách ATTP tập hợp các hoạt động triển khai, phối hợp thực hiện, kiểm tra đôn đốc và theo dõi, đánh giá hiệu quả của các biện pháp tổ chức thực hiện chính sách ATTP nhằm phát huy tác dụng của mục tiêu chính sách ATTP trong đời sống.

Thực hiện chính sách đảm bảo ATTP bao gồm các bước sau: [19]

      1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách ATTP

Để chính sách đảm bảo ATTP được thực hiện hiệu quả thì việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách là bước đầu tiên trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Đây là một quá trình phức tạp, cần một thời gian dài để thực hiện, vì thế việc lập kế hoạch cụ thể, chi tiết trước khi áp dụng chính sách vào thực tiễn sẽ giúp các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động theo lộ trình, mục tiêu cụ thể. Các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện với các nội dung sau:

Một là, lập kế hoạch tổ chức điều hành: Căn cứ vào các văn bản quy định của Nhà nước về việc phân công, phân cấp thẩm quyền quản lý về ATTP thì các Bộ, ngành có liên quan như: Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp phát triển và Nông thôn… xây dựng kế hoạch quản lý, thực hiện các công tác liên quan đến ATTP thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách và chỉ đạo thực hiện xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Theo đó, căn cứ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và tình hình thực tế thì từng địa phương sẽ xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện công tác đảm bảo ATTP trên địa bàn.

Hai là, lập kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực: các đơn vị căn cứ kế hoạch tổ chức điều hành và các nội dung công việc cần thực hiện để xây dựng kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực dự kiến đảm bảo việc thực hiện kế hoạch gồm các nội dung về: cơ sở vật chất, trang thiết bị kĩ thuật, nguồn lực tài chính, và quan trọng nhất là nguồn nhân lực… Việc dự kiến đúng và đầy đủ các nguồn lực tham gia quá trình thực hiện chính sách sẽ giúp chính sách đạt được hiệu quả và kết quả cao hơn.

Ba là, đề xuất thời gian triển khai thực hiện: Khi xây dựng chính sách thì cần xác định thời gian thực hiện chính sách cụ thể để đạt được mục tiêu chính sách đảm bảo ATTP đề ra trong kế hoạch tổ chức điều hành. Và khi dự kiến thời gian thực hiện chính sách thì việc thực hiện chính sách được chia thành nhiều giai đoạn thực hiện, mỗi giai đoạn sẽ dựa trên tình hình thực tế tại từng thời điểm để xây dựng kế hoạch cho phù hợp với một chương trình cụ thể của chính sách đảm bảo ATTP, thời gian dự kiến hoàn thành của từng giai đoạn để đạt được mục tiêu nhất định đều được xác định rõ ràng, cụ thể từ việc thực hiện tuyên truyền chính sách đến tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm chính sách ATTP.

Bốn là, lập kế hoạch kiểm tra việc thực hiện chính sách: sau khi dự kiến thời gian triển khai thực hiện thì cần xây dựng kế hoạch kiểm tra việc thực hiện chính sách ATTP, đảm bảo chính sách được thực hiện đúng tiến độ theo kế hoạch đề ra. Việc xây dựng kế hoạch kiểm tra việc thực hiện chính sách ngoài mục đích đặt ra là kiểm tra về tiến độ thì còn xác định hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách nhằm kịp thời phát hiện những tồn tại hạn chế, khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách, từ đó điều chỉnh phương pháp thực hiện chính sách đảm bảo hoàn thành mục tiêu chính sách đề ra; đồng thời phục vụ việc theo dõi, đánh giá, tổng kết việc triển khai thực hiện chính sách.

Năm là, dự kiến nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách đảm bảo ATTP bao gồm các nội quy, quy chế về: tổ chức, điều hành; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước có liên quan tham gia thực hiện chính sách; các biện pháp về thi đua, khen thưởng, kỷ luật…

Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách ATTP đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và xác định những nội dung cần thiết cho quá trình thực hiện chính sách ATTP. Sau khi áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, những nội dung phù hợp cần tăng cường áp dụng triển khai, những điểm không phù hợp trong chính sách cần phải được điều chỉnh hoặc loại bỏ khỏi mục tiêu chính sách. Và chính cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch sẽ thực hiện điều chỉnh kế hoạch thực hiện để chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn hơn.

      1. Phổ biến, tuyên truyền chính sách

Chính sách đảm bảo ATTP là một chính sách quan trọng và hết sức cần thiết trong bối cảnh tình hình ATTP hiện nay. Đối tượng chính mà chính sách ATTP hướng đến là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và toàn thể nhân dân – những người tiêu dùng thực phẩm. Một khi kế hoạch triển khai thực hiện chính sách được ban hành thì việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền nội dung chính sách đến các đối tượng mà chính sách ATTP tác động, từ đó vận động các đối tượng cùng tham gia thực hiện tốt các nội dung chính sách đề ra. Đây là một bước hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn, tác động trực tiếp đến kết quả thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách đảm bảo ATTP nhằm hai mục đích cơ bản:

Một là, giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực hiện hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhiều vấn nạn về ATTP đang xảy ra hiện nay; về tính hiệu quả, tính khả thi của chính sách để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước.

Hai là, giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô, ý nghĩa, vai trò của chính sách ATTP đối với đời sống xã hội để chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách ATTP theo nhiệm vụ, chức trách được giao và tích cực tìm kiếm và đề xuất các giải pháp thích hợp để thực hiện tốt mục tiêu chính sách.

Việc tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách đảm bảo ATTP cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, xuyên suốt trong cả quá trình thi hành chính sách, để mọi đối tượng cần được tuyên truyền luôn củng cố lòng tin vào chính sách và tích cực tham gia thực hiện chính sách. Phụ thuộc vào từng giai đoạn khác nhau của kế hoạch thực hiện chính sách thì tần suất và hình thức tuyên truyền sẽ được lựa chọn và điều chỉnh sao cho phù hợp nhất.

Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách được thực hiện bằng nhiều hình thức như:

– Trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng tiếp nhận: đối với việc tuyên truyền chính sách đảm bảo ATTP thì có thể áp dụng hình thức tuyên truyền tại các chợ truyền thống, qua đó có thể trao đổi trực tiếp với các tiểu thương kinh doanh thực phẩm, hướng dẫn, phổ biến những điều nên làm và không nên làm trong việc kinh doanh mặt hàng thực phẩm. Ngoài ra, có thể tuyên truyền, phổ biến thông qua các cuộc họp cử tri, các buổi họp tại tổ dân phố; thông qua hình thức này có thể tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chính sách đến người dân – người tiêu dùng thực phẩm. Bên cạnh đó, có thể tổ chức các buổi hội nghị với thành phần tham dự là các đơn vị chuyên sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm trên địa bàn, tại hội nghị có thể phổ biến những quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm và cũng như phổ biến đến các chủ thể này ý thức việc tham gia thực hiện chính sách đảm bảo ATTP; đồng thời, tổ chức việc ký cam kết thực hiện các quy định về đảm bảo ATTP trên địa bàn quản lý.

– Phát tờ rơi, treo banner, áp phích tại các khu vực công cộng, dễ quan sát với các nội dung cơ bản về thực hiện chính sách ATTP, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện để đảm bảo các đối tượng tiếp cận nhanh chóng nắm bắt được những nội dung cần truyền đạt, từ đó hình thành ý thức tham gia thực hiện các nội dung chính sách ATTP.

– Tuyên truyền, phố biến gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, loa phát thanh…

– Ngoài những hình thức tuyên truyền, phổ biến theo hình thức truyền thống như trên, với sự bùng nổ công nghệ thông tin trong thời đại hiện nay thì việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách qua mạng internet có rất nhiều mặt thuận lợi: hình thức tuyên truyền phong phú hơn, tốc độ truyền đạt thông tin nhanh chóng hơn, sự lan tỏa thông tin được phổ biến sâu rộng hơn dẫn đến hiệu quả tuyên truyền chính sách ATTP được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi thì việc bùng nổ công nghệ thông tin cũng mang lại nhiều sự khó khăn, trở ngại trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách. Việc có quá nhiều thông tin đa chiều sẽ gây hiện tượng nhiễu thông tin, khiến cho những thông tin chính thống về chính sách ATTP cần truyền đạt đến các đối tượng ít được chú ý hơn, độ chính xác và tin cậy của thông tin không đảm bảo…; cùng với đó, việc bị thu hút quá nhiều bởi các thông tin trên mạng internet sẽ làm hạn chế hiệu quả các hình thức tuyên truyền truyền thống. Đặc biệt nghiêm trọng đó là sự tác động, chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước sử dụng công nghệ thông tin để chống phá, công kích chính sách, làm cho chính sách bị biến dạng, làm cho lòng tin của người dân về tính đúng đắn, tính hiệu quả và tính khả thi của chính sách bị giảm sút, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả thực hiện chính sách ATTP. Do đó, trong giai đoạn tuyên truyền, phổ biến chính sách cần chú trọng tăng cường đầu tư về hình thức và nội dung tuyên truyền, phổ biến chính sách, duy trì thường xuyên việc tuyên truyền, phổ biến chính sách trong suốt quá trình thực hiện chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này.

      1. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách

Bước tiếp theo trong quá trình thực hiện chính sách đó là khâu tổ chức thực hiện chính sách. Đây là khâu quan trọng nhất, có tác động trực tiếp và quyết định đến sự thành công của chính sách. Để tổ chức thực hiện chính sách đạt hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý liên quan đến lĩnh vực ATTP, các đối tượng tham gia thực hiện chính sách và tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách.

Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Việc thực hiện chính sách ATTP được triển khai trên phạm vi rộng lớn, do đó đảm bảo tính khả thi của chính sách thì cần số lượng lớn cá nhân và tổ chức tham gia thực hiện chính sách như:

– Các đối tượng tác động của chính sách: gồm các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm, chủ cơ sở dịch vụ ăn uống.

– Nhân dân: những người trực tiếp tiêu dùng thực phẩm.

– Bộ máy tổ chức thực hiện của nhà nước: cơ quan chỉ đạo và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến ATTP.

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, là cơ quan đóng vai trò tổ chức, chỉ đạo, quy định chức năng và phân công nhiệm vụ cho các Bộ, ngành liên quan trong việc tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ATTP. Vấn đề ATTP hiện đang là vấn đề “nhức nhối”, một vấn đề “nóng” của xã hội, do đó việc quản lý ATTP cần sự phối hợp của nhiều Bộ, Ban, Ngành như: Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban chỉ đạo liên ngành VSATTP Trung ương… trong đó, Bộ Y tế thường được phân công làm cơ quan chủ trì, các Bộ, Ngành còn lại thực hiện phối hợp quản lý ATTP trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được phân công. Ngoài ra, xuất phát từ thực trạng thực phẩm bẩn, kém chất lượng đang diễn ra trên phạm vi cả nước, các địa phương có sự phối hợp, hợp tác trong việc thực hiện chính sách ATTP nhằm nghiên cứu, trao đổi và lựa chọn phương pháp, công cụ chính sách và vận dụng phù hợp với tình hình thực tiễn về ATTP hiện nay.

      1. Theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách

Việc tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ATTP diễn ra trong một thời gian dài nhất định với nhiều giai đoạn khác nhau, là một quá trình có tính chất thường xuyên, liên tục, xuyên suốt trong đời sống xã hội. Để đảm bảo việc thực hiện chính sách ATTP theo đúng các phương hướng, nhiệm vụ của chính sách đã đề ra ngay từ khi ban hành và lập kế hoạch thực hiện thì cần có sự theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách. Đây là công tác được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách của các chủ thể thực thi, cụ thể như: cán bộ, công chức – những người trực tiếp thực hiện chính sách; các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm,…; từ đó, nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của các đối tượng tham gia thực hiện đảm bảo theo đúng định hướng mục tiêu chính sách đã đề ra.

Thông qua hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám sát, đơn vị chỉ đạo việc triển khai chính sách có thể kịp thời phát hiện những vấn đề còn thiếu sót trong quá trình thực hiện chính sách để kịp thời bổ sung, điều chỉnh; phát hiện ra những động thái tiêu cực, các sai phạm của các chủ thể thực hiện chính sách như sự chểnh mảng, không sát sao của các cơ quan nhà nước, cụ thể là các cán bộ, công chức trực tiếp được phân công nhiệm vụ; việc không tuân theo các quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm của các tổ chức, cá nhân… Trên cơ sở đó, đơn vị chỉ đạo sẽ kịp thời xử lý, giải quyết những tồn đọng, đôn đốc các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ như trong chính sách đã đề ra; phòng, chống các hành vi vi phạm các quy định trong thực hiện chính sách đảm bảo ATTP. Đồng thời, việc theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách còn giúp phát hiện ra những ưu điểm, những mặt tích cực trong chính sách để tiếp tục phổ biến, nhân rộng; phát hiện những chủ thể đang thực hiện tốt nhiệm vụ để kịp thời khen thưởng, khuyến khích, tiếp tục tăng cường phát huy để hoàn thành tốt mục tiêu của chính sách.

Mục đích cuối cùng của hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách đảm bảo ATTP là giúp kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách để đảm bảo chính sách bám sát thực tiễn, giải quyết được các vấn đề chính sách đặt ra một cách triệt để. Qua hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám sát, đơn vị chỉ đạo có các biện pháp để chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện mục tiêu chính sách.

      1. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Đây là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực hiện chính sách. Như đã xác định từ những bước đầu xây dựng kế hoạch, việc tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ATTP được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách, đồng thời được tổ chức thành nhiều gian đoạn khác nhau với thời gian được xác định cụ thể. Trong quá trình đó, các chủ thể xây dựng, ban hành chính sách có thể đánh giá từng giai đoạn của chính sách, hoặc đánh giá toàn bộ kết quả thực hiện khi kết thúc chính sách.

Đối tượng được xem xét đánh giá, tổng kết về công tác chỉ đạo, điều hành việc thực hiện chính sách đảm bảo ATTP là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến các địa phương được phân công phụ trách lĩnh vực ATTP. Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí như tiến độ thực hiện kế hoạch được giao, thời gian triển khai của từng giai đoạn và của toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện chính sách, có đạt được mục tiêu chính sách đã đề ra; mức độ phổ biến của chính sách đến các chủ thể thực hiện chính sách và các chủ thể khác có liên quan; đánh giá việc triển khai ý kiến chỉ đạo, cũng như ý thức chấp hành nội quy, quy chế, quy định về thực hiện chính sách của các chủ thể thực hiện chính sách.

Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước, còn xem xét, đánh giá việc thực hiện của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách đảm bảo ATTP bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách như: các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, người tiêu dùng thực phẩm… Để đánh giá kết quả thực hiện của các đối tượng này cần xét đến các yếu tố là tinh thần hưởng ứng các mục tiêu của chính sách đề ra và ý thức chấp hành những quy định về ATTP do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian nhất định.

Nói tóm lại, việc đánh giá, tổng kết chính sách cần phải đáp ứng yêu cầu vừa là thước đo cụ thể của vấn đề chính sách được đề cập, vừa phản ánh được lợi ích của đa số thành viên xã hội và được họ chấp nhận. Các tiêu chí đánh giá phương án chính sách phải đáp ứng được một số yêu cầu về: mức độ thỏa đáng; độ tin cậy; có thể hiểu được, rõ ràng, tránh phát sinh hiểu lầm; kịp thời; phù hợp với mục đích; mức độ ảnh hưởng của chính sách; độ bao quát…

    1. Điều kiện để thực hiện chính sách ATTP

– Chính sách phải khoa học, hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

– Bộ máy quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo năng lực về quản lý, điều hành thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.

– Sự quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách ATTP.

– Sự phối hợp chặt chẽ, kiên quyết của các cơ quan, đơn vị chức năng tỏng tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.

– Sự đồng tình ủng hộ và tích tham gia thực hiện chính sách của các tầng lớp nhân dân.

    1. Nguyên tắc quản lý ATTP

Tại Điều 3 của Luật an toàn thực phẩm năm 2010 quy định rõ việc quản lý ATTP cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

– Bảo đảm ATTP là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

– Sản xuất, kinh doanh thực phẩm là hoạt động có điều kiện; tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm về an toàn đối với thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh.

– Quản lý ATTP phải trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, quy định do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do tổ chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng.

– Quản lý ATTP phải được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với ATTP.

– Quản lý ATTP phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành.

– Quản lý ATTP phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

    1. Tiêu chí đánh giá việc thực hiện chính sách ATTP
  1. – Nhóm tiêu chí thứ nhất: Công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý về ATTP.
  2. – Nhóm tiêu chí thứ hai: Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông
  3. – Nhóm tiêu chí thứ ba: Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về ATTP.
  4. – Nhóm tiêu chí thứ tư: Bảo đảm an toàn thực phẩm tại các chợ, cửa hàng hàng kinh doanh thực phẩm, các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống.
  5. – Nhóm tiêu chí thứ năm: Công tác tổng kết, đánh giá, điều chỉnh phương pháp thực hiện chính sách đảm bảo ATTP.
    1. Những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện chính sách đảm bảo ATTP
      1. Các quy định của pháp luật về thực hiện đảm bảo ATTP

Xác định tầm quan trọng của chính sách đảm bảo ATTP đối với đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, sự phát triển giống nòi và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Đảng đã ban hành nhiều Chỉ thị, Kết luận chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ ATTP trong từng giai đoạn cụ thể. Nổi bật là Chỉ thị 08-CT/TW ngày 21 tháng 10 năm 2011 của Ban Bí thư (khóa XI) và Kết luận số 11-KL/TW ngày 19 tháng 01 năm 2017 của Ban Bí thư (khóa XII) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 08-CT/TW.

Trên cơ sở đó, ngày 04 tháng 01 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/QĐ-TTg về việc Phê duyệt “Chiến lược quốc gia ATTP giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030”, trong đó nêu rõ quan điểm chỉ đạo về công tác đảm bảo ATTP:

– Bảo đảm ATTP chính là bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng và sức khỏe nhân dân, là một nhiệm vụ thường xuyên cần tập trung chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, là trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm và của mỗi người dân.

– Tổ chức thực hiện đồng bộ các quy định pháp luật về ATTP, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp tiên tiến trong quản lý ATTP.

– Tăng cường công tác thông tin, truyền thông nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của người sản xuất, người tiêu dùng và toàn xã hội về giữ gìn vệ sinh, bảo đảm ATTP.

– Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ATTP:

+ Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010.

+ Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09 tháng 5 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP.

+ Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 chủa Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP.

+ Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP (trước đây là Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2012).

+ Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 09 tháng 4 năm 2014 của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.

+ Thông tư số 15/2012/TT-BYT ngày 12 tháng 9 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về điều kiện chung bảo đảm ATTP đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

+ Thông tư số 16/2012/TT-BYT ngày 22 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về điều kiện ATTP đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế.

+ Thông tư số 17/2016/TT-BYT ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Bộ Y tế quy định việc thu hồi và xử lý thực phẩm không đảm bảo an toàn thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế.

+ Thông tư số 30/2012/TT-BYT ngày 05 tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về điều kiện ATTP đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn đường phố.

+ Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 11856:2017 về Chợ kinh doanh thực phẩm.

+ Công văn số 2129/BCT-KHCN ngày 21 tháng 3 năm 2018 về triển khai thực hiện Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP và Công văn số 3109/BCT-KHCN ngày 20 tháng 4 năm 2018 về việc hướng dẫn thực hiện công tác quản lý ATTP của Bộ Công Thương.

+ Chỉ thị số 09-CT/TU ngày 04 tháng 10 năm 2016 của BTV Thành ủy Đà Nẵng về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác ATTP trong tình hình mới.

Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Thực hiện chính sách đảm bảo an toàn thực phẩm từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
      1. Môi trường kinh tế

Với điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay là một nước thu nhập trung bình thấp thì khả năng phát triển và xây dựng các nông trại, cơ sở nông nghiệp trồng trọt, chăn nuôi đạt các tiêu chuẩn quốc gia về ATTP còn rất hạn chế do thiếu về nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học, kỹ thuật canh tác, nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ ngành nông nghiệp… vì vậy giá thành của các loại thực phẩm đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế về ATTP rất cao so với thu nhập trung bình của người dân, gần như vượt quá khả năng chi trả của đại đa số người dân Việt Nam, chính vì vậy, khả năng được tiếp cận và sử dụng các loại thực phẩm đạt chuẩn quốc tế về ATTP của người dân rất hạn chế. Cùng với đó, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất thực phẩm nội địa không đáp ứng đủ nhu cầu thực phẩm của người Việt, dẫn đến việc nhập khẩu số lượng rất lớn thực phẩm từ các nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt thực phẩm của Trung Quốc chiếm đa số, trong đó có nhiều loại thực phẩm có giá thành rất rẻ so với thực phẩm cùng chủng loại của Việt Nam, điều này đã tác động tiêu cực đến việc sản xuất và kinh doanh thực phẩm Việt, làm cho ngành nông nghiệp trồng trọt, chăn nuôi cũng như ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam vốn đã yếu kém nay lại càng bị cạnh tranh khốc liệt hơn, làm suy giảm năng lực cung ứng thực phẩm của các doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên điều này cũng có mặt tác động tích cực dến thị trường thực phẩm, làm cho các doanh nghiệp Việt ý thức được việc đảm bảo chất lượng ATTP của các sản phẩm nội địa, nâng cao chất lượng, quy trình từ sản xuất, chế biến đến kinh doanh thực phẩm an toàn, nhằm củng cố niềm tin của người dân vào các loại thực phẩm nội địa đảm bảo an toàn chất lượng.

Trong bối cảnh Việt Nam tăng cường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang đặt ra những đòi hỏi mới trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến văn hóa, xã hội…, đặc biệt là lĩnh vực thực phẩm, đây là một trong những lĩnh vực tận dụng tốt nguồn lực sẵn có của Việt Nam nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn. Có thể thấy rằng, ATTP không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế. Thực phẩm sạch, thực phẩm an toàn sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt trên thị trường quốc tế, tạo thương hiệu, lòng tin của người tiêu dùng đối với thực phẩm Việt, nhất là các loại nông sản. Tuy nhiên, hiện nay, vấn nạn thực phẩm bẩn không những làm nguy hại đến sức khỏe của người dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp trong nước và gây thiệt hại rất lớn cho ngành nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cũng như ngành công nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm. Bởi lẽ, để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm không những cần được sản xuất, chế biến, bảo quản tốt mà còn phải bảo đảm các quy chuẩn kỹ thuật cho phép theo tiêu chuẩn quốc tế về việc sử dụng nguyên vật liệu sản xuất, chế biến thực phẩm, các chất hóa học tổng hợp, tự nhiên, các chất phụ gia thực phẩm và quy trình đóng gói, bảo quản, vận chuyển thực phẩm… nhằm phòng ngừa các nguy hại từ thực phẩm gây ra, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, nhất là đối với các thị trường của các nước phát triển như Mỹ và Châu Âu.

      1. Môi trường văn hóa – xã hội

Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực, thực phẩm là một mặt hàng chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa văn hóa, xã hội rất quan trọng. Hiện nay, ngành thực phẩm tại Việt Nam đang phải đối đầu với rào cản về kinh tế và văn hóa như cạnh tranh giá cả và thị hiếu người tiêu dùng trong nước và khu vực. Với những thói quen mua sắm vẫn còn quan tâm nhiều về giá thì những sản phẩm giá rẻ, đáp ứng được nhu cầu tương đương của người tiêu dùng thì vẫn được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn, cho dù những hàng hóa đó chưa đảm bảo được nguồn gốc, xuất xứ hay là chất lượng. Chính vì vậy, những sản phẩm của đơn vị sản xuất thực phẩm ở nước ta khó được người tiêu dùng lựa chọn, dù sản phẩm vẫn đảm bảo về chất lượng vì việc sản xuất còn nhỏ, lẻ, thiếu năng lực cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, với văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam vẫn chuộng hàng ngoại, điều này ảnh hưởng nhiều đến sức tiêu thụ của sản phẩm nội địa, nhất là các sản phẩm Việt Nam chất lượng cao. Thói quen mua sắm tại các chợ truyền thống vẫn cao hơn việc mua sắm tại các siêu thị, trung tâm thương mại, do đó, vấn đề về ATTP là rất khó đảm bảo. Cùng với đó, hiện trạng mua sắm qua mạng ngày càng phổ biến, việc này sẽ gây nên tình trạng hàng hóa, đặc biệt là mặt hàng thực phẩm sẽ không được qua kiểm duyệt, không có chứng nhận đảm bảo ATTP, hơn nữa là những loại thực phẩm bẩn, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng giả, hàng nhái… sẽ xuất hiện tràn lan trên thị trường, một mặt gây lủng đoạn thị trường hàng hóa, mặc khác gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người tiêu dùng.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\CHINH SACH CONG\LE CONG THUAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *