Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ công chức từ thực tiễn

Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ công chức từ thực tiễn

Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất nước ta đã trải qua 30 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu kinh tế- xã hội rất đáng khích lệ. có thể nói chưa bao giờ vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường Quốc tế lại cao như hiện nay. Cho đến nay Việt nam đã là thành viên 63 tổ chức Quốc tế và có quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. với những thời cơ mới và nhiều vận hội mới, cũng có nhiều khó khăn và thách thức với đất nước. Mục tiêu của Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống, vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được vững chắc, hực hiện thắng lợi mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Để phấn đấu cho mục tiêu trên là sự nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà nòng cốt là phải xây dựng lực lượng cán bộ các cấp mà nhất là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hó, hiện đại hóa đất nước ( VK hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng khóa XII) .

Hơn ai hết Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấy rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[1]. “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”[2]. “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn[3].Vì vậy, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo, đánh giá và sử dụng cán bộ, giao cho họ những trọng trách và giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó. Để có được những cán bộ ưu tú một lòng vì Đảng, vì dân ” [44] vị trí của cán bộ là “ cầu nối” giữa Đảng, chính phủ với quần chúng nhưng không phải là “vật mang” là “ Dây dẫn”, là sự chuyển tải cơ học mà chính là con người có đủ tư chất, tài năng và đạo đức để làm việc đó. Đây không phải là yêu cầu về chất lượng của từng cán bộ công chức, viên chức mà còn là chất lượng của đội ngũ cán bộ trong cả hệ thống chính trị. Nghị quyết hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết này là sự tập trung trí tuệ của cả hệ thống chính trị và các nhà khoa học để phản ánh đúng những quan điểm, nội dung phong phú và sâu sắc về cán bộ và công tác cán bộ cũng như chỉ ra những kết quả kinh nghiệm quý báu của một số quốc gia trong công tác cán bộ, cũng như những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp, thực hiện tốt chiến lược cán bộ, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý, đăc biệt là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của Đảng [2].

Trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết trung ương 3 khóa VIII tại tỉnh Quảng Ngãi nói chung, huyện Sơn Tây nói riêng một trong những giải pháp thực hiện tốt công tác cán bộ đó là: thực hiện luân chuyển một số vị trí lãnh đạo chủ chốt để qua đó có thể rèn luyện, thử thách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp trong huyện, để giúp họ hoàn thiện về mọi mặt để đáp ứng nhu cầu công tác lãnh đạo quản lý trong thời kỳ mới đạt kết quả cao.

Qua quá trình học thạc sỉ chuyên ngành chính sách công tại Học viện khoa học Xã hội Thuộc Viện Hàn Lâm khoa học Xã hội Việt Nam, bản thân tôi quyết định chọ đề tài “Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi” để làm luận văn thạc sỹ chính sách công. Luận văn này tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, phân tích các yếu tố tác động đế chính sách điều động, luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, trên cơ sở đó bản thân đề ra các nhóm giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách nhằm giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn huyện thực hiện công tác điều động, luân chuyển cán bộ đạt hiệu quả cao.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” “ Muốn vệc thành công hoặc thất bại điều do cán bộ tốt hay kém”. Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: Từ khi thành lập, trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến, Đảng ta đã thực hiện việc luân chuyển cán bộ đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định “ Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành và các địa phương”, có thể nói đây là một chủ trương rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, của cả hệ thống chính trị và các lượng vũ trang, nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương đào tạo, bối dưỡng toàn diện và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước; tăng cường cán bộ các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong các ngành, từng địa phương và đơn vị.

Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước trong những năm qua công tác luân chuyển cán bộ của cả nước nói chung, huyện Sơn Tây nói riêng đạt được nhiều kết quả quang trọng góp phần làm cho cán bộ và công tác án bộ ngày càng hoàn thiện hơn, đội ngũ cán bộ trưởng thành nhanh chóng, góp phần hoàn thiện nhiệm vụ chính trị của cả nước và từng địa phương. Tuy nhiên công tác luân chuyển cán bộ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, nhất là cơ chế chính sách, thực trạng đội ngũ cán bộ, các giải pháp thực hiện…Trên cở sở nghiên cứu lý luận về công tác cán bộ, chính sách đối với cán bộ công chức nói chung, qua khảo sát, đánh giá chính sách cán bộ (Trong đó có chính sách điều động, luân chuyển cán bộ công chức) tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, bản thân xét thấy đây là vấn đề quang trong và cần thiết. Do đó cần tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ thêm một số cơ sở lý luận, đánh gia sát thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn huyện đông thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách cán bộ trên địa bàn huyện nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ tại huyện Sơn Tây cả về số lượng và chất lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ ,công chức có phẩm chất chính trị trong sáng, đạo đức lối sống tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ phát triển của đất nước.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn sẽ tập trung phân tích cơ sở lý luận, lý thuyết cơ bản về công tác cán bộ và chính sách cán bộ

Phân tích, đánh giá và làm rỏ việc thực hiện công tác cán bộ, chính sách cán bộ, mục tiêu, các giải; các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách cán bộ tại huyện Sơn Tây- Tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2005- 2017. Qua đó đề xuất, kiến nghị nhiều nhóm giải để hoàn thiện chính sách cán bộ (Trong đó có chính sách điều động, luân chuyển cán bộ) ở huyện đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian đến.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

*. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

– Đối tượng nghiên cứu đề tài là công tác cán bộ và chính sách điều động, luân chuyển cán bộ, công chức.

– Phạm vi không gian: Trên địa bàn Huyện Sơn Tây- Tỉnh Quảng Ngãi.

– Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2005- 2017

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, tận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công, đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình từ hoạch định đến việc xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được định hướng qua thực tiễn, giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng và phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu:

+ Số liệu thứ cấp: các số liệu thu thập về cán bộ, công chức, viên chức tại huyện Sơn Tây- Tỉnh Quảng Ngãi .

+ Các văn bản gòm: Luât, Nghị quyết của Đảng, chính sách của nhà nước quy định về công tác cán bộ, chính sách đối với cán bộ.

+ Số liệu sơ cấp được tự thu thập qua công tác điều tra thực tế tai huyện Sơn Tây , Tỉnh Quảng Ngãi.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học chính sách công để làm sáng tỏ vấn đề khoa học và vấn đề thực tiễn của công tác cán bộ và chính sách cụ thể: chính sách cán bộ ( Điều động, luân chuyển cán bộ , công chức).

– Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại huyện Sơn Tây- Tỉnh Quảng Ngãi, qua đó góp phần làm sâu sắc thêm hệ thống lý luận của khoa học chính sách công.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua nghiên cứu thực tiễn công tác cán bộ, chính sách cán bộ (điều động, luân chuyển cán bộ, công chúc) tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ đó chỉ ra những khó khăn, những hạn chế trong hoạch định và thực hiện chính sách, đồng thời kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho lãnh đạo huyện, các ban ngành liên quan có cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn để vân dụng và điều chỉnh chính sách, đồng thời tổ chức thực hiện công tác cán bộ, thực hiện chính sách điều động, luân chuyển cán bộ, công chức tại huyện Sơn Tây-Tỉnh Quảng Ngãi có hiệu quả hơn.

7. Kết cấu của luận văn

*Luận văn được cơ cấu gồm các phần sau:

– Phần mở đầu.

– phần kết luận.

– phần phụ lục.

– Danh mục các chữ viết tắt

– Danh mục các hình và bảng.

– Danh mục tài liệu tham khảo.

*Luận văn được bố cục theo các chương sau:

Chương 1: Cơ sở lý thuyết về luân chuyển cán bộ

Chương 2: Thực trạng thực hiện hính sách luân chuyển cán bộ tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

Chương 3: Định hướng, giải pháp tăng cường thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ

    1. 1.1. Một số khái niệm cơ bản

Cán bộ là một danh từ rất đẹp, rất tự hào và vinh dự của nhân dân ta.Từ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoản mấy chục năm lại đây, đây là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tên gọi cán bộ đã từng để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo. Qua các thời kỳ cách mạng, khái niệm cán bộ không được làm rõ. Từ cán bộ gần như được dùng thay thế cho từ công chức, cũng trong giai đoạn dài hình ảnh công chức trong xã hội (cũ) thường bị coi là xấu “ Sáng vác ô đi, chiều vác về”

Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, Lực lượng vũ trang, trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những người có mức lương từ cán sự (cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn cán sự

Trong từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa như sau:

-Là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn ở các cơ quan nhà nước, Đảng, đoàn thể.

– là những người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ.

Đến thời điểm này, từ cán bộ được dùng với các nghĩa khác nhau:

– Trong cơ quan Đảng và đoàn thể, từ cán bộ dược dùng với hai nghĩa.

Một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hội viên.

Hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức đảng và đoàn thể.

– Trong lực lượng vủ trang là những người chỉ huy từ tiểu đội trở lên ( cán bộ tiểu đội, cán bộ trung đoàn trở lên v.v…) và là sỹ quan từ cấp úy trở lên.

– Trong cơ quan Nhà nước, từ cán bộ được hiểu là trùng với chức danh công chức, chỉ những người làm việc trong các cơ quan nhà nước thuộc ngành hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội. Như vậy, cán bộ được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo…

Dù dùng trong cách nào, trường hợp nào, lĩnh vực nào, nhưng về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ khung, là nòng cốt là chỉ huy.

Cán bộ là khái niệm chỉ những đối tượng có chức vụ, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành.

Nhự vậy: cán bộ phải là những người có bản lĩnh chính trị vũng vàng, đạo đức lối sống trong sáng, năng lực chuyên môn giỏi, trình độ học vấn cao, tinh thông nghiệp vụ, có tâm lý và văn hóa của người chỉ huy, người lãnh đạo, điều hành.

Đội ngũ cán bộ của chúng ta đã được xây dựng và trưởng thành qua các thời kỳ cách mạng cho đến hôm nay đang đứng trước những nhiệm vụ hết sức nặng nề của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, về cơ cấu tổ chức có nhiều thành phần:

– Cán bộ Đảng và đoàn thể;

– Cán bộ Nhà nước ( Lập pháp, hành pháp, tư pháp );

– Cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế;

– Cán bộ khoa học, kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao, xã hội và cán bộ quản lý thuộc các ngành này.

– Cán bộ lực lượng vũ trang.

. Nước ta khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, vừa xây dựng và hoàn chỉnh nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa tiến hành xây dựng nền văn hóa VIệt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, không thể không hoàn chỉnh chính sách cán bộ để có một đội ngũ cán bộ có chất lương đồng bộ, phù hợp với yêu cầu đổi mới của đất nước đang đặt ra.

Như vậy; để làm rỏ các khái niệm cán bộ, công chức, cán bộ lãnh đạo quản lý, trước tiên ta nghiên cứu khái niệm chính sách công là gì.

* Khái niệm chính sachsn công: Chính sách là một thành tố, công cụ của quản lý. Chính sách công là thành tố của quản lý nhà nước, có thể được hiểu “là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” (Vũ Cao Đàm, Quản lý học đại cương,1996)

Chính sách công cũng có thể được hiểu “là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” (Đỗ Phú Hải ). 

* Khái niệm cán bộ [43]

Khoản 1 và 3 điều 4 luật cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008 do Quốc hội khóa XII nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành đã quy định cán bộ như sau:

– Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở Trung ương, ở Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương ( Sau đây gọi chung là cấp Tỉnh), Ở huyện,quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. (Sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

– Cán bộ xã, phường, thị trấn (Sau đây gọi chung là cấp xã ) là công dân Việt Nam, được bầu cử, giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ cức chính trị- xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

* Khái niệm công chức [43]

Theo khoản 2 và 3 điều 4 luật cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008 do Quốc hội khóa XII ban hành đã quy định công chức như sau:

Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan Đảng công sản Việt Nam, nhà nươc, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân Quốc phòng, trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp trong bộ máy lãnh đao, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ cức chính trị- xã hội (Sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong bên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; Đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỷ tiền lương của đơn vị sự nghiêp công lập theo quy định của pháp luật.

Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

* Khái niệm cán bộ lãnh đao, quản lý [44]

– Theo nghĩa rộng, Đội ngũ cán bộ quản lý bao gồm tất cả những người tham gia vào hệ thống quản lý và hình thành theo chức năng nhất định. Đó là tất cả những người không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Theo chức năng thì đội ngũ cán bộ quản lý được chia làm các loại sau:

+ Cán bộ lãnh đạo: là những người chỉ huy trong bộ máy quản lý có chức danh nhất định do nhà nước cấp hoặc do cấp trên bổ nhiệm. Họ phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và cấp trên trong quá trình chỉ đạo hoạt động của tổ chức do mình phụ trách. Hoạt động đặc trưng của họ là đề ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý.

+ Các nhà chuyên gia: Là những người có trình độ chuyên môn cao trong một lĩnh vực nào đó như: Tài chính , Nông- Lâm nghiệp… Chức năng của những người này là chuẩn bị các phương án cho cán bộ lãnh đạo ra quyết định, ngoài ra họ còn được cán bộ lãnh đạo giao cho nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra một số lĩnh vực nào đó theo quy định.

– Theo nghĩa hẹp:

+ Cán bộ quản lý tương tương với người lãnh đạo cao nhất trong một tổ chức.

+ Cán bộ quản lý kinh tế là những người thực hiện chức năng quản lý kinh tế, đứng đầu một hệ thống với những chức danh nhất định và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hệ thống do mình phụ trách.

* Vai trò của cán bộ quản lý:

– Cán bộ quản lý là người quyết định sự thành công hay thất bại của cả hệ thống trong hoạt động. họ thực hiện những vai trò cụ thể sau:

+ Vai trò quản lý:là tạo các mối quan hệ qua lại và liên kết các bộ phận riêng lẻ trong tổ chức để tạo thành một hệ thống trọn vẹn, đồng thời họ là những người trực tiếp vận dụng các quy luật khách quan vào quá trình hoạt động của hệ thống.

+Vai trò chính trị: Cán bộ quản lý là những người có nhiệm vụ tham gia xây dựng, hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, đồng thời họ là những người tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế. Ở mức độ nhất định, cán bộ lãnh đạo đại diện cho quyền lợi của giai cấp họ.

* Yêu cầu đối với cán bộ quản lý:

– Yêu cầu về phẩm chất chính trị: Thể hiện ở các điểm sau:

+ Phải có quan điểm chính trị sâu rộng, có ý chí vững vàng kiên định trong công việc.

+Bản thân quy tụ được sức mạnh của cả tập thể.

+ Yêu cầu về năng lực chuyên môn: Người cán bộ lãnh đạo quản lý phải có chuyên môn sâu và phải có những kiến thức cơ bản về mặt kinh tế, hành chính, kỹ thuật tương xứng với giá trị của mình để tổ chức công việc của hệ thống đạt hiệu quả mong muốn.

+ Năng lực chuyên môn của họ phải được thể hiện cụ thể ở các điểm sau:

Thứ nhất là: khả năng phân tích và giải quyết sâu sát các vấn đề như: phân tích tình huống và nhận định được tình hình, phát hiện các cơ hội, thực thi các giải pháp tối ưu để tận dụng các cơ hội có lợi, tập trung tiềm lực để giải quyết các cây xung yếu nhất của hệ thống

Thứ hai là khả năng xác định đúng đắn phương hướng phát triển của hệ thống do bản thân phụ trách

Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

+ Yêu cầu về năng lực tổ chức: đó là những yêu cầu về kỹ năng khác nhau trong công việc tổ chức điều hành công việc của các bộ phận quản lý thể hiện ở những điểm cụ thể sau:

Tổ chức công việc của bản thân bao gồm: Các phương pháp, quá trình, quy trình làm việc hằng ngày của cán bộ quản lý khả năng kết hợp giữa công việc hằng ngày với công việc chuẩn bị cho hướng phát triển tương lai của hệ thống.

Khả năng làm việc và quy tụ sức mạnh của tập thể: Động viên tinh thần làm việc của mọi người, tập hợp được sức mạnh của các thành viên tham gia thực hiện nhiệm vụ được phân công: tao ra môi trường thuận lợi lành mạnh để mọi người cùng làm việc cảm thấy an toàn và an tâm, tự tin, phát huy chính kiến cá nhân của mình trong công việc chung.

Biết quy tụ tổng hợp sức mạnh tập thể, qua đó đánh giá và sử dụng đúng khả năng của từng người, có khả năng kiểm tra công việc và giữ vững kỷ luật lao động theo quy chế làm việc và theo quy định của pháp luật.

+ Yêu cầu về đạo đức, tác phong làm việc của người lãnh đạo thể hiện ở các khía cạnh sau:

Có ước muốn làm việc quản lý.

Quan hệ đồng cảm với mọi người

Chính trực và trung trực, công bằng và công tâm, có văn hóa, biết tôn trọng người khác, có thiện chí con người, không làm điều ác với con người.

Thường xuyên học hỏi để trao dồi trí tuệ.

Tác phong gọn, nhanh nhặn, khoa học.

    1. 1.2. Lý luận về công tác cán bộ, chính sách điều động luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay

1.2.1. Vị trí của cán bộ và công tác cán bộ

– Lý luận theo Mác và Ăng-ghen:

Mác và Ăng-ghen là những người đặc nền móng cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản, là những người mang lý luận khoa học kết hợp với phong trào công nhân, lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới.

Giai cấp vô sản và chính đảng của mình muôc giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ trung thành và tài năng, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng. Các ông cho rằng. “Mỗi thời đại xã hội điều cần có những con người vĩ đại và nếu không có những con người như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra con người như thế”.

– Lý luận theo Lê Nin [44]

LêNin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, người đã đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ những người cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản. đó là những cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản Bôn-sê-víc, Nga, những nhà chính trị lổi lạc của giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị giai cấp tư sản.

Như vậy, V.I. LêNin đã gắn chặt đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ với vai trò lãnh đạo của Đảng. Rõ ràng, không có đội ngũ cán bộ vững mạnh thì Đảng không thể duy trì, giữ vững được sự lãnh đạo của mình, không nhận thức đầy đủ khoa học về mối quan hệ này sẽ không thấy được thực chất sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa Tư sản lên chủ nghĩa xã hội. . Người viết : “ sự lãnh đạo chính trị sẽ là gì chứ? Ai lãnh đạo nếu không phải là những con người, lãnh đạo cách nào, nếu không phải là phân phối lực lượng”

Vai trò cán bộ và công tác cán bộ chỉ được thể hiện rõ ràng, cụ thể, có hiệu lực khi gắng với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng. V.I Lê Nin đòi hỏi giai cấp công nhân phải xây dựng được cho mình một đội ngũ những người “ Tâm huyết” lấy đấu tranh cách mạng là “chuyên nghiệp” đội ngũ cán bộ giỏi, có phẩm chất, có nhiệt tình, là điều kiện để giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp Tư sản “Chính trị là một khoa học và một nghệ thuật không phải từ trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố gắng rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp tư sản phải đào tạo lấy “những nhà chính trị giai cấp” Thật sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị giai cấp tư sản”.

– Lý luận theo chủ tịch Hồ Chí Minh [44]

Trong sự nghiệp cách mạng , chủ tịch Hồ Chí Minh coi “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “ Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”.Cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì dù có đường lối, chính sách đúng cũng không có thể biến thành hiện thực được. Muốn biến đường lối thành hiện thực, cần phải có con người sử dụng lực lượng thực tiễn, đó là đội ngũ cán bộ cách mạng và quần chúng cách mạng, bằng sự mẫn cảm của mình để đưa cách mạng đến thành công.

Hồ Chủ tịch chỉ ra rằng: “ Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, đề ra cho chính sách đúng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cán bộ ở vị trí có tính chất quyết định: chính sách đúng đắn có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai, cán bộ yếu kém. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã đi xa hơn, sâu hơn, chỉ ra cội rễ của vấn đề một cách vừa cụ thể vừa có tính chất tổng quát, người nói: “ khi đã có chính sách đúng thì sự thành công và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.

Theo Hồ chủ tịch trong công tác tổ chức cán bộ cần xem xét các vấn đề lớn sau đây và các vấn đề đó có quan hệ gắn bó chặc chẽ với nhau đó là:

“ Hiểu biết cán bộ

Khéo dùng cán bộ

Cất nhắc cán bộ

Thương yêu cán bộ

Phê bình cán bộ”

Để có cán bộ tốt, đáp ứng được phong trào, cho nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng, công tác cán bộ cần phải có vị trí quyết định. Hồ Chí minh là người nêu gương trong việc hoạch định đường lối, chính sách vừa nguyên tắc, vừa linh hoạt trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Người coi công tác cán bộ cũng như việc đào tạo nhân tài là trọng yếu và rất cần thiết. Người nói “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ luôn gắn với tổ chức, chất lượng cán bộ là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, đề bạt, cất nhắc, kiểm tra, giám sát, phê bình… và sự nỗ lực phấn đấu của từng người.

Vị trí của cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng, chính phủ với quần chúng nhưng không phải là “ vật mang” là “ Dây dẫn” là sự chuyển tải cơ học mà chính là con người có đủ tư chất, tài năng và đạo đức để làm việc đó. Bởi lẽ để có thể đem chính sách của Đảng và chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đòi hỏi người cán bộ phải có một trình độ, trí tuệ nhất định. Nếu không, người cán bộ sẽ không quán triệt hết, thậm chí làm sai lệch tinh thần, nội dung của chính sách thì thật là nguy hiểm.

Ngoài điều kiện có trình độ nhất định, người cán bộ còn cần phải có một bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Việc truyền đạt, giải thích chính sách của Đảng và nhà nước cho dân chúng là một việc khó khăn, nhưng khó khăn và phức tạp hơn nhiều là nắm chắc được tình hình, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng, cũng như phản ánh được đúng thực chất của tình hình để làm căn cứ cho việc hoạch định chủ trương, chính sách. Công việc này đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ tổng kết thực tiễn, khái quát, nâng lên thành lý luận. Đây là công việc không đơn giản, nó đòi hỏi sự thống nhất trong bản thân người cán bộ, với tư cách vừa là một nhà khoa học vừa là một chiến sỹ cách mạng nhiệt thành.

– Lý luận theo Đảng cộng sản Việt Nam [44]

* Theo văn kiện đại hội lần thứ XII của Đảng:

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thữ XII của Đảng, trong phần đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ nêu:

Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ. Tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về: Quan hệ về đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển… Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điiểm đảng thông nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ đảm bảo tính thông nhất, đồng bộ và chặc chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ để cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… Tăng tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ. Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,… Để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chụi trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. có cơ chế, chính sách phát hiện, trọng dụng nhân tài.

Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về công tác cán bộ

* Nghị quyết hội nghị trung ương 7 nêu quan điểm.

– Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.

– Thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị. Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.

– Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn qua các phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tập trung trọng dụng, thu hút nhân tài.

– Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hoà, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.

– Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp uỷ, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.

1.2.2. Lý luận về chính sách điều động, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay

Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: Từ khi thành lập, trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến, Đảng ta đã thực hiện việc luân chuyển cán bộ đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới và tại Nghị quyết TW 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đề ra nhiệm vụ: Luân chuyển cán bộ, quản lý giữa các vùng, các ngành, các cấp [4] Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định “ Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành và các địa phương”, có thể nói đây là một chủ trương rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, của cả hệ thống chính trị và các lượng vũ trang, nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương đào tạo, bối dưỡng toàn diện và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước; tăng cường cán bộ các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong các ngành, từng địa phương và đơn vị.

Cần tạo điều kiện để thử thách, rèn luyên, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp họ trưởng thành nhanh và toàn diện hơn, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài về công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị và của các cấp, các ngành, kể cả lực lượng vũ trang.

Tăng cường điều chỉnh việc bố trí cán bộ hợp lý hơn, tăng cường được cán bộ cho những nơi có nhu cầu cấp bách, nhất là cho cơ sở, cho nông thôn, một số địa bàn, đơn vị có nhiều khó khăn.

Ngày 11/9/2017 Bộ Chính Trị ban hành kết luận số 17-KL/TW về tình hình thực hiện tinh giảm biên chế của các tổ chức trong hệ thống chính trị năm 2015- 2016, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2017- 2021.

Ngày 7/ 10/ 2017 Ban Chấp hành Trung ương ban hành quy định số 98-QĐ/TW về luân chuyển cán bô. Trong đó yêu cầu:

+ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ và luân chuyển cán bộ, góp phần xây dựng đội ngủ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ trong từng giai đoạn.

+ Đổi mới mạnh mẽ công tác luân chuyển cán bộ, đảm bảo dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, công bằng, ngăn chặn tiêu cực, tham những, lợi ích nhóm, quan hệ họ hàng, thân quen…

+ Kết hợp việc luân chuyển với điều động, việc bố trí đội ngũ cán bộ phải hợp lý trong toàn hệ thống chính trị.Nghiêm túc thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ kết hợp chặc chẽ với việc bố trí các chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp Tỉnh, cấp huyện không là người địa phương theo tinh thần nghị quyết 26 của Ban chấp hành Trung ương và cán bộ không giữ chức vụ 2 nhiệm kỳ liên tiếp.

*Theo NQ TW 7 khóa XII về công tác cán bộ.

+ Mục tiêu

1. Mục tiêu tổng quát: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

2. Mục tiêu cụ thể:

– Đến năm 2020: (1) Thể chế hoá, cụ thể hoá Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xoá bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; (4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

– Đến năm 2025: (1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hoá, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; (2) Cơ bản bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác; (3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.

– Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:

+ Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 – 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế (đối với quân đội, công an có quy định riêng của Bộ Chính trị).

+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ 20 – 25% dưới 40 tuổi; từ 50 – 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 – 20% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 – 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 – 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hoá về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác.

+ Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, sức chiến đấu cao; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từ 20 – 30% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

+ Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học ở những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Số cán bộ khoa học đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân.

+ Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật; sản xuất kinh doanh hiệu quả; từ 70 – 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

+ Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp. Tỉ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt từ 20 – 25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân cư.

* Ngày 15/ 5/ 2018 Tỉnh ủy Quảng Ngãi ban hành quy định số 01- QĐ/TU về việc quy định luân chuyển, điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ trẻ trên địa bàn tỉnh với các yêu cầu như sau:

+ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ và luân chuyển cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ trong từng giai đoạn.

+ Đổi mới mạnh mẽ công tác luân chuyển cán bộ, đảm bảo dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, công bằng, ngăn chặn tiêu cực, tham những, lợi ích nhóm, quan hệ họ hàng, thân quen…

+ Cán bộ sau 01 năm luân chuyển phải nắm bắt được tình hình tại địa phương và phải phát hiện được những điêmt mới, vấn đề mới, những việc khó khăn, những yếu kém, mâu thuẫn ở đơn vị mới, từ đó đề xuất các giải pháp để tổ chức thực hiện, sau 02 năm có kết quả, sau 03 năm phải tạo sự chuyển biến rõ nét, được địa phương, đơn vị và cơ quan quyết định luân chuyển ghi nhận kết quả thực hiện.

Nghiêm túc thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ kết hợp chặt chẽ với bố trí chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp Tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và cán bộ không giữ chức vụ 2 nhiệm kỳ liên tiếp.

Tiểu kết Chương 1

Trong chương 1 tác giả trình bày các khái niệm cơ bản về chính sách công, về cán bộ, công chức các vị trí cán bộ, công chức theo quan điểm của Các-Mác và Ăng Ghen, Lê Nin, Hồ Chính Minh và của đảng ta, trong chương này cũng trình bày các lý luận về chính sách điều động, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chương 2 tập trung làm sáng tỏ về thực trạng thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ TẠI HUYỆN SƠN TÂY- TỈNH QUẢNG NGÃI

Trong chương này sẽ trình bày các điều kiện thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ tại huyện Sơn Tây- tỉnh Quảng Ngãi, thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, thực trạng về việc điều động cán bộ, công chức trên địa bàn huyện, chương này học viên cũng tiến hành khảo sát, lấy ý kiến trực tiếp từ một số cán bộ, công chức được điều động luân chuyển trên địa bàn huyện và chính sách điều động, luân chuyển cán bộ của Đảng và nhà nước trên địa bàn huyện trong những năm qua.

    1. 2.1. Các điều kiện thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ tại huyện Sơn Tây- tỉnh Quảng Ngãi

2.1.1. Thực trạng phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Quảng Ngãi

* Đặc điểm tự nhiên:

Tỉnh Quảng Ngãi thuộc duyên hải Trung Trung bộ, Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, Phía nam giáp tỉnh Bình Định, phía tây giáp tỉnh Kong Tum, phía đông giáp biển với đặc điểm chung là núi và biển. Giống như các tỉnh duyên hải miền trung khác, địa hình tỉnh Quảng Ngãi nhìn chung được thành 3 vùng rỏ rệt; vùng đồng bằng, vùng miền núi và vùng biển.

Vùng đồng bằng hẹp, nhưng đa dạng về hình thái, địa hình bề mặt khá bằng phẳng nghiêng về phía Đông, độ cao từ 2- 20m

Vùng miền núi: tiếp giáp với phía đông Trường Sơn Đông và đường Hồ Chí Minh, bao gòm chủ yếu 6 huyện trong tỉnh có diện tích tự nhiên 3.224 km2, chiếm 2/3 đất đai diện tích toàn tỉnh, có nhiều rừng núi cao trùng điệp.

Vùng hải đảo: Huyện đảo Lý Sơn là huyện duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi, nằm về phía Đông Bắc, cách đất liền 15 hải lý ( tính từ cảng Sa Kỳ ra). Huyện có hai đảo đó là: Đảo lớn (còn gọi Cù Lao Ré) và Đảo Bé ( Cù Lao Bờ Bãi ) có 3 xã:

Diện tích của các huyện, thành phố trong tỉnh được chia theo vùng đồng bằng và miền núi, hải đảo, mịnh họa qua số liệu tại bảng 2.1 sau:

Bảng 2.1. Diện tích tự nhiên của các huyện, thành phố cảu tỉnh Quảng Ngãi

Số TTTên đơn vị hành chính cấp huyện, thành phốDiện tích
km²Tỷ lệ(%)
ICác huyện đồng bằng1.89936,85
1Thành phố Quảng Ngãi370,72
2Huyện Bình Sơn4689,07
3Huyện Sơn Tịnh3446,67
4Huyện Tư Nghĩa2284,42
5Huyện Nghĩa Hành2354,55
6Huyện Mộ Đức2144,15
7Huyện Đức Phổ3737,23
II Các huyện miền núi, hải đảo3.25463,17
8Huyện Sơn Tây3827,42
9Huyện Ba Tơ1.13722,06
10Huyện Minh Long2174,21
11Huyện Sơn Hà75214,59
12Huyện Tây Trà3376,55
13Huyện Trà Bồng4198,17
14Huyện Lý Sơn( huyện đảo)100,20
Tổng cộng5.153100

Nguồn: Cục Thống Kê tỉnh Quảng Ngãi năm 2015

Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy diện tích tự nhiên chủ yếu phân bổ ở các huyện miền núi với 3.254 km² chiếm 63,17% diện tích toàn tỉnh. Trong khi đó các huyện đồng bằng chỉ chiến 1.899 km² chiếm 36,85% diện tích toàn tỉnh, còn thành phố Quảng Ngãi chỉ có 37 km² chiếm 0,72% diện tích toàn tỉnh.

. Quảng Ngãi có huyện đảo Lý Sơn nằm ở hướng Đông Đông Bắc của tỉnh có diện tích 10 km² có vị trí chiến lược quốc phòng quan trọng, đồng thời cũng là có cảnh quan thiên nhiên đẹp, hiện nay tỉnh Quảng Ngãi đang đầu tư để khai thác và thu hút khách du lịch đến với địa phương này, đồng thời khai thác tìm năng biển đảo, tăng thu ngân sách cho địa phương.

* Đặc điểm xã hội.

Dân số của tỉnh (đến năm 2015) là 1.219.286 người. Dân số có cơ cấu trẻ: cơ cấu các nhóm tuổi tương đối hợp lý, tuy nhiên ở nhóm trẻ có tính vượt trội hơn,đây là một thuận lợi về phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn tới, Là nguồn lao động dồi dào của tỉnh trong thời kì mới. tuy nhiên cơ cấu dân số trẻ cũng là một vấn đề khó khăn , do độ tuổi bước vào độ tuổi lao động hằng năm trên địa bàn tỉnh khá cao, do đó đặt ra cho tỉnh nhà vấn đề giải quyết việc làm , công tác xóa đói, giảm nghèo,việc giáo dục đào tạo, nhất là đào tạo nghề đang đặt ra yêu cầu rất lớn trên địa bàn tỉnh.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\CHINH SACH CONG\NGUYEN THANH VUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *