Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác

Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với chức năng được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và “Hoạt động thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.

Việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự là việc rất cần thiết, không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.

Với những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: “Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: làm rõ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức VKSND để đưa ra hệ thống giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

Nhiệm vụ của luận văn: Hệ thống, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế về thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức VKSND và thực trạng áp dụng so với quy định của pháp luật về hoạt động thực hiện chức năng THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Phạm vi nghiên cứu: những quy định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố khảo sát trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.

Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng phối hợp với đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với chức năng THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố.

Phương pháp cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia để làm cách thức tiếp cận đề tài. Các biện pháp này quan hệ biện chứng hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài.

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn

Ý nghĩa khoa học: những bất cập khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT và kiến nghị nhằm hướng tới hoàn thiện các quy định về THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố so với quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự mới.

Giá trị ứng dụng: sẽ rút ngắn khoảng cách giữa quy định của pháp luật và việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên thực tiễn.

7. Cơ cấu của luận văn

Phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau:

– Chương 1: Khái quát về thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

– Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

– Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ

1.1. Khái niệm, nguyên tắc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm

Tố giác, tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được qui định trong Bộ luật hình sự do cá nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước cung cấp bằng các hình thức thông tin khác nhau để cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về mặt TTHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với các Cơ quan điều tra, VKS, Toà án trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Ở phương diện điều tra khám phá tội phạm; tố giác, tin báo về tội phạm là những thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan pháp luật xem xét tính chất nghiêm trọng hay không của sự việc đã được những chủ thể báo tin, tố giác đến; tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin đến đâu; có dấu hiệu của tội phạm hay không… và tố giác, TBVTP là căn cứ để CQĐT mở ra những hoạt động điều tra, xác minh theo luật định nhằm làm rõ tính có căn cứ và hợp pháp của những TG, tin báo về tội phạm; từ đó, làm cơ sở để CQĐT tiến hành các hoạt động theo luật định để xác định có căn cứ hay không có căn cứ khởi tố vụ án, tiến hành các biện pháp cấp bách để ngăn chặn tội phạm, hậu quả của tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tổ chức và tiến hành hoạt động điều tra tiếp theo.

Khái niệm kiến nghị khởi tố

Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét khởi tố vụ án hình sự. Đây là việc các cơ quan Nhà nước, qua công tác kiểm tra, thanh tra và khi thực hiện các nhiệm vụ, công tác khác phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, người có hành vi phạm tội và có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội để điều tra, xử lý.

Khái niệm thực hành quyền công tố

Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện các quyền năng theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, góp phần ra bản án có căn cứ, đúng pháp luật.

Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý khác nhau để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong từng giai đoạn khác nhau của TTHS (hay nói cách khác đó là các phương pháp khác nhau để tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong những giai đoạn tố tụng khác nhau) – đó là thực hành quyền công tố. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho duy nhất cho Viện kiểm sát. Vậy, chủ thể THQCT ở Việt Nam là Viện kiểm sát nhân dân. Như vậy, thực hành quyền công tố là việc Nhà nước tổ chức và giao cho cơ quan đại diện của mình là VKSND các quyền năng pháp lý để thực hiện trong tất cả giai đoạn của TTHS từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố đến điều tra, xét xử hình sự đối với người có hành vi phạm tội và áp dụng đối với họ các chế tài hình sự cần thiết.

Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là hoạt động thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tiến hành xử lý và giải quyết đối với những thông tin về hành vi có dấu hiệu của tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật.

1.1.2. Nguyên tắc thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

– Thứ nhất, việc tiếp nhận, giải quyết TG, tin báo về tội phạm và KNKT phải tuân theo quy định của pháp luật. Không được vì bất cứ lý do gì mà từ chối việc tiếp nhận, giải quyết;

– Thứ hai, chỉ những cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mới được tiến hành giải quyết. Người làm trái pháp luật trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

– Thứ ba, khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cá nhân, đơn vị tiếp nhận không được tiết lộ nội dung tiếp nhận được cho cá nhân, cơ quan, tổ chức không có thẩm quyền;

– Thứ tư, cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và KNKT có trách nhiệm trả lời cho cơ quan, tổ chức đã báo tin, kiến nghị khởi tố hoặc người đã tố giác tội phạm. Phải giữ bí mật cho cơ quan, tổ chức, người cung cấp tin và hướng dẫn họ biện pháp, cách thức giữ bí mật những thông tin đã cung cấp, tố giác;

– Thứ năm, trong trường hợp xét thấy cần thiết, cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có trách nhiệm áp dụng hoặc đề nghị áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và những người thân thích của họ;

– Thứ sáu, mọi trường hợp không làm hoặc làm trái các quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố dẫn đến không kịp thời ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội, người phạm tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, xóa dấu vết phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.

1.2. Nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1.2.1. Nội dung thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn THQCT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân như khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện, kê biên của CQĐT khi giải quyết TG, tin báo về tội phạm và KNKT là phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các Quyết định, các Lệnh này như sau:

– Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp trong những trường hợp phải có Lệnh của người có thẩm quyền được quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp. Trong trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt. Trình tự, thủ tục và căn cứ hồ sơ bắt người trong trường hợp khẩn cấp, thủ tục phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp được quy định cụ thể tại Thông tư liên tịch số 05 năm 2005.

– Việc gia hạn tạm giữ hình sự đối với một người phải có quyết định của người có thẩm quyền được quy định tại Điều 87 BLTTHS năm 2003. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát khi đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ nhưng người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật thì VKS phải có trách nhiệm bồi thường theo quy định tại Điều 31 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

– Việc áp dụng các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân như khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật; thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện được quy định tại các Điều 142, Điều 143, 144 của Chương XII BLTTHS năm 2003 phải có Lệnh khám xét, Lệnh thu giữ của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, Lệnh khám xét, Lệnh thu giữ phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Việc tạm giữ hình sự đối với một người phải có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền được quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2003. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra Quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp và nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ và cơ quan đã ra Quyết định tạm giữ phải trả tự do cho người bị tạm giữ.

Các quyết định tố tụng của CQĐT và của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết TG, tin báo về tội phạm và KNKT như: Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét, kê biên tài sản phải có quyết định và Lệnh của người có thẩm quyền và phải được thông báo ngay cho VKS cùng cấp trước khi thi hành nếu việc thực thi các quyết định, Lệnh này trong trường hợp phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành thì phải có quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát. Đối với các quyết định của CQĐT đã gửi sang VKS, nhưng VKS chưa quyết định việc phê chuẩn thì CQĐT có văn bản đề nghị VKS để rút các quyết định này và ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ theo quy định tại khoản 5 Điều 112 của BLTTHS năm 2003.

Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện

Trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố, nếu cần thiết VKSND có thể đề ra những vấn đề bắt buộc phải làm rõ khi xác minh loại việc đó và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết kiểm tra, xác minh kịp thời đúng quy định theo Điều 112 BLTTHS năm 2003 và CQĐT có trách nhiệm thực hiện đầy đủ và nhanh chóng các yêu cầu và quyết định tại Điều 114 của BLTTHS năm 2003.

Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục

Trong quá trình giải quyết tố giác, TBVTP và KNKT thì cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành một số hoạt động xác minh, điều tra và trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục thì VKSND thực hiện trực tiếp giải quyết nhằm hạn chế tình trạng vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền điều tra như những trường hợp bức cung, dùng nhục hình dẫn đến chết người, oan, sai; bên cạnh đó cũng tiềm ẩn nguy cơ bỏ lọt tội phạm.

Vì vậy, việc thực hiện trực tiếp giải quyết của VKS cũng nhằm xem xét việc khởi tố vụ án có đúng với quy định tại các Điều 105, Điều 107 của Bộ luật TTHS hay không, nếu phát hiện việc khởi tố vụ án không có căn cứ thì VKS ra các quyết định huỷ bỏ những quyết định khởi tố vụ án đó hoặc tiến hành khởi tố vụ án khi thấy có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội

Việc hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc chức năng THQCT khi phát hiện cơ quan, tổ chức và các đơn vị hữu quan có vi phạm thì VKS có quyền ban hành văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó chấm dứt việc vi phạm, một trong những quyền năng đó, chính là quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu. Theo đó, các văn bản này của VKSND phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, VKS và các cơ quan tiến hành tố tụng khác có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa; các cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu của VKS và các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Viện kiểm sát ban hành các kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.

1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố được bắt đầu từ thời điểm VKS kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố của các Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố và kết thúc cho đến khi xử lý bằng việc khởi tố hoặc không khởi tố và ban hành thông báo kết quả giải quyết theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự và tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014.

1.3. Ý nghĩa của hoạt động thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố nhằm bảo đảm việc thu thập chứng cứ đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội và nhằm đảm bảo tính khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm không để người nào bị bắt, tạm giữ bị hạn chế quyền con người, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Đồng thời, công tác này còn có ý nghĩa quan trọng:

– Không chỉ trong giai đoạn ban đầu nhằm bảo đảm trình tự thủ tục tố tụng cho việc khởi tố vụ án mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thu thập các thông tin của các loại tội phạm giúp cho CQĐT tiến hành các biện pháp điều tra, từ đó xác lập các chuyên án để đấu tranh với các loại tội phạm.

– Phản ánh hoạt động của các tội phạm trong đời sống xã hội và để đánh giá tình trạng tội phạm diển ra trên một địa bàn, từ đó có kế hoạch phòng ngừa hiệu quả, trên cơ sở đó sẽ đánh giá được mức độ tham gia các phong trào tấn công trấn áp tội phạm trên từng địa bàn khu dân cư của quần chúng nhân dân.

– Thể hiện mối quan hệ và trách nhiệm phối hợp trong công tác giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, người tiến hành TTHS và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến công tác này.

Kết quả của các hoạt động tố tụng trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố dẫn đến việc không khởi tố hoặc khởi tố điều tra nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người phải có căn cứ và đúng pháp luật.

Kết luận chương 1

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM, KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

2.1.1. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội

Đà Nẵng bao gồm 06 quận, 01 huyện và 01 huyện đảo Hoàng Sa; tổng cộng gồm 57 phường, xã. Diện tích tự nhiên: 1.255,53km².với vị trí địa lý phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên – Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp Biển Đông.

Đà Nẵng hiện là trung tâm tài chính lớn nhất của khu vực miền Trung – Tây Nguyên, có các khu công nghiệp vừa và lớn là một thành phố du lịch với sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại hình dịch vụ.. phục vụ nhân dân; nhờ đó đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng lên rõ rệt….

Các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của Đà Nẵng nêu trên có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của VKSND trên địa bàn thành phố kể cả ở góc độ ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn Đà Nẵng

Tổ chức bộ máy VKSND hai cấp thành phố Đà Nẵng gồm có: tại VKSND thành phố Đà Nẵng có 11 Phòng nghiệp vụ và tương ứng với 08 quận, huyện là VKSND các quận Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ và huyện Hòa Vang, Hoàng Sa. Biên chế làm việc của VKSND hai cấp thành phố Đà Nẵng, gồm: 223 người, trong đó có 189 người trong biên chế và 34 nhân viên làm việc theo hợp đồng lao động. Số lượng Kiểm sát viên là 105 người, trong đó: trung cấp là 40 người, sơ cấp là 65 người.

2.2. Kết quả thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Từ năm 2010 đến 2014, kết quả xử lý tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố bằng thủ tục tố tụng hình sự như:

– Khởi tố vụ án hình sự là 2.849 vụ án, chỉ chiếm 58,90% trong tổng số tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố tiếp nhận được (2.849 vụ án/4.837 tin);

– Không khởi tố vụ án hình sự là 581 trường hợp, chiếm 12,01% trong tổng số tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố tiếp nhận được (581/4.837).

– Hàng năm VKSND hai cấp luôn đề ra chỉ tiêu cụ thể để phấn đấu thực hiện. Năm 2015, tỷ lệ giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố phải đạt từ 90% trở lên; Phòng 1, Phòng 2 và các VKSND các quận, huyện trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố của các cơ quan tư pháp; đồng thời phải chủ động trong quan hệ phối hợp với các ngành, định kỳ 6 tháng, 1 năm tổng hợp báo cáo Thường trực các quận, huyện ủy và VKSND thành phố; định kỳ hàng năm VKSND thành phố báo cáo cho Thường trực Thành ủy để có biện pháp chỉ đạo nhằm tạo hiệu quả công tác này để bảo đảm việc tiếp nhận, phân loại, xử lý theo đúng quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003, nhất là hạn chế việc bỏ lọt tội phạm.

– Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã ban hành tổng số 154 văn bản kiến nghị, yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan liên quan khắc phục các vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.

2.3. Những hạn chế, vướng mắc

2.3.1. Những hạn chế, vướng mắc do quy định của văn bản pháp luật

Vướng mắc những quy định của BLTTHS năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003 so với quy định tại Điều 12 Luật tổ chức VKSND năm 2014 về trình tự thủ tục, thẩm quyền, thời hạn … và thực hiện các các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố:

– Việc thống nhất quan điểm giải quyết và thực hiện thông báo này bằng cách thức nào chưa có quy định cụ thể nên sẽ dẫn đến việc tùy tiện có thể kéo dài thêm thời gian xử lý giải quyết.

– Trong việc quyết định trưng cầu giám định, định giá; quyết định khai quật tử thi để nhằm thu thập chứng minh và đánh giá chứng cứ, nhưng gặp trường hợp phức tạp cần phải có thời gian giám định, thành phần tham gia … nên dẫn đến vi phạm thời hạn.

– Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng là những cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, TBVTP nhưng chưa có quy định đó là những cơ quan có nhiệm vụ giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố.

Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc tổ chức thực hiện

– Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát còn tình trạng thụ động, trong công tác phối hợp.

– Chất lượng công tác kiểm sát trực tiếp việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố còn hạn chế: không phát hiện được các vi phạm để kiến nghị, yêu cầu khắc phục.

– Hệ thống biểu mẫu thống kê liên ngành còn thiếu chỉ tiêu về tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố dẫn đến việc quản lý và đánh giá tình hình tội phạm thiếu chính xác;

– Không ít cán bộ Lãnh đạo, Kiểm sát viên VKS còn tình trạng thụ động chờ việc, chưa có biện pháp để nắm đầy đủ số tin báo, tố giác mà CQĐT đã tiếp nhận, thụ lý, giải quyết nên không kiểm sát được chặt chẽ hoạt động này của CQĐT, vẫn còn tư tưởng ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý” trong khi thực hiện nhiệm vụ.

2.3.3. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Trong việc phê chuẩn lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp và quyết định gia hạn tạm giữ về hình sự hay hủy bỏ quyết định tạm giữ về hình sự

Thủ tục phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp do người chỉ huy tàu bay, tàu biển ra lệnh khi tàu bay đang bay trên bầu trời, tàu biển đang ở ngoài biển… và việc ra quyết định tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, việc gia hạn tạm giữ chưa hoàn thiện và chặt chẽ, còn có sự chồng chéo hoặc chưa bao trùm hết các giai đoạn tố tụng; điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho theo dõi, quản lý người sau khi bị bắt không được đảm bảo.

Trong việc việc phê chuẩn hoặc hủy các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân và các quyết định tố tụng khác của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Các trường hợp áp dụng một số biện pháp phải có Lệnh khám xét, Lệnh thu giữ …phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thực tế thì Cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng các biện pháp này rất phổ biến nhưng VKS không phê chuẩn là do thực hiện trong trường hợp không thể trì hoãn…

Trong việc đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện

Việc CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát là những hoạt động trong quá trình điều tra vụ án khi đã có quyết định khởi tố vụ án và VKS chỉ thực hiện các nội dung này thông qua chức năng kiểm sát như hướng dẫn tại Điều 14 của Thông tư liên tịch số 06 năm 2013. Trong khi đó Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định chức năng này trong công tác thực hành quyền công tố.

Trong việc trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục

Mức độ như thế nào là nghiêm trọng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn quy định và việc khắc phục vi phạm này của CQĐT là trong thời điểm cụ thể như thế nào của quá trình giải quyết, nếu đến lúc hết thời hạn CQĐT ra kết quả giải và phát hiện không khắc phục thì VKS mới được trực tiếp giải quyết dẫn đến vi phạm về thời hạn…

Trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để THQCT theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội

Viện kiểm sát nhân dân ban hành kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khi THQCT buộc các chủ thể là đối phải thực hiện theo các nội dung này của VKS nên sẽ làm ảnh hưởng tới quan hệ phối hợp giữa VKSND với các cơ quan là đối tượng thực hiện nhiệm vụ kiểm sát, chính điều này nhiều khi vì sợ ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp.

2.4. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc

2.4.1. Nguyên nhân từ bất cập trong quy định của pháp luật

Vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố bắt đầu từ đâu của quá trình tố tụng không nêu rõ tại BLTTHS năm 2003.

Về thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp và thẩm quyền ra quyết định tạm giữ theo quy định tại Điều 81 và Điều 86 BLTTHS năm 2003 là không phù hợp.

Về thực hiện yêu cầu kiểm tra, xác minh và thực hiện yêu cầu khi THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố trong BLTTHS năm 2003.

2.4.2. Nguyên nhân khác

Một số Cơ quan điều tra và VKS chưa thật sự coi trọng công tác tiếp nhận và giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố cũng như vai trò THQCT trong công tác này

Cán bộ, KSV, Điều tra viên phải thực hiện nhiều nhiệm vụ công tác của ngành, cùng với cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác của còn chưa đáp ứng đủ. Công tác giám định cũng như các công tác bổ trợ tư pháp khác còn nhiều bất cập, hạn chế. Các cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp thành phố Đà Nẵng có lúc chưa quan tâm đúng mức đến công tác này.

Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức với một vài VKSND quận, huyện trong việc cung cấp thông tin về tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố chưa hiệu quả, còn hình thức.

Kết luận chương 2

Chương 3

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

3.1.1. Về tình hình tội phạm

Trong thời gian tới, các loại tội phạm sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp do ảnh hưởng của tình hình lạm phát tăng, tình trạng thất nghiệp, thị trường tài chính, bất động sản còn nhiều bất ổn… Cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm sẽ ngày càng khó khăn hơn nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực phòng ngừa, khám phá các vụ án mang tính chất quốc tế, phạm tội có sử dụng bạo lực nhằm mục đích chính trị hay vụ lợi cá nhân. Người phạm tội sẽ lợi dụng kiến thức về pháp luật, quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm, thủ đoạn hoạt động phạm tội … để che giấu hành vi tội phạm nhằm đối phó với hoạt động của các cơ quan điều tra.

3.1.2. Việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Khối lượng công việc của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố sẽ nhiều hơn và việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong công tác này phải tăng cường thường xuyên hơn.

Công tác giám định tư pháp còn gặp nhiều khó khăn, đội ngũ giám định viên tư pháp vừa thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ; đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên còn thiếu, chất lượng còn hạn chế; công tác đào tạo bồi dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm KSV, Điều tra viên chưa có sự đổi mới mạnh mẽ, còn nhiều bất cập.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

3.2.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Điều 101 Bộ luật TTHS về tố giác và TBVTP theo hướng quy định đầy đủ hơn về tên điều luật và nội dung của điều luật

– Bổ sung tên Điều 101 BLTTHS thành: Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Quy định rõ thẩm quyền “tiếp nhận” và thẩm quyền “giải quyết” tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và thẩm quyền giải quyết.

Thứ hai, bổ sung điều luật quy định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP, kiến nghị khởi tố

– Mọi tố giác, TBVTP, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời theo đúng quy định của Bộ luật này.

– Các cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1 Điều 136 của Bộ luật này không được từ chối tiếp nhận tố giác, TBVTP, kiến nghị khởi tố; có trách nhiệm áp dụng hoặc đề nghị áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đã tố giác tội phạm và người thân thích của họ.

– Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, TBVTP, kiến nghị khởi tố phải thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung Điều 103 Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo hướng tách thành hai điều luật độc lập

– Một điều luật quy định về: Thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố quy định đầy đủ, cụ thể hơn

– Một điều luật quy định về: Thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố quy định nội dung được sửa đổi, bổ sung.

Thứ tư, bổ sung điều luật quy định giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm khắc phục sự đùn đẩy trách nhiệm cho nhau

1. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết.

2. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Cơ quan điều tra cấp khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện kiểm sát cấp tỉnh, cấp quân khu nơi tiếp nhận đầu tiên tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giải quyết.

3. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết

Thứ năm, bổ sung điều luật quy định việc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Trong đó quy định cụ thể về những trường hợp quyết định tạm đình chỉ khi đã hết thời hạn, thời hạn thủ tục gửi quyết định này cho VKS và cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; đồng thời cũng quy định về trình tự thủ tục quyết định phục hồi giải quyết tố giác, TBVTP, kiến nghị khởi tố.

Thứ sáu, bổ sung điều luật quy định về nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho phù hợp với quy định tại Điều 12 Luật tổ chức VKSND năm 2014

Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung, thêm mới một số nội dung các Điều luật quy định về bắt khẩn cấp, tạm giữ, gia hạn tạm giữ cho phù hợp với quy định nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

3.2.2. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự

Sửa đổi, bổ sung và ban hành các Thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn

– Quy định về thực hiện yêu cầu, kiểm tra, xác minh; các trường hợp phê chuẩn bắt có tạm giữ và gia hạn tạm giữ đối tượng là người có đặc điểm riêng…về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan.

Sửa đổi và ban hành mới Quy chế nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân

Ban hành 02 Quy chế riêng trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn như: Quy chế về công tác THQCT trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố và Quy chế công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố.

3.3. Các giải pháp khác

3.3.1. Tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và sự giúp đỡ chính quyền địa phương

Tham mưu cho Cấp uỷ ra nghị quyết chuyên đề về tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố, trên cơ sở đó CQĐT, Viện kiểm sát và một số ngành liên quan ban hành nhiều Quy chế phối hợp liên quan đến công tác này và tranh thủ được sự ủng hộ của UBND cùng cấp trong việc hỗ trợ kinh phí phục vụ cho công tác nghiệp vụ và kinh phí cho hoạt động phối hợp liên ngành.

3.3.2. Tăng cường xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan điều tra cùng cấp trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Viện kiểm sát cần chủ động bàn bạc với CQĐT trong việc xây dựng và thực hiện hiệu quả Quy chế phối hợp giữa hai ngành, trong đó có những quy định cụ thể về các nội dung trong việc giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố… phù hợp với quy định của pháp luật và của từng địa phương.

3.3.3. Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất

Tổ chức cán bộ và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị làm việc phải được tiến hành thường xuyên trên cơ những giải pháp vững chắc, khoa học và mang tính hiệu quả cao mới tạo điều kiện cho các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ được thuận lợi.

3.3.4. Chế độ giám sát đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

Việc giám sát hoạt động của hệ thống VKSND thông qua hình thức giám sát bên trong và bên ngoài.  

Kết luận chương 3

KẾT LUẬN

Hoạt động thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ khác của Viện kiểm sát nhân dân. 

Luận văn đã phân tích, đánh giá và đưa ra được những khái niệm về: Tin báo, tố giác về tội phạm; Kiến nghị khởi tố; các khái niệm về THQCT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố.

Luận văn là kết quả khảo sát những vấn đề liên quan đến công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong công tác này trên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trên cơ sở số liệu từ năm 2010 đến năm 2014 và số liệu trong 06 tháng đầu năm 2015 do Văn phòng – VKSND thành phố Đà Nẵng cung cấp và đưa ra được những giải pháp thiết thực, cụ thể để đổi mới, hoàn thiện công tác này nhằm thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong thời gian tới.

Những kết quả mà Luận văn đạt được sẽ đóng góp tích cực cho các hoạt động THQCT và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, TBVTP và kiến nghị khởi tố của VKSND thành phố Đà Nẵng nói riêng, và ngành KSND nói chung, ngày càng có hiệu quả, chất lượng; bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội và đảm bảo tăng cường công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, hội nhập quốc tế ./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CUA NGUYEN\LUAN VAN NGUYEN TUONG TAM

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *