Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bình Định là tỉnh ven biển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, là cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng Nam Lào. Diện tích tự nhiên 6.047,2 km2 gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 09 đơn vị hành chính cấp huyện, với dân số gần 1,5 triệu người, có 94,5% là dân tộc Kinh, gần 5,5% dân số là dân tộc ít người (trong đó chủ yếu là dân tộc Chăm, Bana, Hrê …). Dân số thành thị chiếm 58,2%. Dân số 15 tuổi trở lên hơn 1,09 triệu người chiếm tỷ lệ 72,94 % trong tổng dân số. Trong đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm do người CTN thực hiện, một vấn đề quan trọng là cần nghiên cứu làm rõ nhân thân người CTN phạm tội, bởi nhân thân người CTN phạm tội giữ vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người CTN phạm tội trước hết giúp chúng ta có thể định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác. Một hình phạt chính xác sẽ không chỉ có tác dụng phòng, ngừa riêng (ngăn ngừa tái phạm tội) mà còn có tác dụng phòng ngừa chung đối với toàn xã hội. Nghiên cứu nhân thân người CTN phạm tội còn giúp xác định được đầy đủ, chính xác và toàn diện các nguyên nhân của tình hình tội phạm, qua đó giúp cho việc đề xuất các giải pháp hữu hiệu trong phòng ngừa tình hình tội phạm do người CTN thực hiện. Nghiên cứu làm rõ nhân thân người CTN phạm tội sẽ giúp cho quá trình giáo dục, cải tạo người CTN phạm tội một cách tốt nhất, giúp họ nhanh chóng tiến bộ để trở lại với đời sống xã hội, cống hiến tuổi trẻ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Vì những lý do trên đây, học viên chọn đề tài: “ Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Qua nghiên cứu nhân thân người CTN phạm tội trong giai đoạn 2010 đến năm 2014. Từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm do người CTN thực hiện ở tỉnh Bình Định, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm trên phạm vi toàn tỉnh, cũng như cả nước. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:: Nghiên cứu khái quát lí luận chung về nhân thân người CTN phạm tội; Nghiên cứu làm rõ các đặc điểm của nhân thân và nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người CTN phạm tội ở tỉnh Bình Định; Kiến nghị, đề xuất các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm do người CTN thực hiện ở tỉnh Bình Định từ khía cạnh nhân thân.

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Thông qua thực tiễn tình hình tội phạm do người CTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định, đề tài tập trung nghiên cứu nhân thân người CTN phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2010 đến 2014; những nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người CTN phạm tội và những biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm do người CTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định. Đề tài nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Quá trình nghiên cứu, đề tài có sử dụng các tri thức của các khoa học có liên quan, như Tâm lí học, Xã hội học, Giáo dục học, Đạo đức học… Đề tài nghiên cứu nhân thân của những người CTN phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Định, giai đoạn từ năm 2010 đến 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê nin về phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thanh niên, về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm do người CTN thực hiện nói riêng. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học, như: phương pháp hệ thống, thống kê, lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo để rút ra được những kết luận có tính lý luận và thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về nhân thân người CTN phạm tội, kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung lý luận về nhân thân người CTN phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như lý luận về Tội phạm học.

Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là những tài liệu quan trọng giúp các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Định đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm do người CTN, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động phòng, chống tội phạm nói chung trong phạm vi toàn tỉnh Bình Định. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo luật.

7. Cơ cấu của Luận văn

Cơ cấu của Luận văn gồm: Lời nói đầu, Nội dung, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của Luận văn được chia làm 3 chương.

Chương 1. Khái quát chung về nhân thân người chưa thành niên phạm tội

Chương 2. Các đặc điểm của nhân thân và nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người chưa thành niên phạm tội tại tỉnh Bình Định

Chương 3. Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện tại tỉnh Bình Định từ khía cạnh nhân thân

Chương 1

KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

1.1. Khái niệm và các đặc điểm của nhân thân người chưa thành niên phạm tội

1.1.1. Khái niệm về nhân thân người chưa thành niên phạm tội

1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội

Hiện nay chưa có một định nghĩa về “người CTN phạm tội” được ghi nhận trong Bộ luật hình sự.Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Bộ luật Hình sự nước ta không định nghĩa về người CTN mà chỉ quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12:“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

1.1.1.2. Khái niệm nhân thân người chưa thành niên phạm tội

* Nhân thân người phạm tội được hiểu là: Tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu, các đặc tính quan trọng thể hiện bản chất xã hội của con người khi vi phạm pháp luật hình sự, mà trong sự kết hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến xử sự phạm tội của người đó

* Khái niệm nhân thân người chưa thành niên phạm tội

Nhân thân người CTN phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của người CTN khi đã thực hiện một hành vi bị coi là tội phạm. Đó là các đặc điểm, dấu hiệu sinh học, nhân khẩu học, các đặc điểm về xã hội học, đạo đức, tâm lý của người CTN.

1.1.2.1. Các đặc điểm của nhân thân người chưa thành niên phạm tội

1.1.2.2. Nhóm đặc điểm sinh học

1.1.2.3. Nhóm đặc điểm tâm lý

1.1.2.4. Nhóm đặc điểm xã hội

1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội

Nghiên cứu nhân thân người chưa thành niên phạm tội có ý nghĩa rất lớn trong định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác.

1.3. Quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người chưa thành niên phạm tội

Trong cơ chế hành vi phạm tội các đặc điểm nhân thân con người có vai trò rất lớn. Các đặc điểm nhân thân tiêu cực, đặt trong những tình huống tiêu cực thuận lợi sẽ dễ làm phát sinh hành vi phạm tội hơn những người có đặc điểm nhân thân tốt và ngược lại. Vì vậy nghiên cứu quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực có vai trò quan trọng trong phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân thân. Như đã trình bày ở trên, nhân thân người CTN phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của người bao gồm các đặc điểm về sinh học, nhân khẩu học, các đặc điểm về xã hội học, đạo đức, tâm lý.

1.3.1. Vai trò của các yếu tố khách quan

1.3.1.1. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình

Gia đình là môi trường quan trọng đầu tiên hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người. Nếu môi trường gia đình không an toàn, không lành mạnh, thì chính những yếu tố tiêu cực trong môi trường gia đình sẽ tác động, làm hình thành những đặc điểm nhân cách lệch lạc của người CTN. Chính những đặc điểm nhân cách lệch lạc này khi gặp tình huống cụ thể thuận lợi sẽ làm phát sinh hành vi phạm tội. Những yếu tố tiêu cực, hạn chế trong môi trường gia đình có các biểu hiện cụ thể như: quá nuông chiều con cái, thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái, khuyết thiếu, không hạnh phúc, thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau, có người thân vi phạm pháp luật hoặc phạm tội.

1.3.1.2. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường giáo dục

Chưa có sự quản lí chặt chẽ học sinh, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lí học sinh.

Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, hiểu biết pháp luật và các kỹ năng sống.

Tình trạng gia tăng tình trạng bạo lực học đường và quấy rối tình dục.

1.3.1.3. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường kinh tế – xã hội vĩ mô

Cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn nhiều mặt trái, như sau:

* Tâm lý coi trọng đồng tiền, sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức

Nền kinh tế thị trường luôn có mặt trái là tâm lý coi trọng đồng tiền, sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức… Vì đồng tiền mà một số người sẵn sàng thực hiện các hành vi trái đạo đức, trái pháp luật như buôn bán hàng giả, hàng cấm, buôn gian, bán lận, buôn bán ma túy, giết người thuê, cố ý gây thương tích thuê.

* Tâm lý sống gấp, ăn chơi, đua đòi, nghiện bia rượu, cờ bạc, ma túy

Tác động của quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng tạo ra nhiều biến chuyển tích cực cho kinh tế – xã hội của địa phương nhưng cũng tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến tình hình tội phạm.

* Tâm lý ưa thích sử dụng bạo lực, dục vọng thấp hèn

Kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế đã làm cho nhiều sản phẩm văn hóa độc hại du nhập, nhất là game bạo lực, tình dục đã ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tâm sinh lý, gây ra sự lệch lạch về đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh, thiếu niên để thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân mà một số người đã gây ra những vụ án hiếp dâm, giết người, cố ý gây thương tích…

2.2.1.4. Những hạn chế, yếu kém trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội và quản lý hành chính

* Những hạn chế, bất cập trong quản lý kinh tế

Thời gian qua, một số chính sách, giải pháp chưa được thực hiện triệt để, nhất là chính sách xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách phát triển nông thôn, cho vay vốn… vẫn còn nhiều điểm bất cập chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu hiệu quả…

* Những hạn chế, bất cập trong quản lý văn hóa

Quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa cũng bộc lộ những hạn chế. Các sản phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy, bạo lực, băng đĩa, truyện ngôn tình mang tính kích dục… chưa được quản lý, kiểm duyệt chặt chẽ. Thậm chí một số được bày bán một cách công khai mà rất ít trường hợp bị các cơ quan chức năng thu giữ, xử phạt.

Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định
Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định

1.3.2. Những yếu tố thuộc mặt chủ quan

1.3.2.1. Ý thức, thái độ

Nền kinh tế thị trường dẫn đến sự coi nhẹ đạo đức, nhân cách, từ đó một bộ phận cũng có những ý thức, thái độ tiêu cực. Cuộc sống đầy đủ nên nhiều trẻ em không còn ý thức học tập, ý thức vươn lên, ý thức hoàn thiện mình. Thái độ khiêm tốn, học hỏi dần bị thay thế bằng thái độ kiêu căng, hợm hĩnh coi mình là giàu có, thuộc tầng lớp trên trong xã hội, coi khinh người nghèo, coi khinh người lao động. Chính thái độ này làm cho một số người không chịu học tập nâng cao tri thức, tiếp thu cái tốt mà ngược lại, thiếu học vấn cùng với thói kiêu căng, ngạo mạn dễ thúc đẩy họ vào con đường phạm tội.

1.3.2.2. Sai lệch về sở thích

Sở thích hay còn gọi là thú vui, thú tiêu khiển là những hoạt động thường xuyên hoặc theo thói quen để đem lại cho con người niềm vui, sự phấn khởi trong khoảng thời gian thư giãn. Những thói quen, sở thích không lành mạnh nhiều khi dẫn đến hành vi phạm tội. Thực tế chứng minh, nhiều trường hợp đối tượng có sở thích đọc sách, xem băng, đĩa có nội dung độc hại, khiêu dâm; thích chơi những trò chơi mang tính bạo lực trên mạng internet, thích xem những bộ phim về xã hội đen… những sở thích này sẽ kích thích, làm cho chủ thể không làm chủ được bản thân mình mà dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội. Những thói quen sử dụng rượu bia, sử dụng ma túy…sẽ dễ dẫn đến những tình trạng hưng phấn, mất kiểm soát và dễ dẫn đến hành vi phạm tội.

1.3.2.3. Sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu

Mỗi con người luôn có những nhu cầu đòi hỏi trong cuộc sống hàng ngày. Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nếu nhu cầu của chủ thể bị sai lệch, vượt quá khả năng cuộc sống cộng với cách thức thỏa mãn nhu cầu cũng sai lệch thì tất yếu dẫn đến hành vi phạm tội. Ví dụ mong muốn có xe máy, ô tô trong khi điều kiện gia đình khó khăn, khi gặp những tình huống thuận lợi như người có tiền, có xe mất cảnh giác, những người này sẵn sàng trộm cắp để thỏa mãn nhu cầu cá nhân.

1.3.2.4. Những hạn chế thuộc về ý thức pháp luật cá nhân

Những sai lệch trong ý thức pháp luật của cá nhân cũng là một trong các yếu tố tác động trong cơ chế làm phát sinh tội phạm, biểu hiện sai lệch trong ý thức pháp luật của cá nhân ở các hình thức sau: * Ấu trĩ pháp luật: Ấu trĩ về pháp luật chính là sự ngộ nhận về hiểu biết pháp luật. Hiện nay, yếu tố ấu trĩ về pháp luật là rất phổ biến, nếu xem xét ý thức pháp luật của cá nhân có hai tầng, một là tri thức pháp luật và hai là tâm lý pháp luật, thì các thiếu hụt ở những người phạm tội của nước ta thường nằm ngay ở tầng tri thức pháp luật, nghiên cứu đặc điểm này, chính là cơ sở để có thể nêu ra biện pháp phòng ngừa thích hợp. Ấu trĩ về pháp luật lại đối mặt với những xung đột về tâm lý và pháp lý là đặc điểm thứ hai thuộc về kích thích phương tiện .

* Hư vô pháp luật: Khi Ấu trĩ về pháp luật, thiếu tri thức pháp luật thì có thể dẫn đến hư vô pháp luật. Hư vô có nghĩa là “Không phải không, cũng không phải có”.Thực tế hiện nay, một số người không thể có thái độ pháp lý đúng đắn, đối với các hiện tượng tiêu cực trước mắt trong đời sống hàng ngày, được phản ánh trên báo chí, cũng như đối với các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác.

* Xem thường các nghĩa vụ – xem thường pháp luật.

Với tính chất của nền kinh tế đất nước ta hiện nay, phần lớn dân cư đã và đang gắn bó với nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, với những tập tục phức tạp, rườm rà, do vậy ý thức pháp luật của nhiều người dân còn thấp, chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp luật. Một số người còn xem pháp luật như là một sự trói buộc, thường tìm cách trốn tránh, bất tuân pháp luật và đã trở thành thói quen, ăn sâu, bám rễ trong ý thức của nhiều người. Cùng với ấu trĩ pháp luật và hư vô pháp luật dẫn đến xem thường các nghĩa vụ, trong họ luôn tiềm ẩn khuynh hướng tìm mọi cách để lẩn tránh luật pháp, tìm ra những kẽ hở, hạn chế của pháp luật để khi có cơ hội thì vụ lợi.

* Chống đối pháp luật: Sai lệch này được biểu hiện chủ yếu ở những người phạm tội tái phạm. Những người này đã biết những điều cấm được quy định trong Bộ Luật hình sự, đã bị gia đình, bạn bè, nhà trường, xã hội lên án, đã bị xét xử bằng một bản án hình sự và chấp hành hình phạt theo quy định, thế nhưng họ vẫn có hành vi chống đối pháp luật, phạm tội chống người thi hành công vụ.

Kết luận chương 1

Chương 2

CÁC ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN VÀ NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH CÁC ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN TIÊU CỰC CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH

2.1. Khái quát tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện tại tỉnh Bình Định giai đoạn từ năm 2010 đến 2014

2.1.1. Khái quát thực trạng của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện tại tỉnh Bình Định giai đoạn từ năm 2010 đến 2014

Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm do người CTN thực hiện là số lượng các tội phạm đã thực hiện và những người CTN thực hiện các tội phạm đó ở địa bàn tỉnh Bình Định và trong khoảng thời gian từ năm 2010 – 2014. tiến tới đẩy lùi, loại bỏ tình hình tội phạm do người CTN thực hiện ra khỏi đời sống xã hội. Theo thống kê hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, từ năm 2010 đến năm 2014 Tòa án nhân dân các cấp của tỉnh Bình Định đã đưa ra xét xử sở thẩm 7.462 bị cáo, trong đó 684 bị cáo là người CTN, (chiếm 9,16% tổng số bị cáo). Điều đó có nghĩa là cứ 100 bị cáo bị đưa ra xét xử thì có tới 9 bị cáo là người CTN. Nếu tính số tuyệt đối thì trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2010 – 2015 có khoảng 137 bị cáo là người CTN phạm tội.

2.1.2. Khái quát diễn biến của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện tại tỉnh Bình Định giai đoạn từ năm 2010 đến 2014

Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, từ năm 2010 đến năm 2014, số tội phạm do người CTN thực hiện có chiều hướng gia tăng khá đều đặn. Trong đó hai năm gần đây, số lượng người chưa thành niên gia tăng đáng kể. Đặc biệt, năm 2014 là năm tình hình tội phạm CTN có sự gia tăng đột biến hơn 163% so với năm 2010. Đây là một diễn biến đáng báo động trong tình hình tội phạm do người CTN thực hiện ở Bình Định.

2.1.3. Khái quát cơ cấu của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện tại tỉnh Bình Định giai đoạn từ năm 2010 đến 2014

Để có thể nhận thức một cách toàn diện tình hình tội phạm do người CTN thực hiện ở Bình Định, cần phải nghiên cứu một số cơ cấu cơ bản của tình hình tội phạm do người CTN thực hiện ở Bình Định.

2.1.3.1. Cơ cấu theo tội danh

Qua thống kê cho thấy, người CTN ở Bình Định giai đoạn 2010 – 2014 phạm tội nhiều nhất là Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác (Đ104) với 152 bị cáo (chiếm 22,22%). Tiếp theo là Tội trộm cắp tài sản (Đ138) với 684 bị cáo (chiếm 21,49%). Đứng thứ ba là Tội cướp tài sản (Đ133) với 106 bị cáo (chiếm 15,49%). Đáng chú ý là mặc dù các tội phạm do người CTN thực hiện chỉ tập trung ở 16 tội danh, nhưng trong đó lại có một số tội nghiêm trọng như giết người, mua bán, tang trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy. Tội giết người (Đ93) có tới 27 bị cáo (chiếm 3,94; Tội hiếp dâm (Đ111) và Tội hiếp dâm trẻ em (Đ112) có 25 bị cáo là người CTN (chiếm 3,65%).

2.1.3.2. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội

Theo số liệu của Viện KSND tỉnh Bình Định thống kê về tội phạm do người CTN thực hiện từ năm 2010 đến năm 2014 thì địa bàn người CTN phạm tội đứng đầu cả tỉnh là thành phố Quy Nhơn với 162 người, chiếm 23,68%; tiếp theo là huyện Hoài Nhơn với 108 người, chiếm 15,78%; tiếp theo là huyện An Nhơn với 95 người, chiếm 13,88%; huyện Tuy Phước đứng thứ 4 với 82 người, chiếm 11,98%.

2.1.3.3. Cơ cấu theo công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội

Theo số liệu của Viện KSND tỉnh Bình Định thống kê về tội phạm do người CTN thực hiện từ năm 2010 đến năm 2014 thì người CTN phạm tội có sử dụng công cụ, phương tiện phạm tội chiếm 65,7% trên tổng số vụ án mà do người CTN thực hiện, số người CTN phạm tội không sử dụng công cụ, phương tiện chỉ chiếm 34,3%.

2.2. Cơ cấu của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện tại tỉnh Bình Định giai đoạn từ năm 2010 đến 2014 theo các đặc điểm nhân thân

2.2.1. Cơ cấu theo độ tuổi

Trong cơ cấu tình hình người CTN phạm tội giai đoạn 2010 – 2014 ở Bình Định, số người CTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là 287 bị báo (chiếm 41,9 %); số người CTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là 397 bị cáo (chiếm 58,1%). Điều này cũng cho thấy tình hình tội phạm do người CTN thực hiện ở Bình Định khá nghiêm trọng vì số người dưới 16 tuổi phạm tội chiếm gần một nửa tổng số người CTN phạm tội toàn tỉnh.

2.2.2. Cơ cấu theo giới tính

Trong số 684 bị cáo là người CTN trên địa bàn tỉnh Bình Định, thì người CTN phạm tội là nam giới là 655 bị cáo (chiếm 95,76 %) và nữ giới phạm tội chỉ có 16 bị cáo (chiếm 4,24%).

2.2.3. Cơ cấu theo dân tộc

Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung, dân số gần 1,5 triệu người, có 94,5% là dân tộc Kinh, gần 5,5% dân số là dân tộc ít người (trong đó chủ yếu là dân tộc Chăm, Bana, Hrê …). Dân số thành thị chiếm 58,2%. Dân số từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi khoảng hơn 0,41 triệu người chiếm tỷ lệ 27,33 % trong tổng dân số. Qua nghiên cứu trên địa bàn tỉnh cho thấy người CTN phạm tội là người Kinh chiếm tỉ lệ trên 96,1 %.Điều đặc biệt có những nhóm dân tộc như Bana sống ở vùng núi như huyện Vân Canh, An Lão trong 4 năm ( 2010-2014) không có người CTN phạm tội.

2.2.4. Cơ cấu theo hoàn cảnh gia đình

Số người CTN phạm tội sinh sống trong các gia đình quá nuông chiều con cái là 79 bị cáo (chiếm tỉ lệ 11,54%); Số người CTN phạm tội sinh sống trong các gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái là 85 bị cáo (chiếm tỉ lệ 12,42%); Số người CTN phạm tội sinh sống trong các gia đình khuyết thiếu là 220 bị cáo (chiếm tỉ lệ 32,25%); chỉ có 216 bị cáo là người CTN phạm tội sinh sống trong gia đình bình thường chiếm 31,57%; Số người CTN phạm tội sinh sống trong các gia đình thường xuyên cãi, chửi, đánh đập lẫn nhau là 69 bị cáo (chiếm tỉ lệ 10,08%). Số người CTN phạm tội trong các gia đình mà có những thành viên vi phạm pháp luật, buôn bán làm ăn phi pháp là 47 bị cáo (chiếm tỉ lệ 6,87%).

2.2.5. Cơ cấu theo trình độ học vấn

Trong tổng số người CTN phạm tội ở Bình Định giai đoạn 2010 – 2014 có tới 5,4% mù chữ, 80,3% trình độ tiểu học và số có trình độ THPT là 14,3%.

2.2.6. Cơ cấu theo thái độ học tập và kết quả học tập

Trong tổng số người CTN phạm tội ở Bình Định giai đoạn 2010 – 2014 số người có thái độ học tập tích cực, kết quả học lực khá chỉ chiếm 27 bị cáo (chiếm tỉ lệ 3,84%); còn lại 502 bị cáo (chiếm tỉ lệ 73,39%) là số người có ý thức học tập kém, thường xuyên bỏ học, tụ tập, chơi bời, chơi game, uống rượu, quậy phá. Theo thống kê của Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Bình Định, tính trong năm 2014 cả tỉnh Bình Định có hơn 1.781 học sinh bỏ học, nhiều gấp 1,5 lần so với tỷ lệ chung của cả nước.

2.2.7. Cơ cấu theo nghề nghiệp

Người chưa thành niên là những người còn ở độ tuổi đi học. Tuy nhiên vì một lý do hay một hoàn cảnh nào đó mà người CTN thực hiện tội phạm, cho nên đa số những người này chưa có nghề nghiệp ổn định. Nghiên cứu 684 bị cáo là người CTN phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Định, thì số người CTN phạm tội đang đi học, bỏ học, không nghề nghiệp, có nghề nghiệp không ổn định là 623 bị cáo chiếm tỉ lệ 91% ( trong đó đang đi học: 198 bị cáo, có nghề nghiệp không ổn định: 211 bị cáo và bỏ học, không nghề nghiệp: 214 bị cáo) và chỉ có 61 bị cáo người CTN phạm tội có nghề nghiệp và thu nhập ổn định (chiếm khoảng 9%).

2.2.8. Cơ cấu theo động cơ phạm tội, số lần phạm tội

Trong tổng số người CTN phạm tội ở Bình Định giai đoạn 2010 – 2014 số người phạm tội có động cơ thỏa mãn nhu cầu vật chất để ăn chơi, đua đòi là 289 bị cáo (chiếm tỉ lệ 42,25%);Số người phạm tội có động cơ thỏa mãn nhu cầu nghiện ma túy là 79 bị cáo (chiếm tỉ lệ 11,54%); Số người phạm tội có động cơ thỏa mãn nhu cầu tình dục thấp hèn là 39 bị cáo (chiếm tỉ lệ 5,70%);Số người phạm tội có động cơ trả thù là 107 bị cáo (chiếm tỉ lệ 15,64%); Số người phạm tội có động cơ thích thể hiện mình là 92 bị cáo (chiếm tỉ lệ 13,45%);Về số lần phạm tội: Số người CTN phạm tội lần đầu chiếm 58% với 397 bị cáo, tái phạm chiếm 42% với 287 bị cáo.

2.2.9. Cơ cấu theo sở thích chơi bời, đàn đúm nghiện game, nghiện sex, nghiện rượu, ma túy, ưa sử dụng bạo lực, thích sử dụng võ thuật

Qua nghiên cứu thực tế hồ sơ tất cả các bị cáo là người CTN phạm tội giai đoạn năm 2010 đến năm 2014 trên địa bàn tỉnh tỉ lệ bị cáo nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện chất kích thích khác chưa đến 10% trên tổng số các bị cáo là người CTN phạm tội. Sở thích chơi bời, đàn đúm, nghiện game: là 114 bị cáo (chiếm tỉ lệ 16,66%). Ưa sử dụng bạo lực, thích sử dụng võ thuật: Qua nghiên cứu 684 bị cáo là người CTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định, thì người CTN phạm tội cố ý gây thương tích và giết người chiếm tỉ lệ cao nhất đến 26,16 % trên tổng số bị cáo do người CTN thực hiện.

2.3. Nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người chưa thành niên phạm tội tại tỉnh Bình Định

2.3.1. Các nguyên nhân khách quan

2.3.1.1. Các yếu tố tiêu cực trong gia đình

– Gia đình quá nuông chiều con cá.

– Gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái.

– Gia đình khuyết thiếu.

– Gia đình không hạnh phúc, thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau.

– Gia đình có người thân vi phạm pháp luật hoặc phạm tội.

– Gia đình có phương pháp giáo dục chưa đúng.

2.3.1.2. Các yếu tố tiêu cực từ môi trường giáo dục

– Chưa có sự quản lí chặt chẽ học sinh, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.

– Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, hiểu biết pháp luật và các kỹ năng sống.

– Tình trạng gia tăng tình trạng bạo lực học đường và quấy rối tình dục trong nhà trường.

2.3.1.3. Các yếu tố tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị trường

Những hạn chế, bất cập trong quản lý kinh tế

Những hạn chế, bất cập trong quản lý văn hoá.

2.3.2. Các nguyên nhân chủ quan

Như chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trường đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, giá trị đạo đức vốn được coi là truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, hiện tượng suy đồi đạo đức, xem thường pháp luật của người CTN nó xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân chủ quan của người chưa thành niên.

2.3.2.1. Sự coi thường các giá trị đạo đức, pháp luật

Thực tế cho thấy trong đời sống xã hội hiện nay có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị đạo đức, pháp luật. Cho thấy sự suy đồi về đạo đức, sự coi thường pháp luật, sự cảm dỗ vật chất mà người CTN đã sẵn sàng thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng.

2.3.2.2. Tâm lý coi trọng đồng tiền, sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức

Nền kinh tế thị trường luôn có mặt trái là tâm lý coi trọng đồng tiền, sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức… Vì đồng tiền mà một số người sẵn sàng thực hiện các hành vi trái đạo đức, trái pháp luật như buôn bán hàng giả, hàng cấm, buôn gian, bán lận, buôn bán ma túy, giết người thuê, cố ý gây thương tích thuê.

2.3.2.3. Tâm lý sống gấp, ăn chơi, đua đòi, nghiện bia rượu, cờ bạc, ma túy

Lối sống gấp, chơi bời, cờ bạc rượu chè là một trong các nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội. Nhiều người CTN khi đã sử dụng bia rượu hoặc ma túy, nhất là ma túy đá, thì rất dễ bị kích động, thiếu kiềm chế, kiểm soát bản thân dễ dẫn đến hành vi phạm tội, có tiền ăn chơi bài bạc, hút hít ma tuý đối tượng là người CTN bất chấp việc làm phạm pháp.

2.3.2.4. Tâm lý ưa thích sử dụng bạo lực, dục vọng thấp hèn

Nghiên cứu các vụ án do người CTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định cho thấy, do ảnh hưởng của văn hóa độc hại du nhập, nhất là game bạo lực mà một số thanh niên thường thích sử dụng dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn dẫn đến những vụ án giết người, cố ý gây gây thương tích xảy ra; do sự xâm nhập của các văn hóa phẩm đồi trụy, game online kích ….

2.3.2.5. Hạn chế về hiểu biết pháp luật

Nghiên cứu tình hình phạm tội do người CTN thực hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian qua cho thấy những sai lệch trong ý thức pháp luật của người CTN đã trở thành nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình các tội phạm, biểu hiện ở các hình thức sau:

Ấu trĩ pháp luật: Ấu trĩ pháp luật là sự non nớt về pháp luật, ngộ nhận về hiểu biết pháp luật hoặc nhận thức về pháp luật kém do chưa được phổ biến, chưa có tri thức về pháp luật.

Hư vô pháp luật: Hư vô pháp luật là sự hiểu biết lơ mơ về pháp luật. Hư vô không phải không cũng không phải có, hiểu mà như không hiểu, hiểu biết một cách lệch lạc, mơ hồ về quy định pháp luật. Không hiểu biết hoặc có hiểu biết nhưng sự hiểu biết đó rất hạn chế, còn mơ hồ dẫn đến việc thực hiện hành phạm tội là điều tất yếu.

2.3.2.6. Coi thường đạo đức, pháp luật, chống đối pháp luật

Coi thường các giá trị đạo đức và ý thức chấp hành pháp luật kém.

Kết luận chương 2

Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định
Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN

3.1. Dự báo tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện tại tỉnh Bình Định trong thời gian đến

Dự báo tình hình tội phạm là sự phán đoán về thực trạng, diễn biến, tính chất của tình hình tội phạm có thể xảy ra trong tương lai, về nguyên nhân và điều kiện, về khả năng phòng, chống nó.

3.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện từ khía cạnh nhân thân

3.2.1. Kết quả đạt được

Phòng ngừa tình hình tội phạm từ khía cạnh nhân thân được hiểu là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp loại trừ các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống, tăng cường nhằm ngăn ngừa nguy cơ hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở những người phạm tội.

3.2.2. Những hạn chế, bất cập

Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật còn chưa thường xuyên và nội dung và phương pháp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật chưa thật sự phù hợp với từng đối tượng được tuyên truyền, còn nặng về lý luận, chưa đổi mới các hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.

3.3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm từ khía cạnh nhân thân

3.3.1. Các tác động tiêu cực trong gia đình

Quan tâm đến sự bền vững của gia đình, vì gia đình là nguồn gốc hình thành nhân cách con người. Một gia đình có cha mẹ tốt, gương mẫu, có văn hóa thì con trẻ thường có ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật cao, ít phạm tội và ít có hành vi chống đối pháp luật.

3.3.2. Các tác động tiêu cực từ môi trường giáo dục

Tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh và các hoạt động văn hóa, thể thao lành mạnh trong nhà trường, phải Tăng cường phối hợp trong giáo dục, quản lí học sinh.

3.3.3. Các tác động tiêu cực từ môi trường bạn bè

Những tác động tiêu cực từ môi trường bạn bè ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành các đặc điểm của nhân thân người CTN. Hàng ngày các em tiếp xúc, giao lưu với rất nhiều mối quan hệ xã hội trong đó thường xuyên tiếp xúc là bạn bè cùng trang lứa. Sự ảnh hưởng trong quan hệ bạn bè sẽ làm hình thành những tính cách cá nhân của người CTN. Vì vậy môi trường bạn bè có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành tính cách người CTN và hành vi ứng xử của người CTN. Khi các em giao tiếp với các phần tử xấu thì các em sẽ bị tiêm nhiễm những thói hư, tật xấu.

3.3.4. Các tác động tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị trường

Tăng cường các biện pháp ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua nền kinh tế của tỉnh Bình Định không ngừng phát triển, không những góp phần nâng cao đời sống nhân dân mà còn tạo ra những tiềm năng to lớn cho việc giải quyết các vấn đề xã hội liên quan trực tiếp đến vấn đề tội phạm, bởi vì tội phạm nói chung và tội phạm của người CTN nói riêng là hiện tượng xã hội, có mối liên quan đến nhiều hiện tượng, quá trình khác trong xã hội. Do đó ổn định và phát triển kinh tế là mục tiêu và cũng là trách nhiệm của toàn xã hội. Giải quyết tốt vấn đề phát triển kinh tế của tỉnh, và vấn đề vật chất của nhân dân thì cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm của người CTN sẽ có kết quả tốt và khả thi.

3.3.5. Các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội

Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm do người CTN thực hiện, nguyên tắc xử lý người CTN phạm tội có những đặc thù. Nguyên tắc của việc xử lý người CTN phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Do đó khi tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự có tác động rất lớn đến tâm lý của người CTN.

3.3.6. Các tác động tiêu cực từ môi trường văn hóa

Một trong những tiêu cực đáng lo ngại chính là xự xâm nhập của các luồng văn hóa phẩm độc hại, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận Nhân dân, nhất là thanh thiếu niên.

3.3.7. Tăng cường tuyên truyền giáo dục để khắc phục các thói quen, sở thích xấu

Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm do người CTN thực hiện, tỉnh Bình Định cần tăng cường tuyên truyền giáo dục để khắc phục các thói quen, sở thích xấu của người CTN. Việc xử lý người CTN phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự có tác động rất lớn đến tâm lý của người CTN. Nếu được tôn trọng và đối xử công bằng thì thường các em phản ứng theo khuynh hướng ăn năn, nhận ra lỗi lầm và chịu trách nhiệm về hành vi sai trái của mình.

3.4. Những kiến nghị về quản lý và xây dựng pháp luật xử lý người chưa thành niên phạm tội

Sự cần thiết phải lập Cơ quan điều tra, bộ phận kiểm sát điều tra, Toà án xét xử chuyên trách người CTN phạm tội, nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán chuyên nghiệp, nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự có tính giáo dục cao, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm do người CTN thực hiện đạt được mục đích cuối cùng là giáo dục, phòng ngừa tội phạm ở lứa tuổi chưa thành niên. Xây dựng phiên toà mẫu về người CTN phạm tội để cán bộ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tham khảo, rút kinh nghiệm và tiếp tục thực hiện.

Về vấn đề nơi giam, giữ và cải tạo, cần xây dựng các nhà tạm giữ, nhà tạm giam, trại giáo dục cải tạo riêng cho người CTN phạm tội, tạo môi trường thuận lợi để các em học tập, rèn luyện và cải tạo tốt nhất, hạn chế tối đa việc tác động không lành mạnh của môi trường sống đến quá trình hình thành đặc điểm nhân thân của người CTN. Qua nghiên cứu nhân thân trong tội phạm học cho thấy tầm quan trọng to lớn của tội phạm học, thiết nghĩ nên trang bị kiến thức tội phạm học cho đội ngũ cán bộ ĐTV, KSV, Thẩm phán khi tham gia các hoạt động tố tụng hình sự. Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, thực hiện quyền con người, đây cũng là nội dung rất quan trọng nhằm tạo môi trường lành mạnh để hình thành những đặc điểm nhân thân tích cực.

Kết luận chương 3

KẾT LUẬN

Vấn đề nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người CTN phạm tội trong tội phạm học nói riêng đã có một quá trình phát triển lâu đời và đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng cho đến nay ở Việt Nam vẫn là vấn đề còn mới mẻ, thời gian gần đây nghiên cứu nhân thân con người trở thành vấn đề quan trọng trong các chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo… Với luận văn này tác giả hy vọng vấn đề đã nghiên cứu trên góp phần nhỏ vào cơ sở lý luận, cũng như thực tiễn về những nội dung liên quan đến nhân thân người CTN phạm tội nói riêng và tội phạm nói chung.

Luận văn được nghiên cứu có sự giúp đỡ của các ngành chức năng, của cơ quan TAND tỉnh, Việt kiểm sát nhân dân tỉnh, Công an tỉnh và một số Sở, Ban, Ngành tỉnh Bình Định, các đồng chí lãnh đạo, giảng viên Học Viện khoa học xã hội và đặc biệt là Thầy giáo hướng dẫn khoa học. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chỉ là bước đầu, kinh nghiệm thực tiễn của bản thân cũng còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định, tác giả rất mong nhận được sự chân thành đóng góp ý, bổ sung của các nhà khoa học, các thầy, cô giáo để Luận văn được hoàn thiện hơn.Trong điều kiện cho phép và được sự nhiệt tình giúp đỡ của quý thầy, cô của Học viện xã hội, tác giả luận văn sẽ cố gắng nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn, toàn diện và hoàn chỉnh ở một mức độ cao hơn về vấn đề thiết thực này./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CUA NGUYEN\LUAN VAN NGUYEN VAN PHUONG (B TAM)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *