Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với sự hội nhập nền kinh tế của các nước nói chung và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường của Việt Nam nói riêng đã và đang là những động lực phát triển to lớn đưa đất nước. Bên cạnh đó có những hạn chế mang lại nhiều hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển và nhiều vấn đề xã hội còn vướng mắt chưa được giải quyết, trong đó có đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng gia tăng và trở thành vấn đề toàn xã hội phải quan tâm.

Những hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội mà còn hủy hoại chính cuộc đời của các em và dẫn đến tương lai của các em cũng bị ảnh hưởng. Vấn đề về người dưới 18 tuổi phạm tội là việc làm cần thiết để giữ nghiêm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội và cũng là một vấn đề phức tạp cần có một biện pháp xử lý riêng. Đa số, do xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý đang phát triển, nhân cách chưa định hình được, nhận thức phát triển chưa được đầy đủ nên một số em đã có hành vi phạm tội một cách ngang nhiên, vô tư. Bên cạnh đó, khi phạm tội các em là những người phạm tội, nhưng đồng thời cũng là những nạn nhân của sự thiếu giáo dục, chăm sóc của gia đình, nhà trường và xã hội; hành động của các em ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh khác nhau hoặc bị xúi giục, lừa dối từ những đối tượng khách quan khác…Chính vì thế, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết người phạm tội dưới 18 tuổi là vấn đề không phải chỉ đơn giản giải quyết một vụ án, trừng phạt một đối tượng phạm tội hoặc một tội phạm nào đó nhưng vấn đề quan trọng ở đây là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hành vi phạm pháp đồng thời tốt hơn hết là ngăn ngừa các việc làm sai trái, đừng để xảy ra. Với tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã kịp thời điều chỉnh và đã xây dựng một chương riêng biệt (chương XXVIII) quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, do BLTTHS năm 2015 vẫn đang chờ hiệu lực thi hành nhưng đến ngày 01-01-2018 thì được áp dụng thi hành trong thực tiễn, trong khi chờ BLTTHS năm 2015 được áp dụng thì áp dụng các quy định tại Chương XXXII BLTTHS năm 2003 đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc giải quyết các vụ án mà người dưới 18 tuổi phạm tội thì học viên nhận thấy rằng, những người tiến hành tố tụng không những phải nắm vững các quy định pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các thủ tục tố tụng đặc biệt này mà còn phải có kiến thức nhất định, am hiểu về đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để phục vụ cho việc giải quyết, xét xử đạt chất lượng. Mặt khác, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực thì nền kinh tế thị trường không tránh khỏi làm phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực khác, đặt biệt người dưới 18 tuổi phạm tội diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao. Chính vì vậy, trước những cuộc đấu tranh, phòng ngừa và phòng chống tội phạm, dẫn đến việc nghiên cứu sâu về thủ tục xét xử sơ thẩm đối với những vụ án hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ những phân tích nêu trên đã dẫn đến học viên quyết định chọn đề tài “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi” cho luận văn tốt nghiệp với mong muốn có những đóng góp cho việc bảo vệ tốt nhất về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dưới 18 tuổi phạm tội, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi luận văn đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Quảng Ngãi.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để giải quyết triệt để những mục đích đã nêu trên đạt kết quả cao, luận văn cần tập trung giải quyết triệt để các nhiệm vụ sau:

– Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm đối với người 18 tuổi; đặc điểm tâm lý lứa tuổi của người dưới 18 tuổi;

– Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật nói chung về người dưới 18 tuổi; những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;

– Phân tích và đánh giá thực trạng xét xử hình sự sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi; chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó;

– Từ những hạn chế, vướng mắc đưa ra những kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả đúng pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các đối tượng để luận văn nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn việc áp dụng pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đến khi kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi từ năm 2014 đến 2018, không nghiên cứu sâu đối với những người tham gia tố tụng khác như: bị hại, người làm chứng dưới 18 tuổi.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Trên cơ sở phương pháp luận thì luận văn nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người và quyền của pháp nhân, tổ chức, cá nhân trong tố tụng hình sự.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn của học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu theo thời gian lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp các quan điểm, thống kê tình hình xét xử thực tiễn tại Tòa án thành phố Quảng Ngãi. Từ đó học viên nghiên cứu rút ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế của thủ tục xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu toàn diện một cách có hệ thống theo các quy định pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng xét xử vụ án và trên thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, từ những lý luận đó góp phần bổ sung, làm rõ những vấn đề về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đã nêu lên những thành tựu và hạn chế trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật về tố tụng hình sự trong thực tiễn xét xử các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó luận văn đưa ra những đề xuất khắc phục cho phù hợp với thực tế, hạn chế những sai lầm, khuyết điểm của cơ quan và người tiến hành tố tụng, đồng thời tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được. Với những kết quả của luận văn đã mang lại những thành tựu, hạn chế và hướng khắc phục thì có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên, tài liệu tuyên truyền pháp luật, phục vụ cho những người làm công tác thực tiễn và những người có quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi nói chung và thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.

7. Cơ cấu luận văn

Luận văn gồm có 04 phần đó là: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo. Trong phần nội dung của luận văn gồm có 03 chương là:

Chương 1: Những lý luận và quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong lịch sử.

Chương 2: Thực trạng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Giải pháp thực hiện đúng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

CHƯƠNG 1

NHỮNG LÝ LUẬN VÀ SƠ LƯỢC LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI

    1. 1.1. Lý luận về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

1.1.1.1. Khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

– Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội

Trong lịch sử loài người, cuộc đời của mỗi con người đã trải qua trong các giai đoạn phát triển của loài người với những xã hội, độ tuổi khác nhau, chính vì vậy trong xã hội cũng như trong pháp luật đã hình thành những tên gọi, thuật ngữ khác nhau như: trẻ em, người lớn, nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên; nhưng trong các thuật ngữ pháp lý của các nước đã sử dụng phổ biến cách gọi là người thành niên và người chưa thành niên theo độ tuổi khác nhau.

Trên phạm vi quốc tế, các văn bản pháp luật liên quan đến người chưa thành niên gồm: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hiệp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (hay thường gọi là Quy tắc Bắc Kinh ngày 29/11/1985); Công ước về quyền trẻ em (được Đại Hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 20/11/1989); hướng dẫn của Liên hiệp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (Hướng dẫn Ri-át, ngày 14/12/1990)… như vậy, trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, người trẻ tuổi bao gồm trẻ em, người chưa thành niên. Còn các văn bản khác như Quy tắc Bắc Kinh (1985) cũng đều thống nhất quan điểm người chưa thành niên là người chưa đến 18 tuổi. Trong khi đó ở một số văn kiện của một số Tổ chức lao động quốc tế (ILO), tổ chức thuộc Liên Hiệp quốc như Quỹ dân số (UNCPA) và Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp quốc (UNECO) thì quy định trẻ em là những người dưới 15 tuổi….

Theo pháp luật Việt Nam, từ quá khứ phát triển của lịch sử đến nay đã đúc kết những kinh nghiệm được thừa nhận các thành tựu do các ngành khoa học khác nhau mang lại và qua quá trình tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm về người chưa thành niên, tùy theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật khác nhau, như sau:

Theo pháp luật Viêt Nam quy định, trẻ em là người dưới 16 tuổi [53]. Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên; Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi [32]. Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi [36]. Như vậy, người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Từ các phân tích trên hoàn toàn phù hợp với Công ước Quốc tế về quyền trẻ em ngày 20/02/1990 mà nước ta là thành viên [25].

Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi
Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi

Theo BLHS năm 1999 quy định người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi, chỉ những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, còn đối với người dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 12 BLHS năm 1999 quy định, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [29].

Điều 48, 49,50 BLTTHS năm 2003 quy định “Người bị tạm giữ là người …..; Bị can, người đã bị khởi tố về hình sự …..;Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử…”. Đồng thời theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 1999 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thì có thể hiểu người phạm tội là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã Điều tra, truy tố đến khi Tòa án quyết định đưa ra xét xử.

Theo quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người dưới 18 tuổi là những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Việc xác định tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi rất quan trọng vì đây là căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người phạm tội. Việc xác định tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội là rất cần thiết vì giúp Cơ quan tiến hành tố tụng xác định việc áp dụng pháp luật khi xét xử và khi áp dụng hình phạt đối với họ.

Theo quy định tại Điều 8 của BLHS năm 2015 thì, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác [28].

Từ sự phân tích trên có thể thấy: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, họ là người trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự trên thực tiễn phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó xét xử sơ thẩm là giai đoạn quan trọng không thể thiếu trong một quá trình tến hành tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 27, BLTTHS năm 2015 quy định: Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Những bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật và được thi hành. Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử ơ cấp cao hơn là phúc thẩm. Còn bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành. Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần đầu (cấp thứ nhất) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật, là một giai đoạn kết thúc quá trình giải quyết một vụ án hình sự, tất cả mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra thu thập trong quá trình điều tra và đều được xem xét một cách công khai tại phiên tòa, trừ trường hợp các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật kinh doanh, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau tại phiên tòa và được tranh luận chất vấn những vấn đề mà tại Cơ quan điều tra họ chưa được làm rõ. Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp, tại phiên toà về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất [16].

Có một số quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm là việc xét xử một vụ án ở cấp thấp nhất. Nhưng quan điểm này cũng chỉ mang tính hình thức chứ chưa chỉ ra được nội dung và bản chất của xét xử sơ thẩm là như thế nào và khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm cụ thể là Hội đồng xét xử sơ thẩm có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân để ra bản án hoặc quyết định. Những bản án, quyết định này chưa phát sinh hiệu lực pháp luật ngay và nó có thể bị kháng cáo, kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Ngoài ra có quan điểm khác cho rằng xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất do Tòa án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Chúng tôi cho rằng không phải tất cả các phiên tòa ở cấp thứ nhất (phiên tòa sơ thẩm) đều là xét xử lần thứ nhất. Bởi vì bản án, quyết định sơ thẩm bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại.

Với các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân, có thể nhận thấy hoạt động xét xử vụ án hình sự là hoạt động thực hiện quyền tư pháp, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất được nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để thực hiện quyền tư pháp, có thể hiểu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động tố tụng do Tòa án cấp thứ nhất (Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh) tiến hành có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân (trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn) để tiến hành giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản án, quyết định bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác… Bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn coi trẻ em là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống xã hội hàng ngày mà ngay cả khi quyền trẻ em bị xâm phạm cần được bảo vệ hoặc khi đối tượng này vi phạm pháp luật. Vì vậy, Luật hình sự bảo vệ người dưới 18 tuổi bị coi là người phạm tội và cũng được quy định một chế tài riêng để xử lý, thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã có một chương riêng (Chương XXVIII) quy định thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi bị tạm giữ, bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng. Tuy nhiên, Điều 413 của BLTTHS năm 2015 quy định về phạm vi áp dụng “Thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi”, như vậy thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 được hiểu như thế nào? Qua nghiên cứu các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong chương này, chúng ta có thể hiểu: Các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi có những đặc trưng đặc biệt so với thủ tục tố tụng áp dụng đối với người 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, những đặc trưng này còn thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của người tiến hành tố tụng, về đối tượng phải chứng minh, về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, về việc bào chữa, việc tham gia của gia đình, nhà trường tổ chức xã hội vào tố tụng cũng như công tác xét xử và thi hành án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối tượng đặc biệt này.

Thủ tục là một quá trình tuân thủ theo thứ tự, cách thức thể hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do Bộ luật tố tụng quy định để giải quyết một vụ án cụ thể liên quan đến cá nhân, pháp nhân, tổ chức [57]. Như vậy, thủ tục xét xử vụ án hình sự có thể hiểu là thứ tự tiến hành giải quyết một vụ án hình sự.

1.1.1.2. Đặc điểm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Thứ nhất, sự tham gia của người bào chữa là bắt buộc so với thủ tục xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người thành niên thì thủ tục xét xử sơ thẩm đối vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi, bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Quyền được bào chữa là một quyền quan trọng của của người dưới 18 tuổi phạm tội trong tố tụng hình sự. Quyền được bào chữa là phương tiện pháp lý cần thiết đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, để người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong suất thời giải quyết vụ án. Trong thực tế người bào chữa tham gia bào chữa phụ thuộc vào ý chí của người được bào chữa. Họ có thể trực tiếp yêu cầu người bào chữa hoặc người đại diện của họ yêu cầu người bào chữa. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt người tham gia bào chữa trong một số vụ án hình sự không phụ thuộc vào ý chí của người được bào chữa. Đó là trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Khi người người thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi hoặc người đại diện hợp pháp của họ là cơ quan, tổ chức, cá nhân không yêu cầu người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử người bào chữa cho họ. Trong trường hợp này luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa, trường hợp này gọi là bào chữa được chỉ định. Những trường nêu trên là liên quan đến người thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi. Sự tham gia của người bào chữa trong trường hợp này có sự khác biệt so với các trường hợp thông thường ở các điểm sau:

Một là, cơ sở pháp lý đầu tiên để người bào chữa tham gia vào vụ án là sự chủ động thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua hình thức yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền cử người bào chữa cho họ.

Hai là, quyết định của cơ quan có thẩm quyền (Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) là cơ sở pháp lý để người bào chữa tham gia bào chữa vào vụ án hình sự chứ không phải là sự thỏa thuận giữa người dưới 18 tuổi phạm tội với người bào chữa.

Ba là, Người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đã được chỉ định cho họ nhưng quyền này không có tính tuyệt đối. Thí dụ, nếu chỉ có người dưới 18 tuổi phạm tội từ chối người bào chữa còn người đại diện hợp pháp của họ không từ chối thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử với sự tham gia của người bào chữa đã được chỉ định và ngược lại. Do đó, đây là một quy định đúng đắn và tiến bộ vì lợi ích của chính người dưới 18 tuổi phạm tội. Như đã phân tích trên, quyền bào chữa là quyền lợi trực tiếp liên quan đến chủ thể của người dưới 18 tuổi phạm tội. Trên thực tiễn thông thường ý chí của họ mang tính quyết định đối với sự tham gia của người bào chữa trong vụ án và các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyết định đó của chủ thể. Nhưng trong trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi thì quyền quyết định của chủ thể này không phải tính tuyệt đối mà họ bị phụ thuộc vào người đại diện hợp pháp hoặc sự xem xét chấp nhận hay không chấp nhận của Tòa án. Vậy, lý do hạn chế quyền của chủ thể ở đây chính là lý do bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa: chủ thể là người khó khăn hơn so với các trường hợp bình thường khác trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình nên cần thiết phải có sự can thiệp từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Thí dụ như khó khăn về tâm sinh lý khi phải đối mặt với điều luật có hình phạt, khó khăn về thể chất, tâm lý trước Hội đồng xét xử và khó khăn về vật chất trong việc yêu cầu người bào chữa hoặc tự bào chữa.

Bốn là, cơ quan Nhà nước chịu chi phí yêu cầu người bào. Bắt buộc phải có người bào chữa cho họ theo quy định trong TTHS, đầy tính nhân đạo của BLTTHS năm 2015 của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp luật quy định về sự tham gia của người bào chữa vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của người dưới 18 tuổi phạm tội như là sự nhân đôi bảo đảm quyền bào chữa cho họ.

Thứ hai, có sự tham gia của người đại diện gia đình, nhà trường hoặc tổ chức khác.

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần thiết phải được tiến hành một cách cẩn thận nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng đến tương lai của họ sau này những mặt tiêu cực. Trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thì khi tham gia tố tụng của đại diện gia đình, đại diện nhà trường, Ðoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi phạm tội học tập, lao động và sinh hoạt vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng.

Người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại các điều 134, 135 và 136 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ tự sau đây: Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; Người giám hộ; Người do Tòa án chỉ định.

Thứ ba, những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên (tại phiên tòa)).

Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý, trình độ, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi, pháp luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp dụng riêng đối với những trường hợp mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Kiểm sát viên, Thẩm phán khi được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi phải có ít nhất một trong các điều kiện sau:

– Có kinh nghiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi;

– Có kinh nghiệm hiểu sâu về tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi và bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn về các kỹ năng tiếp xúc và cách giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;

– Đã được bồi dưỡng, tập huấn về tâm lý học, khoa học giáo dục và có tâm hiểu biết đối với người dưới 18 tuổi.

Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi phải có người là giáo viên, cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.

Người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi là người có thâm niên công tác trong lĩnh vực tư pháp, quản lý, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi; người được đào tạo về giáo dục thanh, thiếu niên, nhi đồng hoặc những người khác có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.

Tất cả những điều kiện nêu trên là cần thiết để Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cần biết và có những kế hoạch phù hợp khi tiến hành tố tụng tại giai đoạn xét xử, để bảo đảm nguyên tắc quy định tại Khoản 1 Điều 91 BLHS 2015 “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”.

Những quy định trên là rất cần thiết với người dưới 18 tuổi, vì người dưới 18 tuổi đang quá trình thay đổi về tâm sinh lý, năng lực nhận thức về hành vi, có thể còn thiếu suy nghĩ khi thực hiện hành vi.

Bên cạnh đó người dưới 18 tuổi cũng gặp những thay đổi lớn về tâm sinh lý, tâm trạng dễ bị kích động, thiếu suy nghĩ, thiếu kiềm chế khi hành động. Do đó, một hành động, một lời nói vô tình của người tiến hành tố tụng có thể làm tổn thương đến tâm trạng người dưới 18 tuổi, ảnh hưởng đến quá trính phát triển và tương lai của các em. Chính vì thế việc quy định người tiến hành tố tụng được trang bị kiến thức về tâm lý, có kinh nghiệm hiểu biết tâm lý của người dưới 18 tuổi, đặc biệt khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã có hiệu lực thì Tòa gia đình và người chưa thành niên đã được thành lập và đi vào hoạt động, từ đó sẽ có đội ngũ những người tiến hành tố tụng được đào tạo, bồi dưỡng và có kinh nghiệm trong việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có liên quan đến người dưới 18 tuổi.

Thứ tư, về đối tượng chứng minh. Khi xét xử những vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài những vấn đề bắt buộc phải chứng minh trong vụ án hình sự, thì Tòa án cần phải xác định làm rõ các vấn đề sau đây:

Một là, Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi phạm tội: việc xác định tuổi của bị cáo đặc biệt quan trọng vì đây là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như việc xác định trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội giúp cho người tiến hành tố tụng có thể đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi gây ra để có thể áp dụng biện pháp tư pháp hay hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi hành án theo quy định của pháp luật.

Hai là, về điều kiện sống và môi trường giáo dục, hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi thường đa số bắt nguồn từ điều kiện sống và môi trường giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội. Như vậy, muốn làm rõ yếu tố này thì phải xác định khả năng cải tạo và môi trường giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội, đồng thời cũng có thể xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội của họ để có thể đưa ra những kế hoạch, biện pháp phòng ngừa phù hợp đối với người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Trong khoa học cũng đã chứng minh con người chịu sự ảnh hưởng tác động qua lại của môi trường xung quanh, hành vi phạm tội không phải ngẫu nhiên hình thành, nó phát sinh không phải từ môi trường hoặc bản thân người đó mà là do sự tác động qua lại giữa môi trường và chính bản thân cá nhân con người đó. Còn đối với người dưới 18 tuổi thì ảnh hưởng của môi trường xung quanh tác động qua lại càng thể hiện rõ hơn, đó là môi trường sống của gia đình, thái độ, cách ứng xử của bậc cha mẹ và người thân trong gia đình; môi trường học tập và sinh hoạt của các em ở nhà trường, đoàn thể, nơi cứ trú.

Ba là, có hay không có người 18 tuổi trở lên xúi giục: việc xác định có hay không có người 18 tuổi trở lên xúi giục cũng như nguyên nhân và điều kiện, hoàn cảnh phạm tội là những vấn đề quan trọng, làm căn cứ để đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà người dưới 18 tuổi đã thực hiện, từ đó rút ra kế hoạch, phương pháp có hiệu quả nhất để ngăn chặn hành vi đó tái phạm.

Bốn là, nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội: người dưới 18 tuổi phạm tội luôn là một vấn đề nỗi cộm đang tồn tại trong xã hội. Vấn đề này không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong xã hội mà luôn xuất phát từ một nguyên nhân và điều kiện nào đó dẫn đến nó xuất hiện trong xã hội. Chúng ta muốn đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng thì cần thiết đề ra những kế hoạch, phương pháp hạn chế, khắc phục và ngăn ngừa hữu hiệu nhất thì phải tìm ra nguyên nhân và điều kiện, hoàn cảnh, môi trường sống dẫn đến việc họ tội phạm.

Thứ năm, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế.

Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định tại các điều 110; 111, 112, 113, 117, 119, 121, 122, 123, 124 của BLTTHS bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Tùy theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, người thân của bị can, bị cáo nói chung; người thân, người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, có thể đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người trên 18 tuổi phạm tội và người dưới 18 tuổiphạm tội ở các giai đoạn tố tụng, nhưng phải đamt bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, pháp luật về tố tụng hình sự có chương riêng quy định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi.

Đối với các biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, tạm giữ, tạm giam: Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 phạm tội được thực hiện như sau:

Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ có thể áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng. Thời gia tạm giữ không quá 03 ngày kể từ ngày cơ quan Điều tra, cơ quan được giao một số hoạt động về tố tụng. Đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp tục có dấu hiệu phạm tội mới, nếu bỏ trốn thì bị bắt theo quyết định truy nã. Người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội chỉ được áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả, thì không còn căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thì bắt buộc phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp đó bằng biện pháp tạm giữ, tạm giam.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 219 của BLTTHS năm 2015 thì “thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên”. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam người ra lệnh giữ, lệnh hoặc quyết định bắt tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi phải thông báo cho người đại diện của họ biết. Người dưới 18 tuổi phải được giam, giữ ở khu vực riêng; không được giam, giữ người dưới 18 tuổi chung với người thành niên.

Việc giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi theo Điều 418 BLTTHS năm 2015: nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi là không cần thiết thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người dưới 18 tuổi, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó. Nhưng hiện nay, không có văn bản pháp luật nào hướng dẫn về việc người đại diện có quyền từ chối không thực hiện nghĩa vụ giám sát của mình khi được yêu cầu, mặt khác theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha mẹ, ông bà, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình và người đỡ đầu có trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dạy con chưa thành niên, cho nên họ phải có nghĩa vụ giám sát, giáo dục, chăm sóc người dưới 18 tuổi. Như vậy, có nghĩa là trong mọi trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu thì việc giám sát người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, người đại diện phải thực hiện [33]. Hay nói cách khác, việc giám sát người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của người đại diện.

Thứ sáu, về hình thức của phiên tòa.

Theo nội dung quy định tại Thông tư số: 02/2018/TT-TANDTC ngày 21 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của tòa gia đình và người chưa thành niên, tại Điều 7 đã quy định: Khi xét xử vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên xét xử tại Phòng xét xử thân thiện thì Tòa án phải thực hiện các quy định: Phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về phòng xử án; Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân (không mặc áo choàng); Việc tổ chức phiên tòa và bảo vệ phiên tòa thực hiện theo quy định tại Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quy chế tổ chức phiên tòa; Đối với những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử kín; đối với những vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai theo quy định tại Điều 327 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không xét xử lưu động đối với vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi. Như vậy, về hình thức phiên tòa xét xử người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi phải tuân theo những quy định đặc biệt như bắt buộc thành phần tham gia tiến hành tố tụng, sắp xếp lại vị trí phòng xét xử, tạo không khí thân thiện, không áp lực, không được xét xử lưu động trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm, không được còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình xét xử tại Tòa án…tất cả những quy định đều hướng đến mục đích người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án, do đó tùy theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân mà họ cần được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng hình sự.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định tại các Điều 416 và Điều 417 quy định những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng và xác định độ tuổi khi quyết định lựa chọn những người tiến hàng tố tụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, người làm chứng, bị hại …

Từ những phân tích các đặc điểm trên có thể đưa ra khái niệm về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:

Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là thứ tự (cách thức) tiến hành giải quyết vụ án hình sự ở cấp xét xử thứ nhất (cấp sơ thẩm) theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi có năng lục trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

1.1.2. Nguyên tắc tiến hành tố tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

– Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với, lứa tuổi, tâm lý, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất của người dưới 18 tuổi.

Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý, mức độ nhận thức và kinh nghiệm sống, giao tiếp ngoài xã hội còn hạn chế. Do đó, nguyên nhân dẫn đến người chưa thành niên phạm tội phần lớn là do môi trường sống, điều kiện và hoàn cảnh của họ, trong đó có một phần rất lớn trách nhiệm thuộc về gia đình và môi trường của sống xã hội. Chính vì vậy, khi xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục họ để có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, để họ trở thành người có ích cho xã hội. Nguyên tắc này phù hợp với Điều 40 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em [25].

– Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi khoản 2 Điều 414 của BLTTHS năm 2015.

Người dưới 18 tuổi được bảo vệ bí mật đời tư của mình trong các vụ án xâm phạm các tội xâm hại tình dục, buôn bán người…, đặc biệt là bị hại trong các vụ án nêu trên, đây là những vấn đề hết sức quan trọng đối với người dưới 18 tuổi. Thực tế đã có nhiều địa phương chọn một số vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để đưa ra xét xử lưu động. Việc một số Tòa án chọn hình thức xét xử lưu động đối với vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội sẽ có tác dụng tốt trong việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đến với quần chúng nhân dân, người lao động nhưng đôi khi lại ảnh hưởng tiêu cực đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, vì xét xử lưu động sẽ làm cho người dưới 18 tuổi cảm thấy xấu hổ với xã hội, xấu hổ trước đám đông người dân tham dự phiên tòa. Thậm chí, Tòa án xét xử công khai người dưới 18 tuổi phạm tội tại trụ sở của Toà án cũng để lại những dấu ấn tiêu cực khó quên đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, như về mặt tâm lý vì phải đối diện với gia đình, bạn bè, thầy cô giáo và những người khác dến tham dự phiên tòa.

– Theo khoản 3 Điều 414 BLTTHS năm 2015 quy định: Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.

Trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ, cho dù họ là người phạm tội. Xuất phát từ sự phát triển chưa đầy đủ, tâm lý chưa ổn định, mức độ trưởng thành chưa đầy đủ, khả năng nhận thức còn hạn chế nên việc các em tự mình tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự sẽ bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lý dẫn đến các em khai báo không chính xác nên việc giải quyết vụ án sẽ không chính xác, không khách quan. Do đó, để bảo đảm sự có mặt của người đại diện của họ trong các giai đoạn tố tụng đối với các vụ án hình sự mà người dưới 18 tuổi phạm tội là rất quan trọng. Nguyên tắc này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng.

– Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi (theo khoản 4 Điều 414 BLTTHS năm 2015).

Nguyên tắc này phù hợp với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Theo đó, trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin phù hợp với sự phát triển của trẻ em, được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn đề mình quan tâm [37, Đ.20]. Từ quy định này có thể nhận thấy, nguyên tắc trên đã được Đảng và nhà nước ta cụ thể hóa bằng quy định trong pháp luật hình sự, thể hiện chính sách và chủ trương tôn trọng và bảo vệ quyền công dân theo ghi nhận của Hiến pháp và Công ước quốc tế về quyền trẻ em.

– Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi (theo khoản 5 Điều 414 BLTTHS năm 2015).

Nguyên tắc này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; đẩy mạnh công tác thực thi pháp luật và bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền được trợ giúp pháp lý từ nghĩa vụ thực thi của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người áp dụng pháp luật.

– Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia, các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm các nguyên tắc xử lý của BLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Đây là căn cứ pháp lý để xác định trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn thể hiện sự quan tâm, thận trọng, nhân đạo của Nhà nước ta trong các hoạt động tố tụng có liên quan đến người dưới 18 tuổi, từ đó thể hiện rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

– Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi (theo khoản 7 Điều 414 BLTTHS năm 2015).

Xuất phát từ chính sách hình sự đặc biệt đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi với mục đích xem xét, xử lý hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi, nhằm để giúp đỡ họ, tạo điều kiện tốt nhất cho họ, để họ nhận ra và sửa chữa sai lầm, để họ phấn đấu trở thành người có đức, có tài, giúp ích cho xã hội. Chính vì vậy, khi giải quyết vụ án liên quan đến đối tượng này cần phải có những người tiến hành tố tụng có kinh nghiệm, am hiểu về tâm lý trẻ em, phải được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng quy định của pháp luật, tránh kéo dài thời gian sẽ tác động đến tâm lý của các em và gây khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng của các em bình thường trong xã hội.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *