Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam

Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam

Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại, hoạt động tài chính – ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, là công cụ hỗ trợ, tạo động lực cho hoạt động kinh doanh, sản xuất. Đây là hoạt động mang tính rủi ro cao, chính vì vậy, bảo hiểm tiền gửi ra đời và trở là một trong những công cụ góp phần bảo vệ an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.

Tại Việt Nam, hoạt động BHTG được khởi đầu bằng Quyết định số 101/TCQĐ-BH ngày 01/02/1994 của Bộ Tài chính. Cuối năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi và Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, đây là tổ chức duy nhất triển khai hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại. Năm 2012, với sự ra đời của Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012-QH13 ngày 18/6/2012 và Nghị định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi đã tạo cơ sở pháp lý cao nhất để Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam triển khai và thực thi hiệu quả chính sách BHTG tại Việt Nam.

Trải qua hơn 20 năm hoạt động Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam từng bước khẳng định vai trò quan trọng của một tổ chứng tài chính nhà nước trong việc bảo vệ người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay nhiều quy định pháp luật điều chỉnh về BHTG và hoạt động của tổ chức BHTG hiện nay chưa bắt kịp với sự thay đổi và cần có sự hoàn thiện hơn để phù hợp với sự biến động của ngành tài chính – ngân hàng, đáp ứng các nhiệm vụ và giải pháp phát triển Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 – định hướng đến năm 2030.

Vì vậy, với mong muốn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, thông qua đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hoạt động của tổ chức BHTG tại Việt Nam, tôi chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.

  1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ các vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng hoạt động của BHTGVN; từ đó, đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong thời gian tới.

    1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định bao gồm:

Một, tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan để làm rõ các vấn đề được nêu ra trong luận văn; các nội dung sẽ được kế thừa và các nội dung cần tiếp tục phải nghiên cứu và giải quyết trong nội dung luận văn.

Hai, nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về BHTG và quyền của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam, thực hiện so sánh, tham khảo pháp luật của quốc tế về hoạt động bảo hiểm tiền gửi.

Ba, thực hiện phân tích, đánh giá thực trạng, thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG tại Việt Nam hiện nay.

Bốn, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng ,thực tiễn để từ đó nhận xét về ưu điểm, những vấn đề còn tồn tại, bất cập của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG tại Việt Nam.

Năm, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của của TC BHTG cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện của hoạt động của TC BHTG trong thời gian tới.

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về quyền và nghĩa vụ của tổchức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, nêu ra những bất cập và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của TC BHTG tại Việt Nam.

  1. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nguyên lý hoạt động của tổ chức BHTG, các quy định pháp luật về điều chỉnh hoạt động của BHTG tại Việt Nam; thực hiện so sánh và đối chiếu với các thông lệ, pháp luật về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi của một số quốc gia trên thế giới.

  1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –Lenin, phép biện chứng duy vật và phương pháp luận duy vật lịch sử. Dựa trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm tiền gửi trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

– Phương pháp tổng hợp có hệ thống các tài liệu liên quan để tìm hiểu các lý luận và thực tiễn pháp luật về hoạt động BHTG, từ đó rút ra những nhận định, ý kiến đánh giá sau quá tình phân tích.

– Phương pháp phân tích nhằm phân tích và tìm hiểu các vấn đề lý luận, thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định của pháp luật.

– Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh, đối chiếu các quan điểm khác nhau giữa quy định pháp luật BHTG hiện hành với pháp luật có liên quan, giữa quy định pháp luật của Việt Nam với pháp luật quốc tế.

-Phương pháp chứng minh nhằm đưa ra dẫn chứng để làm rõ các luận điểm trong các nội dung về lý luận và nhận định, quan điểm về đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của TC BHTG.

  1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống về quyền và nghĩa vụ của TC BHTG theo pháp luật Việt Nam và có ý nghĩa như sau:

6.1. Ý nghĩa lý luận

Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm các vấn đề lý luận pháp luật về BHTG, đặc biệt là lý luận pháp luật về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG theo pháp luật Việt Nam; làm rõ thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG ở Việt Nam; đề xuất định hướng và các giải pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về hoạt động của tổ chức BHTG và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG tại Việt Nam, là tài liệu có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nghiên cứu, quản lý và các cơ sở đào tạo có giảng dạy về pháp luật bảo hiểm tiền gửi.

  1. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm tiền gửi, hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam; quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của của tổ bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm về bảo hiểm tiền gửi

1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi

Bảo hiểm tiền gửi đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Mô hình BHTG đầu tiên xuất hiện vào năm 1829 tại Hoa Kỳ dưới hình thức công khai nhằm phòng ngừa sự đổ vỡ mang tính chất định kỳ của ngân hàng vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, đến năm 1933 khi tình hình tài chính ở Hoa Kỳ bị rối loạn, nền kinh tế bị lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, hàng loạt các ngân hàng bị phá sản, cơ quan BHTG công khai của Nhà nước ở Hoa Kỳ lần đầu tiên mới ra đời (FDIC), nhằm củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng, bảo vệ người gửi tiền. Từ đó đến nay, các quốc gia trên thế giới cũng lần lượt cho ra đời các tổ chức BHTG nhằm bảo vệ người gửi tiền trước nguy cơ phá sản của tổ chức tài chính, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế các cuộc khủng hoảng tài chính Từ đó cho đến nay các quốc gia trên thế giới cũng lần lượt cho ra đời các tổ chức BHTG nhằm bảo vệ người gửi tiền trước nguy cơ phá sản của các tổ chức tài chính, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế các cuộc khủng hoảng tài chính. Theo hiệp hội BHTG Quốc tế IADI, bảo hiểm tiền gửi được hiểu là“một hệ thống được thiết lập để bảo vệ một hệ thống được thiết lập để bảo vệ người gửi tiền trước những mất mát có thể xảy ra đối với tiền gửi được bảo hiểm của họ trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi không thể hoàn thành các nghĩa vụ nợ theo cam kết đối với người gửi tiền”. [3]

Theo pháp luật Việt Nam tại Khoản 1, Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 quy định “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”. Trong đó:

– Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tổ chức BHTG nhận đóng góp tài chính từ TC TGBHTG, có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (TC TGBHTG) khi tổ chức đó chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán.

– Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là TCTD, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD được nhận tiền gửi của cá nhân. Các tổ chức này khi được tham gia BHTG có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG và được quyền yêu cầu tổ chức BHTG chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán hoặc bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt động.

– Người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại TC TGBHTG. Những người này không phải đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG nhưng có quyền yêu cầu tổ chức BHTG thanh toán tiền gửi và tiền lãi tích lũy trên tiền gửi đó trong hạn mức chi trả BHTG (nếu chi trả BHTG có giới hạn) hoặc thanh toán toàn bộ tiền gửi (nếu chi trả BHTG không xác định giới hạn).

Từ những phân tích trên, BHTG có thể hiểu như sau: “Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình hoạt động bảo hiểm, theo đó, tổ chức BHTG thực hiện cam kết chi trả một phần hoặc toàn bộ tiền gốc và tiền lãi của các khoản tiền gửi cho người gửi tiền được bảo hiểm tại TC TGBHTG khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định TC TGBHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách công của Nhà nước”. [7]

1.1.2. Đặc điểm về bảo hiểm tiền gửi

Bảo hiểm tiền gửi cũng mang đặc điểm của các loại hình bảo hiểm nói chung theo nguyên tắc hạn chế rủi ro, lấy của số đông bù cho số ít nhưng cũng mang một số đặc điểm khác biệt như:

Một là, hoạt động BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ công

BHTG là công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách công của Nhà nước. Hoạt động của tổ chức BHTG thông thường không vì mục tiêu lợi nhuận. Chính phủ các quốc gia thành lập tổ chức BHTG nhằm mục đích để thực hiện chính sách công. Bởi trong thực tế, hoạt động tài chính – ngân hàng là hoạt động nhạy cảm, gắn với tính lan truyền rất cao; đồng thời sự đổ vỡ của hệ thống tài chính – ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và gây ra những bất ổn về mặt xã hội. Do đó, Chính phủ các quốc gia đã sử dụng công cụ tài chính là BHTG nhằm góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính – ngân hàng và ổn định xã hội. Tùy vào mô hình hoạt động mà chức năng của TC BHTG cũng được quy định khác nhau; trong đó chức năng chủ yếu là thực hiện chính sách BHTG với đối tượng tiền gửi của người gửi tiền tại các TC TGBHTG, TC BHTG có những công cụ pháp lý về quyền hạn, trách nhiệm đối với người gửi tiền và TC TGBHTG. Để thực hiện chính sách BHTG. Tóm lại, TC BHTG được Nhà nước cung cấp những công cụ được pháp lý hóa để thực hiện các mục tiêu chính sách công của mình. Quyền hạn và nghĩa vụ của TC BHTG được pháp luật quy định là những phương tiện pháp lý để thực hiện có hiệu quả các hoạt động BHTG.

Hai là, BHTG hoạt động để bảo vệ người gửi tiền

Người gửi tiền tại các TCTD có thể là cá nhân, tổ chức…..Tùy quy định pháp luật của từng nước khác nhau mà đối tượng được BHTG có thể khác nhau nhưng của hầu hết bảo vệ cho tiền gửi của cá nhân vì đây là đối tượng dễ bị tổn thương, đa phần số tiền gửi nhỏ lẻ. Các TC TGBHTG có nghĩa vụ đóng phí BHTG nhưng khi xảy ra rủi ro thì người gửi tiền không phải đóng phí BHTG.

Ba là, các TC TGBHTG phải đóng phí BHTG

TC TGBHTG thường bắt buộc phải đóng phí BHTG cho TC BHTG để được bảo hiểm tiền gửi của người gửi tiền (bảo hiểm trong hạn mức BHTG) tại tổ chức của mình. Có hai loại phí bảo hiểm phổ biến là phí đồng hạng hoặc phí căn cứ vào mức độ rủi ro của từng TCTD. Tùy theo tình hình và các yếu tố kinh tế – xã hội mà các quốc gia áp dụng hình thức thu phí phù hợp với tình hình của quốc gia đó.

1.2. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi

Một là, BHTG có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người gửi tiền nói riêng là yêu cầu đặt ra đối với mỗi Chính phủ. Bằng hoạt động của mình, BHTG giúp đảm bảo hoạt động ổn định của các TCTD và bảo vệ cho công chúng, người gửi tiền.

Hai là, BHTG giúp xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng: Hoạt động tài chính – ngân hàng dễ bị với những biến động của thị trường cũng như ảnh hưởng của tình hình kinh tế chính trị tác động. Trong trường hợp có thông tin tiêu cực hoặc biến động của thị trường sẽ tác động tới tâm lý của công chúng và người gửi tiền dẫn tới tâm lý rút tiền ồ ạt tại các tổ chức tín dụng. Với sự xuất hiện của BHTG, người gửi tiền có thể yên tâm tiếp tục gửi tiền của mình vì nếu trong trường hợp rủi ro sẽ được TC BHTG chi trả tiền gửi được bảo hiểm; ngoài ra với chức năng của mình, TC BHTG thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, tuyên truyền để nâng cao và củng cố hoạt động của công chúng đối với hệ thống tài chính – ngân hàng. Thực tiễn cho thấy, khi mà người dân không tin tưởng vào hệ thống tài chính – ngân hàng thì trước hết hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng và sau đó là toàn bộ nền kinh tế của quốc gia cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng theo.

Ba là, BHTG có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro, đảm bảo sự phát triển lành mạnh hoạt động ngân hàng. Thông qua các nghiệp vụ về giám sát, kiểm tra hoạt động của các TC TGBHTG, TC BHTG phát hiện những rủi ro, vi phạm các quy định về bảo hiểm tiền gửi, an toàn trong hoạt động ngân hàng và có cảnh báo, kiến nghị khắc phục. Chính sách BHTG đã tạo ra sự công bằng, tạo ra sân chơi bình đẳng cho tất cả các TCTD đặc biệt là các TCTD có quy mô vừa và nhỏ.Với sự đảm bảo của TC BHTG, người gửi tiền có thể an tâm gửi tiền vào các TCTD vừa và nhỏ mà quyền lợi được đảm bảo tương đương các TCTD quy mô lớn. Điều đó thúc đẩy sự phát triển bình đẳng, thu hẹp khoảng cách giữa các TCTD.

1.3. Phân biệt bảo hiểm tiền gửi với các loại hình bảo hiểm thương mại khác

Bảng 1.1: Phân biệt bảo hiểm tiền gửi và loại hình bảo hiểm thương mại khác.

Nội dungBảo hiểm tiền gửiBảo hiểm thương mại
Tính chất hoạt độngHoạt động không vì mục tiêu lợi nhuậnKinh doanh với mục đích sinh lợi
Cơ chế bảo hiểmCác TCTD có nhận tiền gửi phải tham gia BHTG theo cơ chế bắt buộc được pháp luật quy địnhCơ chế tự nguyện, theo thỏa thuận giữa các bên tham gia
Luật điều chỉnhCó luật riêng biệt điều chỉnh hoặc chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hoạt động ngân hàngThông thường chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hoạt động bảo hiểm, pháp luật dân sự
Hợp đồng bảo hiểmGiữa TC BHTG và TC TGBHTG không ký kết hợp động bảo hiểm mà xác thực bằng Giấy chứng nhận tham gia BHTGTổ chức bảo hiểm ký kết hợp đồng với tổ chức, cá nhân có nhu cầu được bảo hiểm
Đối tượng được bảo hiểmĐược xác định theo các quy định của pháp luật (thông thường là người gửi tiền tại TC TGBHTG)Được xác định theo hợp động bảo hiểm
Đối tượng nộp phí bảo hiểmĐược xác định theo quy định pháp luật của từng quốc gia. Tại Việt Nam là TC TGBHTGTổ chức, cá nhân ký hợp đồng bảo hiểm với tổ chức bảo hiểm
Người được thụ thưởng tiền bảo hiểmĐược xác định theo quy định pháp luật của từng quốc giaNgười được chỉ định thụ hưởng trong hợp động bảo hiểm

Nguồn: Cá nhân tự tổng hợp từ các văn bản pháp luật

1.4. Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam

Đầu những năm 1988-1990 của thế kỷ 20, hàng loạt tổ chức tín dụng đô thị bị đổ vỡ trên toàn quốc, làm lòng tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, khi mô hình QTDND được triển khai thí điểm theo Quyết đinh số 390/QĐ-TTG ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính cũng ban hành Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn kèm theo quyết định số 101-TCQĐ/BH ngày 01/02/1994. Theo quyết định 101-TCQĐ/BH, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam lúc đó (Bảo Việt) đã triển khai nghiệp vụ BHTG, đây là khởi đầu của chính sách bảo hiểm tiền gửi ở nước ta, tuy nhiên hoạt động BHTG trong thời kỳ này chưa được thực hiện hiệu quả và rõ nét. Tiếp sau đó, tuy không chịu ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu Á vào năm 1997 nhưng đây là hồi chuông cảnh báo cho hệ thống ngân hàng nước ta cần phải chú trong hơn nữa đến vấn đề BHTG. Bên cạnh đó, cùng với xu hướng thành lập mô hình BHTG trên thế giới và sự hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ ở nước ta thời kì đó, việc thành lập một tổ chức BHTG tại Việt Nam là vô cùng cần thiết. 

Tại Việt Nam, Luật các TCTD năm 1997 ra đời với những quy định đầu tiên về hoạt động BHTG, cụ thể tại Điều 17 Luật các TCTD năm 1997 quy định: “Tổ chức tín dụng có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn tiền gửi hoặc bảo hiểm tiền gửi”. Đây chính là cơ sở pháp lý ban đầu để Chính phủ tiến tới thành lập tổ chức BHTG ở Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 07/07/2000 với căn cứ pháp lý là Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999, Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89). Cho đến thời điểm hiện tại BHTGVN là tổ chức duy nhất tại Việt Nam thực hiện chính sách BHTG nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; hỗ trợ các tổ chức tín dụng gặp khó khăn; kiểm soát và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Ngày 18/6/2012, Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 (Luật BHTG năm 2012) được Quốc Hội ban hành và các văn bản dưới luật như Nghị định số 68/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/6/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG. Tiếp theo đó, lần lượt các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành hướng dẫn cụ thể về một số nội dung trong hoạt động BHTG như cấp, thu hồi chứng nhận tham gia BHTG, cung cấp thông tin giữa NHNN và BHTGVN, hỗ trợ tài chính đối với tổ chức BHTG…; Quyết định số 1394/QĐ-TTg ngày 13/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/8/2013 về việc thành lập tổ chức BHTGVN và quy định chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN; Quyết định số 1395/QĐ-TTg ngày 13/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều lệ về tổ chức và hoạt động của BHTGVN đã tạo ra cơ sở pháp lý cao nhất cho BHTGVN triển khai hiệu quả chính sách BHTG tại Việt Nam.

Năm 2016, BHTGVN chuyển đổi mô hình hoạt động, trở thành tổ chức tài chính Nhà nước theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước năm giữ 100% vốn điều lệ theo Quyết định số 527/QĐ-TT ngày 31/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Bước chuyển này có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề để BHTGVN thực hiện tốt hơn vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động và càng gia tăng niềm tin của công chúng vào hệ thống các tổ chức tín dụng.

Tính đến ngày 31/12/2019, BHTGVN đang quản lý 1.282 TC TGBHTG, bao gồm 95 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 01 ngân hàng hợp tác xã, 1.182 QTDND và 04 tổ chức tài chính vi mô; bảo vệ an toàn hơn 5,4 triệu tỷ đồng tiền gửi trong hệ thống Ngân hàng.

Hiện nay, BHTGVN đã mở rộng mạng lưới hoạt động gồm Trụ sở chính tại Hà Nội và 08 Chi nhánh tại các khu vực kinh tế trọng điểm trên cả nước giúp triển khai kịp thời và động bộ các hoạt động nghiệp vụ BHTG, từ đó góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.

1.5. Nội dung pháp luật về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia BHTG liên quan chặt chẽ và gắn liền với mục tiêu chính sách công của mỗi quốc gia. Không giống như những quan hệ xã hội khác trong lĩnh vực dân sự, thương mại, quan hệ giữa các chủ thể tham gia BHTG này chịu sự điều chỉnh, tác động của ý chí và phát triển định hướng của Nhà nước. Mối quan hệ trong hoạt động BHTG là một quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nhưng có đặc trưng riêng là không nhằm mục tiêu lợi nhuận và chịu sự điều chỉnh của luật chuyên ngành.

Về nguyên lý, BHTG được hiểu là cam kết công khai của TC BHTG đối với TC TGBHTG về việc TC BHTG sẽ trả tiền gửi cho ngườigửi tiền khi TC TGBHTG bị chấm dứt hoạt động và không có khảnăng thanh toán cho người gửi tiền. Trong quan hệ BHTG luôn là quan hệ ba bên: Chủ thể BHTG (tổ chức BHTG); chủ thể tham gia BHTG (các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại); chủ thể được chi trả BHTG (người gửi tiền tại TC TGBHTG). Cụ thể:

  • Chủ thể tham gia BHTG là các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô…có hoạt động nhận tiền gửi của khách hàng, phải đóng phí cho tổ chức BHTG, trường hợp nếu tổ chức tín dụng gặp phải rủi ro dẫn đến đổ vỡ hoặc phá sản thì tổ chức BHTG bồi hoàn cho chủ thể nhận tiền gửi tại TC TGBHTG theo quy định của pháp luật. Vì vậy, pháp luật phải quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện, chủ thể tham gia cũng như các quy trình về thực hiện nghiệp vụ BHTG.
  • Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải đảm bảo thể chế hóa chính chính sách và đảm bảo vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Mục tiêu chính của hệ thống BHTG là bảo vệ người gửi tiền và góp phần ổn định tài chính. Các mục tiêu chính sách công của hệ thống bảo hiểm tiền gửi được xác định rõ ràng và quy định chính thức, cũng như công bố công khai, chẳng hạn như phải thông qua luật hoặc văn bản kèm luật. Thiết kế của hệ thống BHTG phải phù hợp với các mục tiêu chính sách công của hệ thống và có đánh giá cụ thể về mức độ hoàn thành mục tiêu chính sách công của hệ thống BHTG.
  • Nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức BHTG phải hỗ trợ cho việc đạt được các mục tiêu chính sách công và phải được xác định rõ và quy định chính thức trong luật. Nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức BHTG được quy định rõ ràng và chính thức bằng luật, và phải phù hợp với các mục tiêu chính sách công đã đưa ra. Nhiệm vụ phải quy định rõ vai trò và trách nhiệm của tổ chức BHTG và phải phù hợp với các nhiệm vụ của các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính. Quyền hạn của tổ chức BHTG phải hỗ trợ nhiệm vụ và cho phép tổ chức BHTG hoàn thành vai trò và nhiệm vụ của mình. Quyền hạn của tổ chức BHTG bao gồm, nhưng không giới hạn ở các quyền sau: (1) Tính và thu phí bảo hiểm hay các loại phí khác; (2) Chuyển giao tiền gửi cho ngân hàng khác; (3) Chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm; (4) Trực tiếp thu thập thông tin kịp thời, chính xác và toàn diện từ các ngân hàng để hoàn thành nhiệm vụ của mình; (5) Tiếp nhận và chia sẻ thông tin kịp thời, chính xác và toàn diện với các thành viên trong mạng an toàn tài chính ở nước mình, và với các thành viên của mạng an toàn tài chính ở các quốc gia khác nếu luật quy định; (6) Yêu cầu các ngân hàng thành viên tuân thủ các nghĩa vụ với tổ chức BHTG, hoặc đề nghị cơ quan giám sát hoặc thành viên khác của mạng an toàn tài chính thay mặt tổ chức BHTG thực hiện các yêu cầu trên. (7) Lập ngân sách hoạt động, chính sách, các hệ thống và các thông lệ hoạt động và (8) Ký kết hợp đồng.
  • Trong mối quan hệ giữa tổ chức BHTG và tổ chức TG BHTG thì tổ chức BHTG phải chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm tiền gửi theo hạn mức bảo hiểm. Nghĩa vụ trả tiền của tổ chức BHTG cho người gửi tiền không xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật kèm hoặc do lỗi của tổ chức BHTG đối với người gửi tiền, mà thực chất là nghĩa vụ tài sản theo quy định pháp luật giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG. Nghĩa vụ này chỉ được thực hiện khi tổ chức tham gia BHTG phá sản hoặc không có khả năng thanh toán các khoản tiền gửi cho người gửi tiền. Qua phân tích trên, có thể thấy bản chất của nghĩa vụ trả tiền của tổ chức BHTG cho người gửi tiền trong quan hệ BHTG thực chất không phải là nghĩa vụ bồi thường, mà chỉ là một nghĩa vụ tài sản phát sinh do luật định nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
  • Quyền và nghĩa vụ của TC BHTG phải thể hiện mối quan hệ với các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính: Các thành viên mạng an toàn tài chính thường xuyên trao đổi thông tin, và đặc biệt khi có ngân hàng thành viên đang bị giám sát tăng cường. Trong trường hợp có các tổ chức BHTG khác nhau hoạt động trong cùng một thể chế quốc gia, cần phải có cơ chế chia sẻ thông tin và phối hợp giữa các tổ chức BHTG đó (Nguyên tắc 4).
  • Quyền và nghĩa vụ của TC BHTG phải có sự tương quan với quyền và nghĩa vụ của TC TGBHTG và người được BHTG. Quyền của TCBHTG chính là nghĩa vụ của TC TGBHTG, ngược lại nghĩa vụ của TC BHTG là quyền của TC BHTG và người gửi tiền.

BHTG cần phải là một phần cấu thành một khuôn khổ nằm trong mạng an toàn tài chính có chức năng phát hiện sớm, can thiệp kịp thời các ngân hàng có vấn đề. Khuôn khổ này cần cho phép can thiệp trước thời điểm một ngân hàng phá sản. Hành động đó phải bảo vệ được người gửi tiền và đóng phần ổn định tài chính: (1) Tổ chức BHTG là một phần của khuôn khổ hiệu quả trong mạng an toàn tài chính có chức năng phát hiện sớm và can thiệp kịp thời đối với ngân hàng đang gặp khó khăn tài chính trước khi nó phá sản; (2). Các thành viên mạng an toàn tài chính hoạt động độc lập và có quyền hạn thực thi vai trò của mình trong khuôn khổ phát hiện sớm và can thiệp kịp thời; (3) Khuôn khổ phát hiện sớm và can thiệp kịp thời bao gồm một tập hợp các tiêu chí định lượng và định tính được quy định rõ ràng sử dụng để khởi sự việc can thiệp hoặc có các hành động chỉnh sửa kịp thời. Trong đó phải thỏa mãn các tiêu chí: Được xác định rõ ràng trong luật hoặc quy định, thỏa thuận; Các chỉ tiêu về an toàn và lành mạnh như vốn, chất lượng tài sản, quản lý, thu nhập, thanh khoản và độ nhạy cảm với rủi ro thị trường; Được xem xét định kỳ, quy trình xem xét định kỳ phải được chính thức hóa bằng quy định pháp luật. [4]

Tóm lại, mục đích chính của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại các TC TGBHTG và là công cụ giúp giảm thiểu rủi ro và duy trì sự ổn định của hoạt động ngân hàng. Quan hệ của người gửi tiền không chỉ có mối quan hệ hợp đồng tín dụng thuần túy với TC TGBHTG mà còn mang tính chất quyết định tới hoạt động hệ thống các TCTD và hoạt động ngân hàng. Do đó, quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền cũng chính là bảo vệ quyền và lợi ích của các TC TGBHTG. Để thực hiện được điều này, pháp luật quy định về BHTG cần được công khai và bảo đảm tính rõ ràng. Bởi đây sẽ là cơ sở giúp các chủ thể tham gia quan hệ BHTG có thể áp dụng quy định pháp luật một cách nhanh chóng và chính xác. Khi hoạt động BHTG được thực thi hiệu quả sẽ là tiền đề gây dựng, duy trì sự tin tưởng của người gửi tiền vào Chính phủ, vào pháp luật về BHTG, vào hệ thống các TCTD. Và tất yếu hạn chế được hiện tượng bất ổn hoạt động. Như vậy, trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về BHTG, nhà hoạch định chính sách cần có hệ thống các nguyên tắc nhất định để dựa vào đó định hướng các chính sách công về tài chính – ngân hàng sao cho phù hợp với điều kiện phát triển của quốc gia. Các nguyên tắc này thể hiện xuyên suốt trong hệ thống pháp luật về BHTG nói riêng và hệ thống pháp luật tài chính – ngân hàng nói chung. [7]

Tiểu kết Chương 1

Trong Chương 1, luận văn đã khái quát lý luận về BHTG; pháp luật về BHTG tại Việt Nam; khái quát về vai trò và đặc điểm của TC BHTG để từ đó phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận về bảo hiểm tiền gửi, quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam.

Theo đó, BHTGVN là tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách công, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh của hoạt động Ngân hàng. Các quyền và nghĩa vụ của TC BHTG tại Việt Nam phải thể hiện những thuộc tính có trong vai trò và đặc điểm của mình cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về thông lệ quốc tế.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI VIỆT NAM

2.1. Về quyền của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

2.1.1. Đề xuất với cơ quan quản lý nhà n­ước có thẩm quyền ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi

Theo quy định tại khoản Khoản 2 Điều 3 Quyết định số 1394/QĐ-TTg ngày 13/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ và Khoản 2 Điều 13 Luật BHTG năm 2012: BHTGVN có quyền đề xuất với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi.

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách pháp luật về hoạt động BHTG cũng như thực tiễn của BHTGVN đã phát sinh nhiều vấn đề mà pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể, ngoài ra với đặc thù của ngành tài chính – ngân hàng biến động không ngừng nên việc cập nhật, bổ sung sửa đổi các quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động BHTG nói riêng là vô cùng cần thiết.

Với nhiệm vụ, chức năng được giao là cơ quan trực tiếp triển khai thực hiện các chính sách pháp luật, thông qua thực tiễn hoạt động của mình BHTGVN đã chủ động nghiên cứu và đề xuất với cơ quan quản lý nhà n­ước có thẩm quyền ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi ý kiến nhằm triển khai các nội dung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng; đề xuất sửa đổi Thông tư số 312/2016/TT-BTC ngày 24/11/2016 của Bộ Tài chính; hoàn thiện Dự thảo Quy chế mua trái phiếu dài hạn của các tổ chức tín dụng hỗ trợ; ban hành Quy chế cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.

2.1.2. Cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi

Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi là văn bản pháp lý xác nhận của BHTGVN về việc tổ chức phải tham gia BHTG đã tham gia bảo hiểm tiền gửi. Việc cấp Chứng nhận tham gia BHTG chính là cam kết của BHTGVN sẽ cùng Chính phủ gánh vác trọng trách đối với người gửi tiền và đối với hệ thống tài chính ngân hàng khi tổ chức tham gia BHTG gặp rủi ro hay bị giải thể, phá sản.

Hoạt động cấp, thu hồi giấy chứng nhận tham gia BHTG là hình thức pháp lý mà TC BHTG bắt buộc TG TGBHTG phải thực thi. Pháp luật Việt Nam hiện tại quy định cụ thể về thủ tục tham gia, điều kiện cấp, đổi, thu hồi, yêu cầu cũng như chủ thể và loại TC TGBHTG phải tham gia BHTG. Đây là hoạt động thể thiện tính chất quan hệ hành chính giữa TC BHTG và TC TGBHTG, là quyền của TC BHTG được quy định tại Khoản 4 Điều 13 Luật BHTG 2012.

Căn cứ theo khuyến nghị tại Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển BHTG hiệu quả năm 2014 của IADI và kinh nghiệm các nước thì các quy định về hoạt động cấp, thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG phải đáp ứng các điều kiện như: Tiêu chuẩn 3 về đăng ký: Các điều kiện, quy trình và khung thời gian đăng ký tham gia BHTG phải được quy định công khai và minh bạch; Tiêu chuẩn 5 về thu hồi, chấm dứt tham gia BHTG: Nếu tư cách thành viên BHTG bị đình chỉ vì ngân hàng bị rút giấy phép, cần phải gửi thông báo ngay lập tức cho người gửi tiền về việc tiền gửi hiện tại của họ sẽ tiếp tục được bảo hiểm đến một thời hạn xác định.

Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi được quy định định cụ thể tại Điều 14, Điều 16, Điều 17 Luật BHTG năm 2012; Điều 4 Thông tư 24/TT-NNNN ngày 6/9/2014 (Thông tư 24) ; Quyết định 408/QĐ-BHTG-HĐQT ngày 28/6/2016 về Ban hành Quy chế cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG.

Nghiệp vụ cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi gồm những nội dung sau:

– Về cấp giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi: Theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 14 Luật BHTG năm 2012: “1. Chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai trương hoạt động, TC TGBHTG phải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận tham gia BHTG cho tổ chức BHTG; 2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận tham gia BHTG, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận tham gia BHTG cho TC TGBHTG”.

– Về cấp bản sao giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi: Là bản sao do BHTGVN cấp từ sổ gốc với mục đích để TC TGBHTG niêm yết tại trụ sở chính, chi nhánh phòng giao dịch nhận tiền gửi cá nhân

– Về cấp lại giấy chứng nhận và bản sao giấy chứng nhận: Điều 16 Luật BHTG năm 2012 quy định TC TGBHTG được phép phục hồi hoạt động nhận tiền gửi theo quyết định của NHNN, Chứng nhận bị mất, rách nát, hư hỏng, TC TGBHTG đổi tên hoặc BHTGVN thay đổi mẫu hạn mức, mẫu Chứng nhận

– Về tạm thu hồi giấy chứng nhận: Khi NHNN có văn bản tạm đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của TC TGBHTG.

– Thu hồi giấy chứng nhận: Khi NHNN có văn bản thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động của TC TGBHTG hoặc khi TC TGBHTG bị hợp nhất, bị sáp nhập với TCTD khác.

– Về niêm yết giấy chứng nhận: Điều 15 Luật BHTG năm 2012: “Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải niêm yết công khai bản sao chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các điểm giao dịch có nhận tiền gửi”. Tuy nhiên, thực tế tại một số TC TGBHTG là QTDND không có chi nhánh, phòng giao dịch nhận huy động tiền gửi cá nhân thì sẽ phải niêm yết Chứng nhận tham gia BHTG , điều này là mâu thuẫn với quy định niêm yết bản sao chứng nhận tại Điều 15 Luật BHTG năm 2012.

– Về thay đổi thông tin giấy chứng nhận: Thay đổi địa chỉ tổ chức; thay đổi địa chỉ, tên gọi của chi nhánh và các điểm giao dịch có nhận tiền gửi cá nhân; thay đổi thông tin do chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, chấm dứt hoạt động của chi nhánh và các điểm giao dịch có nhận tiền gửi cá nhân

– Thu hồi giấy chứng nhận BHTG là hành vi tổ chức thực hiện hoạt động BHTG làm chấm dứt quan hệ BHTG khi xuất hiện những vi phạm pháp luật của TC TGBHTG. Theo quy định tại Điều 16 Luật BHTG năm 2012, BHTGVN có quyền thu hồi giấy chứng nhận tham gia BHTG của các TC TGBHTG trong những trường hợp nhất định như: Không nộp đủ phí BHTG quá thời hạn ba tháng kể từ ngày phải nộp, NNNN có văn bản chấm dứt hoạt động nhận tiền gửi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu TC TGBHTG chấm dứt các giao dịch để thanh lý tài sản hoặc Toà án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Đồng thời, phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ra quyết định ngừng huy động tiền gửi tại tổ chức đó. Quy định của pháp luật Việt Nam về trường hợp thu hồi giấy chứng nhận tham gia BHTG của TC TGBHTG và chấm dứt BHTG là các biện pháp chế tài pháp lý đối TC tham gia BHTG, nhằm quy định rằng buộc về trách nhiệm, nghĩa vụ của TC TGBHTG đối với quyền và lợi ích của người gửi tiền.

Pháp luật Việt Nam quy định các TCTD, các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài… bắt buộc tham gia BHTG. Với việc tham gia BHTG sẽ giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng trong khi Việt Nam chưa thể áp dụng các tiêu chí xếp hạng tổ chức tín dụng và thực hiện phân loại rủi ro hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra việc bắt buộc các TCTD tham gia BHTG giúp hình thành và phát triển nguồn quỹ BHTG qua nghĩa vụ đóng phí BHTG.

Hiện tại Luật BHTG năm 2012 và các văn bản hướng dẫn dưới Luật, chưa có quy định cụ thể về hồ sơ cũng như quy trình, thủ tục cho việc cấp lại bản sao Chứng nhận, mà chỉ có quy định về việc cấp bản sao chứng nhận tại Điều 5 Thông tư 24, trong khi đây là nội dung thực tế phát sinh của các TCTGBHTG. Chưa có những quy định chế tài trong Luật BHTG về đình chỉ hoặc thu hồi chứng nhận tham gia BHTG của các TC TGBHTG khi tổ chức đó vi phạm các quy định pháp luật về BHTG.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 7/ PHAM BAO ANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *