Quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc từ thực tiễn

Quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội thì tệ nạn xã hội ở nước ta cũng có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Trong đó nổi lên là tệ nạn ma tuý và mại dâm, đặc biệt là tình hình phát triển của tệ nạn nghiện ma tuý. Phòng, chống tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn nghiện ma tuý nói riêng hiện nay đã và đang trở thành các chương trình toàn cầu. Cùng với tội phạm, tệ nạn ma tuý ở nước ta vẫn đang là một trong những tệ nạn đặc biệt nguy hiểm, là vấn đề nhức nhối. Ma tuý là nguồn gốc dẫn đến tội phạm, là nguyên nhân của sự bần cùng hoá gia đình, làm băng hoại sức khoẻ, đạo đức, nhân cách, là bạn đồng hành của thảm hoạ HIV/AIDS, đồng thời nó còn tác động xấu đến an ninh trật tự, sự ổn định và sự phát triển của xã hội. Tệ nạn nghiện ma tuý ở nước ta hiện nay diễn ra rất đa dạng, phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt là từ khi các chất ma tuý như hêrôin, côcain, morphine, ma tuý tổng hợp… được chuyển từ nước ngoài vào Việt Nam. Với khả năng gây nghiện nhanh của các loại chất ma tuý mới này thì tệ nạn nghiện ma tuý như là một hiểm hoạ đối với sự phát triển lành mạnh của dân tộc Việt Nam. Tệ nạn nghiện ma tuý được xác định là một trong những tệ nạn xã hội nghiêm trọng cần phải lên án và bài trừ ra khỏi cộng đồng dân cư. Bởi lẽ, đi liền với các hoạt động nghiện ma tuý là các loại tội phạm giết người, cướp của, trộm cắp, cưỡng đoạt, lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân… do đối tượng nghiện ma tuý gây ra. Tệ nạn nghiện ma tuý như là một thứ dịch bệnh nguy hiểm có sức cuốn hút, cám dỗ và lây lan rất mạnh đến tầng lớp thanh, thiếu niên làm xuống cấp nền văn hoá, đạo đức và lối sống tốt đẹp, đẩy lùi sự phát triển của xã hội. Nó trực tiếp phá vỡ hạnh phúc gia đình của những người mắc nghiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, trí tuệ và nhân cách của người nghiện ma tuý, là mối hiểm hoạ đối với tương lai, nòi giống dân tộc, để lại hậu quả nghiêm trọng cho thế hệ mai sau. Và tệ nạn nghiện ma tuý cũng là một trong những nguy cơ dẫn đến lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS.

Vì lẽ đó, phòng ngừa, phát hiện đấu tranh bài trừ tệ nạn ma tuý, đặc biệt là việc giáo dục giúp đỡ những người nghiện ma tuý đang là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để làm giảm tệ nạn ma tuý, đi đôi với việc phòng chống và kiểm soát ma tuý, chúng ta phải tiến hành quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý. Đây là công tác có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý có rất nhiều hình thức khác nhau, trong đó việc quản lý giáo dục, tổ chức cai nghiện tại cộng đồng dân cư là vấn đề đặc biệt quan trọng. Trong chương trình hành động phòng chống ma tuý giai đoạn 2001- 2005 ban hành kèm theo Quyết định 150/ 2000/ QĐ- TTg ngày 28/12/2000 của Chính phủ đã chỉ rõ: “Xây dựng xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị không có tội phạm ma tuý và người nghiện ma tuý”, “Tăng cường nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện ma tuý”, “Thực hiện đa dạng các hình thức cai nghiện ma tuý phù hợp với từng loại đối tượng nghiện, thực hiện đúng quy trình cai nghiện, cải tiến và hoàn thiện mô hình tổ chức cai nghiện ma tuý, đặc biệt là mô hình cai nghiện ma tuý tại cộng đồng và gia đình”.

Để quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý, Cơ sở cai nghiện phải sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để giải quyết tệ nạn và đã thu được một số kết quả nhất định. Song các hình thức biện pháp quản lý giáo dục người nghiện ma tuý ở Cơ sở vẫn còn nhiều vướng mắc bất cập. Bên cạnh đó, đa số người nghiện ma túy vào cai nghiện đều có tiền án, tiền sự, họ quen với lối sống buông thả, không chịu bị sự gò bó, do đó khi họ vào Cơ sở họ tìm mọi cách chống chế các quy định của đơn vị, có những trường hợp gây rối, gây bạo loạn, chống người thi hành công vụ. Làm thế nào để có giải pháp cấp bách và hữu hiệu nhằm giúp người nghiện ma túy cai nghiện tốt sớm hoà nhập cộng đồng, làm ăn lương thiện, ổn định cuộc sống, đồng thời từng bước đẩy lùi tệ nạn ma tuý ra khỏi đời sống xã hội đang là nhiệm vụ cấp bách, khó khăn phức tạp đối với các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội và quần chúng, đặc biệt là đối với Cơ sở cai nghiện là một đơn vị trực tiếp thực hiện chức năng cai nghiện, chữa bệnh, lao động trị liệu cho đối tượng nghiện.

Đối với Quảng Nam trong thời gian vừa qua việc thực hiện quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc gặp những thuận lợi nhất định, đó là: được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước như Công an tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm soát nhân dân tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh, Sở Y tế tỉnh và Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh; sự nổ lực phấn đấu không ngừng của tập thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Cơ sở Cai nghiện ma túy tỉnh đã góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị công tác chuyên môn trên lĩnh vực Cai nghiện ma túy. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì công tác quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc gặp không ít khó khăn đó là: Về lập hồ sơ đối với người nghiện có nơi cư trú ổn định còn vướn các cơ chế của Pháp luật; Việc xác định tình trạng nghiện ma túy Thông tư số 17/2015 ngày 09/7/2015 của Bộ Y tế khó có khả năng thực hiện; Việc xác định người nghiện không có nơi cư trú ổn định chưa rõ ràng…

Do đó, việc đặt vấn đề nghiên cứu quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc nhất là gắn với địa bàn tỉnh Quảng Nam góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về cai nghiên ma túy bắt buộc là có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tôi đã chọn nội dung: “Quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật Hiến pháp và Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

+ Làm rõ lý luận và thực tiễn các hình thức, biện pháp quản lý người nghiện ma tuý tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc, các cơ quan quản lý nhà nước về cai nghiện bắt buộc. Góp phần bổ sung hoàn thiện hệ thống lý luận về quản lý nhà nước về cai nghiện ma tuý bắt buộc trong cả nước nói chung, tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.

+ Đánh giá đúng thực trạng tình hình người nghiện ma tuý, tình hình quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc cũng như những ưu, nhược điểm, nguyên nhân tồn tại trong quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc hiện nay tại tỉnh Quảng Nam. Từ đó xây dựng những giải pháp góp phần cùng các ngành liên quan nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về cai nghiện bắt buộc, giáo dục người nghiện ma tuý ở Cơ sở cai nghiện, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.         

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về ma tuý, người nghiện ma tuý, hình thức, biện pháp quản lý nhà nước người nghiện ma tuý theo chức năng của Cơ sở cai nghiện.

+ Phân tích thực trạng, tình hình đặc điểm, sự hoạt động của đối tượng nghiện, tình hình tái nghiện, đồng thời tìm ra nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tình trạng nghiện ma tuý và các vấn đề ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự liên quan đến người nghiện ma túy.

+ Nghiên cứu những hình thức, biện pháp mà Cơ sở cai nghiện ma túy Quảng Nam đã tiến hành để quản lý, giáo dục, cảm hoá người nghiện ma tuý. Đánh giá, nhận xét về các hình thức, biện pháp này, kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót này. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp góp phần cùng Cơ sở từng bước nâng cao hiệu quả các hình thức, biện pháp quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý tại Cơ sở theo chức năng được giao, góp phần bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn đi sâu nghiên cứu về người nghiện ma tuý, các hình thức, nội dung quản lý nhà nước về người nghiện ma tuý tại Cơ sở cai nghiện, các cơ quan quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc tại tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Không gian: Cơ sở cai nghiện ma túy Quảng Nam và các Cơ quan liên quan trong công tác tổ chức cai nghiện ma túy bắt buộc.

+Thời gian: Các số liệu, tư liệu và thực tiễn về hoạt động quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý trong luận văn được nghiên cứu khảo sát tại từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu điển hình; Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp; Trao đổi toạ đàm, lấy ý kiến chuyên gia và những cán bộ có kinh nghiệm về công tác này; Tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn; Phối hợp các phương pháp: thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh để thực hiện các nội dung yêu cầu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận Thông qua nghiên cứu đề án góp phần làm rõ thêm lý luận quản lý nhà nước về cai nghiện ma tuý bắt buộc. Từ đó hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với việc cai nghiện ma túy bắt buộc.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu, thành công của luận văn góp phần cùng Cơ sở cai nghiện ma túy Quảng Nam và các cơ quan quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc của Quảng Nam từng bước tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả các hình thức, biện pháp quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý tại Cơ sở cai nghiện, góp phần đẩy lùi tệ nạn ma tuý, phục vụ tốt công tác phòng chống tệ nạn xã hội góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn có kết gồm 03 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý trong quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc.

Chương 2. Thực trạng quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc tại tỉnh Quảng Nam.

Chương 3. Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc tại tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ TRONG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CAI NGHIỆN MA TÚY BẮT BUỘC

    1. 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc

1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc

– Khái niệm về ma túy Ở Việt Nam, thuật ngữ “ma tuý” xuất hiện ban đầu có nghĩa là thuốc phiện. Bởi vì, lúc bấy giờ người ta mới biết đến một chất có hoạt tính sinh học và gây nghiện được sử dụng đó là thuốc phiện. Ngày nay những chất gây nghiện có hoạt tính sinh học ngày càng tăng nhiều, đa dạng, phong phú, ngoài thuốc phiện còn có cần sa, côcain… và còn có các chất khác được tổng hợp trong phòng thí nghiệm cũng có tính chất gây nghiện, nên người ta sử dụng thuật ngữ “ma tuý” để chỉ chung cho các chất này. Vì vậy, khái niệm ma tuý được mở rộng về nội dung, tuy nhiên vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau do xuất phát từ các góc độ và mục đích nghiên cứu khác nhau.

+ Theo từ điển Tiếng Việt thì: Ma tuý là dùng cho các chất mà khi sử dụng có trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng lâu thành nghiện. [8, tr.583]

+ Theo quy định tại điều 2 của Luật phòng chống ma túy năm 2000:

Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.

Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng.

Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.

Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành.

Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý do Chính phủ quy định.

Từ đó có thể rút ra: Ma tuý là những chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, khi vào cơ thể (đường hút, uống, ngậm, chích) gây ức chế hay kích hệ thần kinh trung ương, làm giảm đau, gây ảo giác, sảng khoái, gây cho người nghiện ham muốn không kìm chế được, phải tăng liều để thoả mãn cơn thèm.

– Khái niệm về người nghiện ma túy

Nói đến các vấn đề quản lý, giáo dục người nghiện ma tuý không thể không đặt vấn đề trong tổng thể tình hình nghiện hút, hít, tiêm chích… hiện nay. Nghiên cứu về người nghiện phải đặt trong mối quan hệ với hiện tượng nghiện, trong mối quan hệ với nhóm những người thường sử dụng ma tuý trái phép, đặc biệt với loại đối tượng sử dụng trái phép các chất ma tuý và các đối tượng cưỡng bức, dụ dỗ người khác vào con đường nghiện ngập ma tuý. Tuy nhiên, trong số đó chúng ta cần quan tâm đặc biệt với đối tượng nghiện. Bởi con nghiện vừa là nạn nhân, vừa là người có lợi, vừa là người mang thông tin rất nhiều về các đối tượng phạm tội khác.

Về nghiện ma tuý có quan điểm cho rằng cần hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng thì nghiện ma tuý là  tình trạng một bộ phận trong xã hội gồm những người có thói quen dùng các chất ma tuý. Theo nghĩa hẹp thì nghiện ma tuý là sự lệ thuộc của con người cụ thể đối với các chất ma tuý. Sự lệ thuộc đó tác động lên hệ thần kinh trung ương, tạo nên những phản xạ có điều kiện không thể quên hoặc từ bỏ được, gây nên tâm trạng thèm muốn vô độ, khát khao khôn cùng và cuối cùng là hành động một cách mù quáng, mất hết lý trí gây nên những tổn thất cho chính cá nhân người nghiện, gia đình và cộng đồng.

Theo quan điểm giải quyết tệ nạn xã hội thì khái niệm về người nghiện ma tuý được xác định như sau: Người nghiện ma tuý là những người sử dụng các chất ma tuý dưới nhiều hình thức dẫn đến sự lệ thuộc vào ma tuý ở nhiều mức độ khác nhau gây tổn hại đến sức khoẻ, nhân cách người nghiện, ảnh hưởng xấu đến đời sống, sinh hoạt, và gây mất trật tự an toàn xã hội.

Người nghiện ma tuý từ chỗ là những người bình thường do ham thích hội hè, thích tụ tập trong các nhóm xã hội không chính thức có xu hướng không lành mạnh, có nhiều đối tượng kém được giáo dục dần dần bị lôi kéo, do sự lệ thuộc vào ma túy trở nên xa lánh cuộc sống với mọi người, xa cách xã hội và suy đồi về nhân cách. Khi đến cơn nghiện có thể đưa con người vào những tình trạng khốn quẫn mất hết phương hướng thậm chí đi vào con đường phạm tội.

Nghiện ma tuý có nhiều hình thức sử dụng khác nhau, tuỳ thuộc vào từng loại ma tuý, và thói quen của từng người như nghiện hút, nghiện chích, hít, uống, ngậm, nuốt các sản phẩm ma tuý… Trong đó thì hình thức nghiện chích là nguy hiểm nhất, vì nó làm người nghiện khoái cảm cực mạnh và gây nghiện nhanh chóng đây cũng là một trong những hình thức lây lan căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS ở nước ta.

– Cai nghiện ma túy bắt buộc: theo quy định tại điều 95 của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng.

– Quản lý nhà nước là: một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội.

Từ những khái niệm trên có thể rút ra khái niệm quản lý nhà nước về cai nghiện bắt buộc là hoạt động điều hành của các cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức xã hội do Nhà nước ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở pháp luật, để thi hành pháp luật nhằm thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực cai nghiện ma túy bắt buộc. Quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc là một bộ phận của quản lý Nhà nước về phòng chống ma túy.

1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc

Thứ nhất, về đặc điểm chủ thể:

Vì ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, đến trật tự an toàn xã hội. Công tác cai nghiện ma túy bắt buộc đóng góp vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống ma túy trên phạm vi toàn quốc nên chủ thể quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc phải là Chính phủ, giao Bộ Lao động thương binh và xã hội chủ trì phối hợp với các cơ quan Nhà nước khác thực hiện chức năng Quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về kết quả thực hiện.

Chính quyền các cấp thực hiện Quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc tại địa phương.

Thứ hai, về đặc điểm khách thể:

Khách thể Quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc là người nghiện ma túy. Khi đã nghiện ma tuý thì gây nên những hậu quả khôn lường cho bản thân, gia đình và xã hội. Một số công trình nghiên cứu khoa học cho thấy rằng khi nghiện ma tuý có những tác hại cơ bản sau:

* Với bản thân người nghiện

Về sức khoẻ: Ma tuý phá hoại sức khoẻ con người, ma tuý làm cho người nghiện bị rối loạn sinh lý, trao đổi chất kém, cơ thể suy nhược, các chức năng hô hấp, tuần hoàn, tiêu hoá, sinh dục và sinh sản suy giảm, dễ mắc bệnh tim mạch, gan thần kinh. Ma tuý làm cho người nghiện bị suy giảm khả năng chống đỡ bệnh tật (khả năng miễn dịch) do vậy, người nghiện ma tuý thường bị các bệnh do vi khuẩn gây ra như : lao, phổi…, và các bệnh do virut mang lại như viêm gan A, Viêm gan B… Ma tuý làm rối loạn chức năng thần kinh, trí nhớ kém minh mẫn, hay quên, tinh thần giảm sút, đau đầu, chóng mặt, run rẩy chân tay, nếu bị nặng có thể dẫn đến bệnh tâm thần, ảo giác. Nghiện ma tuý là một trong những nguy cơ dẫn đến bị lây nhiễm HIV/AIDS (ảnh hưởng đến sự phát triển nòi giống ). Khi đã nghiện ma tuý nặng, các hoóc môn sinh dục bị suy giảm dẫn đến giảm nhu cầu tình dục, giảm khả năng sinh sản, hoặc sinh con ốm yếu, trí tuệ chậm phát triển. Đối với phụ nữ có thai, nghiện ma tuý có thể dẫn đến xảy thai, thai lưu, đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai, gầy gò ốm yếu, khó nuôi, chậm phát triển về thể lực và trí tuệ. Mặt khác, người nghiện ma tuý có nguy cơ cao về nhiễm HIV bằng hai con đường tình dục và do dùng chung kim tiêm. Lúc mới sử dụng ma tuý thường gây kích thích tình dục để thoả mãn nhu cầu đó đối tượng thường quan hệ với gái mại dâm, cho nên rất dễ lây nhiễm HIV. Và khi tiêm chích ma tuý, đối tượng thường dùng chung bơm kim tiêm mà không khử trùng hoặc khử trùng qua loa không đảm bảo yêu cầu vệ sinh nên rất dễ bị lây nhiễm HIV/AIDS ( ở Việt Nam 65 % người nhiễm HIV là người nghiện ma tuý ).

Về mặt tâm lý: Khi nghiện việc thường xuyên đưa các chất ma tuý vào cơ thể để thoả mãn cảm giác thèm khát trở thành nhu cầu cấp bách. Nhu cầu này lấn át mọi nhu cầu khác của con người, người nghiện trở nên ích kỷ, thờ ơ với mọi người, kể cả với người thân của chính mình. Nếu thiếu thuốc người nghiện trở nên u sầu, cau có vật vã, tính tình trở nên hung hãn, không làm chủ được bản thân… Khi dùng loại ma tuý kích thích gây ảo giác sẽ làm cho người nghiện có những nhận thức và hành động không phù hợp đạo đức, tập quán và Pháp luật, dễ dàng dẫn đến con đường phạm tội.

Về mặt kinh tế: Khi mắc nghiện, người nghiện tiêu một lượng tiền khổng lồ vào ma tuý, mặt khác họ dễ mất việc làm, uy tín, sức khoẻ kém, tâm lý không ổn định làm cho họ suy sụp khánh kiệt về kinh tế.

* Với gia đình

Gia đình có người nghiện ma tuý phải gánh chịu nhiều bất hạnh. Những người nghiện làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Nhu cầu cần tiền để mua ma tuý của người nghiện là rất lớn, mỗi ngày ít nhất từ 50.000-100.000 đồng/ngày thậm chí 1.000.000 – 2.000.000 đồng/ ngày, vì vậy khi lên cơn nghiện người nghiện ma tuý có thể tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ đạc của gia đình vào việc mua ma tuý để thoả mãn cơn nghiện của mình, hoặc để có tiền sử dụng ma tuý, nhiều người đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, hoặc thậm chí giết người, cướp của.

Sự bất hoà thường xuyên giữa người nghiện và gia đình do mâu thuẫn về lối sống, thái độ cư xử, về kinh tế dẫn đến những tổn thất về tình cảm, gia đình tan vỡ khó có thể cứu vãn được. Thực tế có nhiều chuyện rất thương tâm và đau lòng do người nghiện ma tuý gây nên như con giết cha, chồng giết vợ, cháu giết bà… để lấy tiền đi mua ma tuý. Thậm chí có người cha buộc phải giết đứa con trai duy nhất của mình rồi ra toà tự thú vì đã lao vào con đường nghiện ma tuý rồi đi gây tội ác với bà con dân phố và xã hôị.

Sức khoẻ các thành viên khác trong gia đình bị giảm sút vì luôn lo lắng, mặc cảm, ăn không ngon, ngủ không yên…vì trong gia đình có người nghiện.

Gia đình tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của người nghiện do ma tuý gây ra. Ví dụ: HIV/AIDS, viêm gan siêu vi…

* Với xã hội      

Ma tuý làm cho trật tự an toàn xã hội bị đe doạ, nhiều người nghiện ma tuý trở thành tội phạm. Kết quả điều tra xã hội cho thấy 80% số người nghiện có thể phạm tội để thoả mãn nhu cầu về ma tuý. Các tổ chức và cá nhân buôn bán ma tuý cũng thường xuyên thanh toán nhau để giành quyền  cung cấp ma tuý, chúng sẵn sàng đối đầu với các cơ quan, nhà nước chức trách một khi công việc của chúng bị ngăn chặn.

Nạn ma tuý là nguồn gốc, là điều kiện thúc đẩy phát triển các tệ nạn xã hội khác như: tham nhũng, cờ bạc, mại dâm và các loại tội phạm hình sự… Theo thống kê của các cơ quan chuyên môn cho biết: 2/3 tổng số các vi phạm trật tự công cộng và nền TTXH nói chung là có những đối tượng nghiện ngập ma tuý hoặc có liên quan đến ma tuý gây nên. Đa số trong số họ là thanh niên trong đó có cả sinh viên lười học, bỏ học, không có việc làm, cờ bạc, rượu chè… họ bê tha, thiếu tình người, thiếu niềm tin và lòng tự trọng. Đây chính là nguồn bổ sung cho các hành vi phạm tội đang có xu hướng gia tăng, gây lo lắng trong nhân dân. Nhiều đối tượng nghiện ma tuý đã tìm kiếm ma tuý bằng con đường “ buôn bán ” ma tuý để lấy lãi hút, hít càng làm cho đội quân bán lẻ ma tuý gia tăng mạnh mẽ. Những đối tượng nghiện ma tuý là nữ thường kiếm tiền bằng nghề mại dâm, đây là con đường lây lan HIV rất nguy hiểm cho xã hội.

 Ma tuý làm tiêu tốn của xã hội mỗi năm rất nhiều tỉ đồng cho việc mua ma tuý, chạy chữa cho người nghiện, để đối phó với ma tuý… Mặt khác ma tuý cũng làm giảm lực lượng lao động và chất lượng lao động cũng giảm sút. Mỗi năm ngoài việc các đối tượng nghiện đưa vào cơ thể một lượng chất độc trị giá hàng nghìn tỉ đồng thì nhà nước cũng phải chi phí rất nhiều tỉ đồng cho việc chữa trị, cai nghiện, chăm sóc thuốc men cho những người nghiện, đó là chưa kể đến những khoản tài chính khổng lồ cho công tác đấu tranh, phòng chống buôn bán các chất ma tuý,  tổ chức sử dụng trái phép các chất ma tuý.

 Ma tuý làm biến chất một số cán bộ cơ quan Nhà nước, nhất là cơ quan bảo vệ Pháp luật … Vì buôn bán ma tuý mang lại lợi nhuận cao do vậy tội phạm ma tuý đã dùng tiền để mua chuộc một số ít cán bộ thoái hoá biến chất.

Như vậy, tệ nạn ma tuý gây nên nhiều tác hại cả về sức khỏe, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh trật tự và trở thành thảm hoạ chung của cả nhân loại.

Thứ ba, về mục tiêu Quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc:

Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, lấy các cơ quan quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc làm nồng cốt, có sự chung tay của gia đình và cộng đồng trong việc kiềm hãm số lượng người nghiện, giảm thiểu các hệ lụy do người nghiện ma túy gây ra cho xã hội, giáo dục, giúp đỡ người nghiện cai nghiện tốt, có việc làm sau cai nghiện, tỷ lệ tái nghiện giãm đến mức thấp nhất nhằm góp phần thực hiện thắng lợi công tác phòng chống ma túy vì một xã hội phồn thịnh, văn minh, không có tệ nạn ma túy.

Quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc

Thứ nhất, vai trò định hướng

Trong những năm qua, công tác cai nghiện ma túy trên phạm vi toàn quốc đã được quan tâm đầu tư, tổ chức thực hiện rất quyết liệt bằng nhiều biện pháp khác nhau với sự tham gia hỗ trợ của toàn xã hội. Tuy nhiên, tình hình người nghiện ma túy vẫn không có chiều hướng giảm xuống mà trái lại còn tăng lên một cách báo động, xuất hiện nhiều tụ điểm sử dụng ma túy tập thể trong quán bar, karaoke…, tình trạng người nghiện lên cơn ngáo đá gây rối làm mất trật tự an toàn xã hội, gây án nghiêm trọng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân.

Vì vậy, trong những năm tới, cùng với việc phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm ma túy của các cơ quan chức năng thì công tác cai nghiện ma túy cũng cần được quan tâm đầu tư, là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể xã hội.

Với những lý do nêu trên, ngày 27/12/2013 thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2596/QĐ- TTg về việc phê duyệt đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020. Với mục tiêu cơ bản, chiến lược như sau:

Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dự phòng và điều trị nghiện nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy, kiềm chế sự gia tăng số người nghiện mới, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và nâng cao sức khỏe nhân dân; hỗ trợ người nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Trước mắt những việc cần làm được xác định là:

– Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân về dự phòng và điều trị nghiện, phấn đấu 80% cán bộ chính quyền các cấp và 60% người dân ở độ tuổi trưởng thành hiểu biết cơ bản về nghiện ma túy, các biện pháp, mô hình dự phòng và điều trị nghiện.

– Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện, phấn đấu 80% cán bộ tham gia công tác dự phòng và điều trị nghiện được đào tạo kiến thức cơ bản về điều trị nghiện; 50% cán bộ làm công tác tư vấn về dự phòng và điều trị nghiện được đào tạo và được cấp chứng chỉ; 80% cán bộ y tế công tác tại các cơ sở điều trị nghiện có đầy đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định về điều trị nghiện.

– Nâng tỷ lệ số người nghiện được điều trị so với số người nghiện có hồ sơ quản lý từ 35% (tương đương 63.000 người/180.783 người) hiện nay lên 70% vào năm 2015 trong đó, giảm tỷ lệ điều trị bắt buộc tại Trung tâm từ 63% hiện nay xuống còn 20% vào năm 2015.

– Tăng tỷ lệ người nghiện hòa nhập cộng đồng có việc làm từ 40% hiện nay lên 50%.

Sau khi đã thực hiện thắng lợi các mục tiêu nêu trên thì định hướng đến năm 2020 cần phải:

– Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân về dự phòng và điều trị nghiện, phấn đấu 100% cán bộ chính quyền các cấp và 80% người dân ở độ tuổi trưởng thành hiểu biết cơ bản về nghiện ma túy, các biện pháp, mô hình dự phòng và điều trị nghiện.

– Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện, phấn đấu 90% cán bộ tham gia công tác dự phòng và điều trị nghiện được đào tạo kiến thức cơ bản về điều trị nghiện; 100% cán bộ làm công tác tư vấn về dự phòng và điều trị nghiện được đào tạo và được cấp chứng chỉ; 100% cán bộ y tế công tác tại các cơ sở điều trị nghiện có đầy đủ văn bằng chứng chỉ theo quy định về điều trị nghiện.

– Nâng tỷ lệ số người nghiện được điều trị so với số người nghiện có hồ sơ quản lý (ước tính dự báo đến năm 2020 khoảng 250.000 người) từ 70% vào năm 2015 lên 90% vào năm 2020 (tương đương 225.000 người) trong đó, giảm tỷ lệ điều trị bắt buộc tại Trung tâm từ 20% vào năm 2015 xuống còn 6% vào năm 2020.

– Tăng tỷ lệ người nghiện hòa nhập cộng đồng có việc làm từ 50% vào năm 2015 lên 70%.

Ngày 26/12/2014 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ- CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới, theo đó “ Đổi mới công tác cai nghiện ma túy ’’ là một trong những nhiệm vụ mà nghị quyết đề nghị cần tập trung làm tốt.

Thứ hai, đảm bảo cho công tác cai nghiện ma túy.

Để làm giảm tệ nạn ma túy, cai nghiện đạt hiệu quả cho người nghiện ma túy, thực hiện thắng lợi các chủ trương, kế hoạch của các cấp, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Trong thời gian đến, các cấp chính quyền cần đảm bảo các yếu tố sau đây cho công tác cai nghiện ma túy.

Một là: có cơ chế chính sách hợp lý cho từng loại hình cai nghiện ma túy trên địa bàn. Gắn việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, xã hội với công tác cai nghiện ma túy nhằm làm giảm tác động tiêu cực của người nghiện ma túy đến môi trường xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật an toàn xã hội.

Hai là: Tập trung nghiên cứu các chính sách xã hội liên quan đến người nghiện ma túy, người sau cai nghiện như chính sách giải quyết việc làm, tạo điều kiện phát triển kinh tế…Kiểm soát tốt việc vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy.

Ba là: chính quyền các huyện, thị xã, thành phố cần phối hợp chặt chẽ với cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh để tổ chức thực hiện công tác cắt cơn giải độc, hỗ trợ cai nghiện ma túy tại cộng đồng.

Bốn là: Tăng cường đầu tư ngân sách đồng thời tích cực tranh thủ các nguồn viện trợ, vận động xã hội hóa để đảm bảo đủ nguồn lực cho công tác cai nghiện.

Cũng cố hoàn thiện và mở rộng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị cho cơ sở cai nghiện ma túy để đảm bảo số người nghiện có quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được cai nghiện. Đồng thời, đẩy mạnh công tác giáo dục, dạy nghề, hướng nghiệp, tạo việc làm nhằm giúp người nghiện nhanh chóng hòa nhập cộng đồng chống tái nghiện.

    1. 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc:

1.2.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về cai nghiện ma túy

Trong công tác cai nghiện ma túy, việc xây dựng một chương trình, kế hoạch, chính sách đúng đắn ở tầm vĩ mô được xem là điều kiện tối quan trọng, là cơ sở pháp lý cốt lõi khởi đầu nhằm đạt được những mục tiêu trước mắt và lâu dài. Đồng thời cũng là căn cứ để các địa phương ban hành những kế hoạch giải quyết các vấn đề liên quan giúp hoàn thành tốt chương trình công tác đối với cai nghiện ma túy.

Pháp luật với giá trị vốn có của nó đã trở thành công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với xã hội nói chung và cai nghiện ma túy nói riêng. Để quản lý Nhà nước về cai nghiện ma túy có hiệu quả, trước hết Nhà nước cần có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh tổng thể các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức cai nghiện ma túy.

Ở lĩnh vực này các cơ quan Nhà nước đã ban hành hàng loạt các loại văn bản, cụ thể như:

– Nghị định 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 cảu Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất;

– Quyết định 2596/QĐ- TTg về việc phê duyệt đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020;

– Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

– Nghị định số Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP; – Nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng;

– Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2012 của Chính Phủ quy định về điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế

– Nghị định số 80/2018/NĐ – CP ngày 17/5/2018 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 147/2003/NĐ – CP ngày 2/12/2003 của Chính phủ quy định về điều kiện, thủ tục cấp giấy phép và quản lý hoạt động cửa cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện; Nghị định 135/2004/NĐ – CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động cảu cơ sở chữa bệnh theo pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh;

– Thông tư số 14/2014/TT-BLĐTBXH ngày 12 tháng 6 năm 2014 của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội ban hành biểu mẫu về lập hồ sơ đề nghị, thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và hướng dẫn xây dựng nội quy, quy chế đối với người nghiện của cơ sở cai nghiện bắt buộc;

– Thông tư số 12/2018/ TT – BYT ngày 28/5/2015 Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của nghị định 96/2012/NĐ – CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.

– Thông tư liên tịch 41/2010/TTLT/BLĐTBXH- BYT ngày 31/12/2010 của Bộ Lao động thương binh và xã hội , Bộ y tế Hướng dẫn quy trình cai nghiện cho người nghiện ma túy tại các trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội và cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện.

– Thông tư liên tịch 17/2015/TTLT/BYT – BLĐTBXH ngày 9/7/2015 cảu Bộ Y tế, Bộ Lao động thương binh và xã hội quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện.

– Thông tư liên tịch 148/2014/TTLT/BTC- BLĐTBXH Quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế dộ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chế độ đối với người chưa thành niên người tự nguyện chữa trị, cai nghiện tại trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội và tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng.

– Thông tư liên tịch 03/2012/ TTLT- BLĐTBXH – BYT – BCA ngày 10/2/2012 của Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Y tế, Bộ công an quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều cảu nghị định số 94/2010/NĐ – CP ngày 9/9/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng.

Tuy nhiên, trong hoạch định và xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cai nghiện ma túy còn nhiều chồng chéo, chưa thống nhất quan điểm về người nghiện là người bệnh, hay là tệ nạn xã hội để có cách ứng xử cho phù hợp, do đó khi tổ chức thực hiện có những nơi còn mơ hồ, lúng túng trong quản lý dẫn đến hàng loạt các vụ vỡ trại gây hoang mang trong dư luận và bất ổn về trật tự xã hội.

1.2.2. Triển khai thực hiện các quy định cụ thể của quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy bắt buộc.

Thứ nhất, về chủ thể:

Để tăng cường năng lực cho lực lượng làm công tác phòng chống ma túy nói chung và cai nghiện ma túy nói riêng, trong thời gian qua Chính phủ và chính quyền các địa phương đã chủ động chỉ đạo kiện toàn bộ máy, lực lượng các cơ quan làm công tác cai nghiện ma túy. Triển khai các chương trình tập huấn kỹ năng cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công tác cai nghiện ma túy.

Đầu tư xây dựng, nâng cấp mở rộng các Cơ sở cai nghiện trên toàn quốc để đảm bảo điều kiện tiếp nhận học viên. Thành lập các tổ cai nghiện ma túy tại xã phường thị trấn, thành lập các cơ sở điều trị và các điểm cấp phát thuốc methadone, giao chức năng cho các sở ban ngành liên quan đến công tác lập hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo nghị định 221/2013/NĐ – CP. Thành lập cơ sở xã hội để quản lý người nghiện không có nơi cư trú ổn định trong thời gian làm đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Tuy nhiên việc bố trí nguồn lực để thực hiện công tác cai nghiện ma túy tại các địa phương còn nhiều bất cập: định mức cán bộ quản lý đối tượng, khung năng lực cho các vị trí việc làm…, cơ sở xã hội chưa được đầu tư đúng mức, cán bộ làm công tác cai nghiện tại cộng đồng còn kiêm nhiệm, chưa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chưa có cơ sở vật chất dẫn đến việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chưa đem lại hiệu quả.

Thứ hai, về khách thể:

Đối tượng đưa vào Cơ sở cai nghiện

Đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 3 của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP gồm:

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy.

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định.

Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

– Khi phát hiện người sử dụng ma túy trái phép, Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm lập biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép của người đó và tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp cá nhân, tổ chức phát hiện người sử dụng ma túy trái phép thì báo cho cơ quan Công an cấp xã nơi người có hành vi vi phạm để lập biên bản và xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ:

Trường hợp người vi phạm cư trú tại xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm và đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định 221;

Trường hợp người vi phạm có nơi cư trú không thuộc xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm thì bàn giao người và biên bản vi phạm cho cơ quan Công an cấp xã nơi người vi phạm cư trú để tiến hành lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định 221. Việc bàn giao phải được lập thành biên bản, mỗi bên giữ một bản;

Trường hợp chưa xác định được nơi cư trú ổn định của người vi phạm, thì tiến hành xác định nơi cư trú ổn định của người đó. Trong thời gian 15 ngày làm việc, nếu xác định được nơi cư trú ổn định thì thực hiện theo Điểm a hoặc Điểm b Khoản 1 Điều 8; nếu không xác định được nơi cư trú ổn định thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định 221.

– Trong quá trình điều tra, thụ lý các vụ vi phạm pháp luật, cơ quan Công an cấp huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh phát hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép hoặc dấu hiệu nghiện ma túy của người vi phạm thì tiến hành lập biên bản xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với người đó:

Trường hợp người vi phạm thuộc quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 221 thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này. Hồ sơ được gửi cho phòng Tư pháp cấp huyện nơi người đó cư trú.

Trường hợp người vi phạm thuộc quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định này thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định 221. Hồ sơ được gửi cho phòng Tư pháp cấp huyện nơi cơ quan lập hồ sơ đóng trụ sở.

Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện

– Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định: Bản tóm tắt lý lịch; Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép; Bản tường trình của người vi phạm hoặc của người đại diện hợp pháp của họ; Tài liệu chứng minh đã chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bao gồm: Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy và Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; Giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện ma túy tại cộng đồng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc tài liệu chứng minh bị đưa ra khỏi chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về việc giao cho gia đình quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Văn bản của cơ quan lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

– Đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định: Bản tóm tắt lý lịch; Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép; Bản tường trình của người vi phạm hoặc của người đại diện hợp pháp của họ; Văn bản của cơ quan lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về việc giao cho tổ chức xã hội quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Quyết định đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ quy định tại Điều 103 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì giao cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính có hiệu lực, Tòa án nhân dân đã ra quyết định phải gửi cho người bị áp dụng, Trưởng Công an cấp huyện và Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện nơi đã gửi hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và các cơ quan hữu quan để thi hành theo quy định của pháp luật; quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng còn được gửi cho cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

Tiếp nhận người bị đưa vào Cơ sở cai nghiện

Khi tiếp nhận người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc phải kiểm tra đối chiếu người, giấy chứng minh nhân dân (nếu có) hoặc dấu vân tay với các thông tin trong hồ sơ quy định tại Khoản 2 Điều 103 để bảo đảm đúng người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và lập biên bản giao nhận người, biên bản ghi rõ tình trạng sức khỏe của người đó, tài liệu, hồ sơ, tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo. Biên bản được lập thành 04 bản, mỗi bên giữ 01 bản, 01 bản gửi Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện để lưu hồ sơ và 01 bản gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi ra quyết định.

Hồ sơ tiếp nhận người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm: Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân cấp huyện; Bản sao biên bản đưa người thi hành quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do cơ quan Công an cấp huyện cung cấp; Bản sao tóm tắt lý lịch của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do cơ quan lập hồ sơ cung cấp. Bộ phận Y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm kiểm tra sức khỏe và lập hồ sơ bệnh án của người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để theo dõi, quản lý; điều trị thích hợp.

Thời hạn chữa trị, cai nghiện, phục hồi tại Cơ sở

Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng.

Quy trình cai nghiện bao gồm 5 giai đoạn:

1- Giai đoạn tiếp nhận, phân loại

– Tư vấn cho người nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy về phương pháp cai nghiện, vai trò, trách nhiệm của gia đình để động viên người thân họ sẵn sàng cai nghiện.

– Khám sức khỏe ban đầu và lập hồ sơ bệnh án theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này.

– Kiểm tra đồ dùng cá nhân; loại trừ các chất ma túy kể cả thuốc gây nghiện, các thuốc có dẫn suất từ ma túy nhóm chất dạng thuốc phiện.

– Xét nghiệm, phát hiện chất ma túy và các xét nghiệm khác theo chỉ định của bác sĩ.

– Hướng dẫn người nghiện ma túy thực hiện các quy chế quản lý người nghiện theo Thông tư số 14/2014/TT-BLĐTBXH ngày 12 tháng 6 năm 2014 của Bộ Lao động -Thương binh và xã hội ban hành biểu mẫu về lập hồ sơ đề nghị, thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và hướng dẫn xây dựng nội quy, quy chế đối với người nghiện của cơ sở cai nghiện bắt buộc;

– Căn cứ vào hồ sơ bệnh án, các kết quả xét nghiệm và các tài liệu khác có liên quan, cán bộ tiếp nhận phân loại đối tượng theo mức độ nghiện và loại ma túy sử dụng, tình trạng sức khỏe để tiếp nhận và bố trí vào các khu điều trị.

– Lập kế hoạch cai nghiện cho người từng người nghiện ma túy dựa trên các căn cứ vào loại ma túy sử dụng, thời gian sử dụng ma túy, nguyên nhân nghiện ma túy và các rối loạn tâm lý của người nghiện ma túy.

2- Giai đoạn điều trị cắt cơn, giải độc, điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội

– Áp dụng các bài thuốc đông y hoặc thuốc từ dược liệu đã được Bộ Y tế cho phép lưu hành và Hướng dẫn điều trị hỗ trợ cắt cơn hoặc Hướng dẫn điều trị cai nghiện ma túy đã được Bộ Y tế ban hành.

– Thực hiện các biện pháp tâm lý, vật lý trị liệu, giúp người nghiện ma túy bớt lo âu, làm giảm hội chứng cai.

– Trong thời gian điều trị cắt cơn phải thực hiện nghiên túc các quy định của Bộ Y tế về điều trị cắt cơn, giải độc. Giai đoạn điều trị cắt cơn, giải độc: Thực hiện từ 10 – 20 ngày, sau đó tổ chức xét nghiệm, nếu kết quả xét nghiệm là âm tính thì chuyển sang giai đoạn tiếp theo, nếu kết quả xét nghiệm là dương tính thì tiếp tục điều trị cho đến khi có kết quả xét nghiệm là âm tính.

– Tổ chức truyền thông giáo dục sức khỏe về các bệnh nhiễm trùng cơ hội, HIV/AIDS và các bệnh, nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục cho người nghiện ma túy.

– Tổ chức điều trị cho người nghiện ma túy nhiễm HIV, bị bệnh lao hoặc các bệnh thông thường khác theo đúng phác đồ do Bộ Y tế quy định.

– Tư vấn cho người nghiện ma túy về điều trị nghiện ma túy, giúp họ có cơ hội tìm hiểu về tác hại của ma túy và hậu quả của việc sử dụng ma túy; đồng thời thảo luận với từng người nghiện ma túy về kế hoạch điều trị phù hợp nhất với hoàn cảnh và điều kiện của từng người.

3- Giai đoạn giáo dục, tư vấn, phục hồi hành vi, nhân cách

– Thực hiện liệu pháp tâm lý tập thể:

+ Giao ban buổi sáng; hội thảo về các chủ đề đạo đức, trách nhiệm với gia đình và xã hội về tác hại của nghiện ma túy. Các hoạt động phong phú, thể hiện tình thương yêu của tập thể với cá nhân và trách nhiệm của cá nhân với tập thể đó như một gia đình;

+ Tổ chức cho người nghiện ma túy học tập về đạo đức, lối sống, quyền và nghĩa vụ của công dân; tìm hiểu Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản pháp luật khác; rèn luyện, tác phong, lối sống lành mạnh không ma túy;

+ Ngoài ra, có thể dùng các phương pháp trị liệu tâm lý khác như tâm năng dưỡng sinh, thiền trong trị liệu tập thể.

– Thực hiện liệu pháp tâm lý nhóm: Tổ chức người nghiện ma túy thành từng nhóm: nhóm cùng hoàn cảnh, nhóm cùng tiến bộ. Tại nhóm, người nghiện ma túy có thể bày tỏ những tâm tư, vướng mắc, lo âu để mọi người trong nhóm cùng thảo luận, tìm cách giúp đỡ, xóa bỏ sự cô độc, mặc cảm, thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau, sự cởi mở và chia sẻ giữa mọi người.

Hoạt động này phải được duy trì thường xuyên (hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng).

– Thực hiện liệu pháp tâm lý cá nhân: Tổ chức hoạt động tư vấn cá nhân giúp người nghiện ma túy tháo gỡ những vướng mắc, lo lắng về gia đình, sức khỏe, bệnh tật.

– Thực hiện liệu pháp lao động; Tổ chức cho người nghiện ma túy tham gia các hoạt động lao động hàng ngày như: dọn vệ sinh, nấu ăn, trồng cây và các hoạt động lao động khác nhằm giúp người nghiện ma túy hiểu được giá trị của sức lao động và phục hồi sức khỏe.

– Liệu pháp thể dục – thể thao, vui chơi giải trí: Tổ chức cho người nghiện ma túy tham gia các hoạt động thể dục – thể thao, vui chơi giải trí như: bóng đá, bóng chuyền, văn hóa – văn nghệ, xem ti vi và các loại hình thể thao, giải trí khác.

Những hoạt động trị liệu trên được lặp lại hằng ngày, xen kẽ với lao động trị liệu, duy trì hằng ngày từ 6 giờ đến 12 giờ (trừ giờ ăn trưa, nghỉ trưa, ăn tối).

4- Giai đoạn lao động trị liệu, học nghề

– Lao động trị liệu: Tổ chức lao động trị liệu với mục đích phục hồi sức khỏe và kỹ năng lao động cho người nghiện ma túy. Căn cứ vào sức khỏe, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp của người nghiện ma túy, các Cơ sở cai nghiện ma túytổ chức lao động theo quy định tại Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP;

– Dạy nghề, tạo việc làm: Tùy theo tình hình cơ sở vật chất, kinh phí, nhu cầu của người nghiện ma túy, Cơ sở cai nghiện ma túyhoặc cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện có thể mở các lớp dạy nghề, tạo việc làm cho người nghiện ma túy hoặc liên kết các cơ sở dạy nghề để tổ chức dạy nghề và cấp chứng chỉ học nghề cho người nghiện ma túy.

5- Giai đoạn phòng, chống tái nghiện, chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng

– Tư vấn các biện pháp phòng, chống tái nghiện cho người nghiện ma túy; các bài học từ chối sử dụng ma túy khi về cộng đồng, sử dụng thuốc chống tái nghiện có nhu cầu.

– Kiểm tra sức khỏe trước khi rời khỏi Cơ sở cai nghiện ma túy và tổng kết bệnh án.

– Người nghiện ma túy đang điều trị nhiễm HIV, bệnh lao hoặc các bệnh khác phải lập phiếu chuyển tới các điểm điều trị của ngành y tế tại cộng đồng để họ tiếp tục được điều trị.

– Người người nghiện ma túy thuộc diện phải chuyển sang các cơ sở quản lý sau cai, hồ sơ bàn giao phải có: phiếu khám sức khỏe, bản tổng kết kế hoạch cai nghiện.

Quản lý học viên

Học viên được bố trí chổ ở, sinh hoạt theo tổ, đội và phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Căn cứ nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc, hàng tháng, quý, các tổ, đội tổ chức sinh hoạt để đánh giá kết quả rèn luyện, học tập, lao động của từng học viên và bình bầu, xếp loại theo 04 mức: tốt, khá, trung bình và yếu.

Tiêu chí xếp loại học viên do Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc xây dựng và ban hành. Học viên phải được tham gia vào quá trình xây dựng tiêu chí xếp loại học viên.

Thứ bảy tuần cuối cùng của mỗi tháng, các tổ, đội tiến hành họp bình xét, xếp loại cho từng thành viên. Căn cứ vào tiêu chí xếp loại học viên, từng học viên tự đánh giá xếp loại cho mình, các thành viên khác nhận xét và biểu quyết thông qua. Kết quả bình xét được thông qua khi có ít nhất 2/3 số người dự họp đồng ý. Việc bình xét phải được lập thành biên bản có chữ ký của Tổ trưởng hoặc Đội trưởng và cán bộ phụ trách.

Kết quả xếp loại học viên được thông báo công khai trên phương tiện thông tin của cơ sở cai nghiện bắt buộc trong 03 ngày tuần đầu của tháng tiếp theo để lấy ý kiến rộng rãi. Nếu không có ý kiến khiếu nại, Tổ trưởng gửi kết quả xếp loại về Phòng quản lý học viên để ghi vào Phiếu theo dõi đánh giá, xếp loại học viên trong bộ hồ sơ quản lý học viên.

Trường hợp có khiếu nại về kết quả xếp loại học viên, trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, cán bộ phụ trách tổ, đội có học viên được xếp loại triệu tập họp tổ, đội để xem xét. Việc xem xét được lập thành biên bản gửi Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc để quyết định.

Học viên có thời gian cai nghiện, chữa trị tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ đủ ba tuần trở lên được xếp loại theo tháng; nếu từ đủ hai tháng trở lên được xếp loại theo quý. Việc xếp loại được thực hiện theo hướng dẫn tiêu chí xếp loại học viên.

Chế độ cai nghiện, chăm sóc sức khỏe

Học viên được sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện để xây dựng và thực hiện kế hoạch cai nghiện phù hợp. Học viên được tư vấn, được tham gia sinh hoạt nhóm nhằm giúp họ thay đổi hành vi, nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết tình huống gặp phải trong quá trình cai nghiện và kỹ năng phòng chống tái nghiện.

Học viên được điều trị cắt cơn, giải độc; điều trị rối loạn tâm thần và điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Việc điều trị phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.

Học viên được lập hồ sơ theo dõi sức khỏe và định kỳ 06 tháng được khám, kiểm tra sức khỏe. Việc khám sức khỏe định kỳ phải được lập thành phiếu khám sức khỏe và được lưu trong hồ sơ theo dõi sức khỏe.

Học viên bị ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo vượt quá khả năng điều trị của cơ sở cai nghiện bắt buộc thì được chuyển tới cơ sở y tế hoặc đưa về gia đình để chữa trị, chăm sóc. Chi phí điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do bản thân học viên hoặc gia đình học viên tự thanh toán.

Trường hợp học viên có bảo hiểm y tế còn thời hạn sử dụng thì được quỹ bảo hiểm y tế chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.

Trường hợp học viên không có bảo hiểm y tế, cơ sở cai nghiện bắt buộc hỗ trợ đối với học viên là thân nhân của người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, đối tượng thuộc gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo. Mức hỗ trợ bằng mức quỹ bảo hiểm y tế chi trả cho đối tượng tương ứng. Trường hợp học viên không thuộc đối tượng này nhưng không còn thân nhân, cơ sở cai nghiện bắt buộc hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo mức bằng mức quỹ bảo hiểm y tế chi trả cho đối tượng thuộc hộ nghèo.

Chế độ học văn hóa

Học viên được tham gia các lớp học văn hóa phù hợp với trình độ của mình. Căn cứ vào khả năng và điều kiện thực tế, cơ sở cai nghiện bắt buộc tổ chức dạy văn hóa theo quy định của pháp luật. Cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm tổ chức các lớp học xóa mù chữ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Cơ sở cai nghiện bắt buộc phối hợp với cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo tại địa phương tổ chức thi học kỳ, kết thúc năm học, chuyển cấp, tuyển chọn học sinh giỏi và cấp văn bằng chứng chỉ học văn hóa theo định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Sổ điểm, học bạ, hồ sơ và các biểu mẫu liên quan đến việc học văn hóa ở cơ sở cai nghiện bắt buộc thực hiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chế độ học nghề

Học viên chưa có nghề hoặc có nghề nhưng không phù hợp thì được tham gia học nghề.

Cơ sở cai nghiện bắt buộc thực hiện hoạt động dạy nghề khi có đủ các điều kiện cần thiết về diện tích phòng học, diện tích nhà xưởng, thiết bị dạy nghề, đội ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình và được Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề.

Trường hợp không đảm bảo các điều kiện dạy nghề nêu trên, cơ sở cai nghiện bắt buộc được phép tổ chức liên kết đào tạo với các trường dạy nghề, các cơ sở dạy nghề khác tại địa phương. Hình thức liên kết và nội dung dạy nghề phải bảo đảm tuân thủ theo quy định của pháp luật về dạy nghề.

Chế độ lao động

Học viên được tham gia lao động trị liệu và được phân công công việc phù hợp với sức khỏe, độ tuổi, giới tính. Lao động trong cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm mục đích trị liệu, giúp cho học viên nhận thức được giá trị của lao động và phục hồi kỹ năng lao động đã bị suy giảm do nghiện ma túy.

Thời gian lao động của học viên không quá 04 giờ/ngày. Học viên được nghỉ lao động các ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật. Không tổ chức lao động cho học viên trong giai đoạn cắt cơn giải độc.

Học viên được hưởng tiền công lao động phù hợp với kết quả lao động của họ.

Trường hợp học viên bị tai nạn lao động thì cơ sở cai nghiện bắt buộc phải tổ chức cứu chữa kịp thời và làm các thủ tục cần thiết để giải quyết chế độ trợ cấp theo quy định của pháp luật.

Chế độ thăm, gặp thân nhân

Học viên được quyền thăm gặp thân nhân tại phòng thăm gặp của cơ sở cai nghiện bắt buộc, một tuần một lần, mỗi lần không quá 02 giờ và tối đa không quá 03 thân nhân. Trường hợp gặp lâu hơn phải được Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc đồng ý và tối đa không quá 04 giờ. Học viên có vợ hoặc chồng, được Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc xem xét, cho phép thăm gặp tại phòng riêng của cơ sở cai nghiện bắt buộc một lần trong tháng và tối đa không quá 48 giờ cho một lần gặp. Căn cứ quy mô và điều kiện, cơ sở cai nghiện xây dựng phòng để học viên thăm gặp gia đình.

Việc tổ chức thăm gặp thân nhân được thực hiện theo quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc. Quy chế thăm gặp của cơ sở cai nghiện bắt buộc ban hành theo hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

Khen thưởng, kỷ luật

Cá nhân, tổ chức có thành tích trong việc tổ chức thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen, khen thưởng.

Trong thời gian chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, học viên có tiến bộ hoặc có thành tích xuất sắc thì được khen thưởng bằng một trong các hình thức sau:

– Biểu dương khen thưởng;

– Đề nghị giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại;

– Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Trong thời gian chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, học viên vi phạm quy chế, nội quy của cơ sở cai nghiện bắt buộc thì bị kỷ luật bằng một trong các hình thức sau:

– Phê bình;

– Cảnh cáo;

– Giáo dục tại phòng kỷ luật.

Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc ban hành quy chế khen thưởng, kỷ luật đối với học viên theo hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

Hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng

Trước khi hết thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 03 tháng, cán bộ tư vấn hướng dẫn học viên chuẩn bị xây dựng kế hoạch tái hòa nhập cộng đồng.

Trước khi hết thời hạn chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 45 ngày, cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi thông báo về việc học viên chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học viên cư trú và kèm theo các nhu cầu của học viên cần sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng để xây dựng và thực hiện kế hoạch tái hòa nhập cộng đồng khi học viên trở về địa phương.

Cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm tư vấn cho học viên về việc tái hòa nhập cộng đồng: các chế độ, các dịch vụ y tế liên quan đến cai nghiện ma túy và dự phòng lây nhiễm HIV; hỗ trợ tạo việc làm; các Câu lạc bộ sau cai, Tổ công tác cai nghiện, Đội công tác xã hội tình nguyện, Nhóm tự lực tại địa phương nơi học viên cư trú.

Hết hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Học viên đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc cấp Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Giấy chứng nhận được lập thành 04 bản, 01 bản cho học viên đó, 01 gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, 01 bản gửi Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học viên đó cư trú và 01 bản lưu tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Học viên không xác định được nơi cư trú và không còn khả năng lao động thì sau khi hết thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì được đưa về cơ sở bảo trợ xã hội tại địa phương nơi cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở để chăm sóc.

Quyền và nghĩa vụ của học viên sau khi chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

– Được cấp chứng chỉ, bằng cấp học văn hóa, học nghề (nếu có);

– Học viên là thân nhân của người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, thuộc gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo được cấp tiền ăn đường, tiền tàu xe để trở về nơi cư trú;

– Phải trả lại những vật dụng, trang thiết bị, công cụ lao động và bảo hộ lao động đã mượn, trường hợp làm mất hoặc hư hỏng thì phải bồi thường;

Có thể thấy rằng, các quy định dành cho khách thể khá rõ ràng nhưng học viên ở các Cơ sở cai nghiện bắt buộc đa số là người có tiền án tiền sự, quen lối sống buông thả ngoài xã hội khi vào Cơ sở thường có thái độ bất hợp tác, chay lỳ, chống đối và có những hành vi manh động gây nguy hiểm cho cán bộ quản lý, tuy nhiên chế tài xử lý còn nhẹ, các trường hợp cộm cán đưa đi cơ sở giáo dục bắt buộc theo điều 93 và quy định tại điều 118 của luật xử lý vi phạm hành chính còn nhiều bất cập trong thủ tục. Việc đào tạo nghề, giải quyết việc làm sau cai cai nghiện tạo tiền đề cho người nghiện chống tái nghiện chưa được quan tâm đúng mức, người nghiện khi đưa đi cai nghiện bắt buộc mang tâm lý bị ép buộc do đó họ không quyết tâm cai nghiện để thoát nghiện, từ những vấn đề nêu trên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác cai nghiện trong thời gian qua.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN/NGUYEN THANH TRUNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *