Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn

Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn

Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ xưa đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một lực lượng quan trọng và đông đảo trong đội ngũ những người lao động tạo dựng nên xã hội, phụ nữ có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, phụ nữ khẳng định vai trò quan trọng trên nhiều lĩnh vực hoạt động, như chính trị gia nổi tiếng, nhà lãnh đạo tài ba các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp lớn, nhà khoa học xuất sắc,… Mặc dù được xem là “chân yếu tay mềm” nhưng phụ nữ thời hiện đại không hề thua kém đấng mày râu, họ xứng đáng với danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của phụ nữ trong xã hội nên Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và khẳng định trogn pháp luật các quyền của phụ nữ khi tham gia quản lý đất nước. Điều đó đã tạo nền tảng cho phụ nữ tham gia tích cực và hiệu quả vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ khi thành lập đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn, hiệu quả hơn vào lĩnh vực quản lý nhà nước. Nhờ vậy, phụ nữ Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội và nhiều đại diện tham gia vào hệ thống chính trị, tham gia vào quản lý nhà nước cũng như vào việc đề xuất, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Việt Nam là quốc gia được đánh giá cao về mức độ bảo đảm quyền bình đẳng giới cũng như đảm bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ, thể hiện rõ nhất ở tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội, tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị ở mức tương đối cao. Theo báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Bình đẳng giới, tỷ lệ nữ tham gia chính trị tại tất cả các cấp đã có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ nữ Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng tăng trong 03 nhiệm kỳ liên tiếp. Lần đầu tiên có nữ Chủ tịch Quốc hội và có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị. Nhiệm kỳ 2016 – 2021, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội và HĐND đều tăng so với nhiệm kỳ 2007 – 2011. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội đạt 27,1%, cao hơn mức trung bình 23,4% toàn cầu và 18,6% của Châu Á. Tính đến 2017 có 13/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 16/63 tỉnh, thành phố có nữ lãnh đạo chủ chốt [3, tr.29].

Tuy nhiên, thực tế ở tỉnh Quảng Nam hiện nay quyền bình đẳng tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của phụ nữ và vẫn còn nhiều rào cản để phụ nữ tham gia nhiều hơn trong lĩnh vực này, thể hiện ở tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội của tỉnh Quảng Nam là 0/8 đại biểu và có 8 sở, ban, ngành có cán bộ nữ là lãnh đạo chủ chốt [32, tr.6]. Các rào cản đối với phụ nữ khi tham gia vào quản lý nhà nước tại tỉnh Quảng Nam có thể kể đến như định kiến giới về năng lực, về phong tục tập quán lạc hậu, từ phía gia đình hay từ những chính sách xã hội đã kéo theo những bất cập khác khi họ tham gia vào công tác quản lý đất nước. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết là phải nghiên cứu các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng tham gia quản lý nhà nước trên thực tế của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam cho tương xứng với tiềm năng.

Xuất phát từ những phân tích trên, tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản lý nhà nước tại tỉnh Quảng Nam, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Trình bày khái quát cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ. (1)

– Phân tích và đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam. (2)

– Trên cơ sở những nhiệm vụ (1) và (2) luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ là một vấn đề có phạm vi rộng, không chỉ liên quan đến pháp luật, mà còn gắn liền với nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội và văn hóa. Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về quyền và việc bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ qua Hiến pháp năm 2013, Luật bầu cử Quốc hội, Luật bầu cử hội đồng nhân dân, Luật Bình đẳng giới, Luật khiếu nại, Luật tố cáo,….

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về không gian: Phạm vi tỉnh Quảng Nam.

– Về thời gian nghiên cứu: Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 -2019, giải pháp đến năm 2025.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp. Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở cả 03 chương để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, cũng như đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng chủ yếu ở chương 2, nhằm đánh giá đúng và đầy đủ thực trạng bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam cả về những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong công tác này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở nước ta.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới, công tác phụ nữ tại tỉnh Quảng Nam và làm tài liệu nghiên cứu cho tất cả những ai quan tâm, muốn tìm hiểu về bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ ở tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA PHỤ NỮ

    1. 1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

1.1.1. Khái niệm

– Khái niệm quản lý

Khái niệm Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học tự nhiên và xã hội. Dưới góc độ nghiên cứu riêng của mình, mỗi ngành khoa học lại đưa ra khái niệm về quản lý khác nhau. Tuy nhiên, hiểu theo một cách chung nhất và thống nhất thì quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất. [12, tr.8].

– Khái niệm quản lý nhà nước

Theo Nguyễn Hữu Hải (2010) thì “Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội”. [11, tr.3]

Có thể hiểu QLNN là hoạt động của các cơ quan nhà nước và CBCC có thẩm quyền, hoạt động này mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội. QLNN có đối tượng quản lý là hệ thống các hành vi, hoạt động của con người, các tổ chức trong xã hội và các đối tượng của QLNN có thể chia theo các lĩnh vực như: Chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh trật tự an toàn xã hội…

– Khái niệm quyền của công dân khi tham gia quản lý nhà nước

Quyền con người, quyền công dân có thể được hiểu là những lợi ích tự nhiên, nhu cầu vốn có của công dân, quyền này được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật của mỗi một quốc gia và trong các thỏa thuận pháp lý quốc tế. [7, tr.37]

Trước đây, quyền con người được quy định theo cách thức được Nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên đến Hiến pháp năm 2013 đã có một điểm quy định rất mới, đó là quyền con người được hưởng một cách mặc nhiên và Hiến pháp cũng quy định Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cũng như phải bảo vệ cho những quyền đó được thực hiện trên thực tế:

“1.Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.

2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.” [Theo điều 28, Hiến pháp năm 2013]

Như vậy, có thể hiểu Quyền tham gia quản lý nhà nước của con người, của công dân là một quyền chính trị – pháp lý quan trọng và nó được ghi nhận trong Hiến pháp và Pháp luật. Việc bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của con người, của công dân trong điều kiện dân chủ mở rộng, nhà nước đang xây dựng và hoàn thiện theo hướng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân có ý nghĩa hết sức to lớn. Quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân được bảo đảm trong thực tiễn là thước đo của nền dân chủ, văn minh, của tự do và tiến bộ xã hội; qua đó thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của Nhà nước.

Đảm bảo quyền con người, quyền công dân khi tham gia quản lý nhà nước là một hoạt động của nhà nước, do các chủ thể (các cơ quan nhà nước, CBCC có thẩm quyền) thực hiện trên cơ sở luật pháp và để thi hành luật pháp, góp phần phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế- xã hội của mỗi một quốc gia.

– Khái niệm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ là một quyền chính trị – pháp lý quan trọng của phụ nữ, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, nó xác lập năng lực pháp lý bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong việc tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

1.1.2. Đặc điểm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

1.1.2.1. Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ là yếu tố xác lập vị thế pháp lý bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong đời sống chính trị – xã hội

Khi xem xét quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ, không thể không nhìn từ góc độ bình đẳng giới và pháp luật. Việc bảo đảm quyền này là cơ sở để xác lập địa vị pháp lý của người phụ nữ đối với nam giới. Thông qua đó, phụ nữ mới được tham gia vào quá trình ra những quyết định gắn liền với các quyền, lợi ích của họ trên mọi lĩnh vực, từ đó hạn chế và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn những phân biệt đối xử về giới mà phụ nữ thường là nạn nhân, đây cũng chính là mối quan hệ giữa bình đẳng và pháp luật. Bình đẳng mà ta nhắc đến ở đây phải là bình đẳng về thực chất vì chỉ có bình đẳng giới thực chất mới là cơ sở bảo đảm địa vị pháp lý bình đẳng của phụ nữ một cách bền vững.

Bình đẳng về thực chất được biểu hiện khi người phụ nữ được tham gia thực hiện được quyền chính trị và xác lập được địa vị chính trị pháp lý của mình, là khi được tham gia vào các hoạt động của đời sống xã hội một cách dân chủ. Lúc này, pháp luật sẽ là công cụ để bảo vệ và bảo đảm quyền cho phụ nữ tham gia một cách bình đẳng với nam giới.

1.1.2.2. Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ thể hiện bản chất dân chủ, bình đẳng của xã hội

Theo Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, phải dựa trên ba nguyên tắc, đó là: bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm quốc gia. Bình đẳng và không phân biệt đối xử là yêu cầu khách quan, trong khi trách nhiệm quốc gia bao hàm cả việc bảo đảm dân chủ xã hội. Xét về mặt lịch sử, dân chủ và bình đẳng không chỉ là nhu cầu của con người mà còn là yêu cầu khách quan. Hai phạm trù này không tách biệt, mà ngược lại chúng hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Dân chủ ở đây bao gồm dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, trong đó biểu hiện của dân chủ trực tiếp chính là sự tham gia của cả hai giới trong quản lý nhà nước, còn dân chủ gián tiếp là bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện quyền lực nhân dân. Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ được thực thi trên cơ sở không phân biệt đối xử và bình đẳng thực chất chính là bảo đảm cho phụ nữ được tham gia vào quyền chính trị – Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ.

Khi có sự tham gia của phụ nữ vào quản lý nhà nước thì những chính sách của nhà nước, đặc biệt là những chính sách liên quan đến phúc lợi xã hội sẽ được xây dựng và ban hành mang tính cân bằng về giới hơn, quan tâm đến lợi ích và nhu cầu cho phụ nữ hơn. Như vậy, thực thi dân chủ bao hàm cả yêu cầu thực thi một phần quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ; và ngược lại, bảo đảm thực thi quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ mới thực hiện được dân chủ, bình đẳng một cách đầy đủ trong đời sống xã hội. Nói cách khác, xã hội dân chủ, bình đẳng thực sự chỉ khi xã hội xác lập và thực hiện được quyền chính trị của phụ nữ.

Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam
Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam

1.1.2.3. Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ là cơ sở và nền tảng để bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của phụ nữ

Quyền con người bao gồm một hệ thống các quyền và các quyền này thống nhất với nhau trong mối quan hệ biện chứng. Bảo đảm thực hiện quyền chính trị, quyền kinh tế, hay quyền văn hóa và xã hội của phụ nữ là bảo đảm thực hiện các quyền con người của phụ nữ đã được pháp luật quy định và bảo vệ. Có thể khẳng định cả hai nhóm quyền này đều quan trọng như nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Trong hệ thống quyền con người, quyền chính trị thường là những quyền được đề cập đầu tiên trong số những quyền mà phụ nữ có. Chính vì vậy, để xác lập vị thế bình đẳng của phụ nữ trong xã hội, trước hết phải xét đến quyền chính trị. Một trong những quyền chính trị đó là quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ. Trên lý thuyết, phụ nữ cũng phải có cơ hội được hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng với nam giới, tuy nhiên trên thực tế phụ nữ muốn có được sự bình đẳng về thực chất thì họ phải được đảm bảo hực hiện các quyền con người, quyền công dân của họ. Phụ nữ phải được tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

Thực tiễn cũng chứng minh chỉ khi phụ nữ được tham gia vào các vị trí lãnh đạo và quản lý trong xã hội thì họ mới có cơ hội để thực hiện đầy đủ các quyền của mình. Do đó, quyền chính trị là quyền cơ bản và quan trọng nhất để thực hiện bình đẳng giới cho người phụ nữ.

    1. 1.2. Nội dung quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

1.2.1. Các quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

1.2.1.1. Quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước

Những quy định liên quan đến quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước theo luật pháp quốc tế có thể kể đến như Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948, Công ước Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966…

Quyền này đầu tiên được ghi nhận trong Điều 21 UDHR. Tại Khoản 1 và 2, Điều 21 UDHR, mọi người đều có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại diện để tham gia vào quản lý đất nước và được quyền bình đẳng tiếp cận các dịch vụ công cộng. Tại Khoản 3 Điều này quy định nguyên tắc để đảm bảo quyền quy định tại điều 1 và 2 đó là: quyền lực của chính quyền được tạo nên bởi ý chí của nhân dân mà ý chí của nhân dân phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử và được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tương tự.

Để khẳng định và cụ thể hóa các quy định trong Điều 21 UDHR về quyền con người, Điều 25 ICCPR đã chỉ rõ: Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào để Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử; tham gia điều hành các công việc xã hội; tiếp cận bình đẳng với các chức vụ công.

Cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước của phụ nữ ở Việt Nam đã được khẳng định trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật. Vào năm 1981, Việt Nam đã ký và phê chuẩn Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), lúc này trên thế giới cũng chỉ có vài quốc gia ký và phê chuẩn công ước này. Đến năm 2006, Quốc hội ban hành Luật Bình đẳng Giới, trong đó xác định các mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể để phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực của đời sống xã hội và đề ra những biện pháp giải quyết các vấn đề quan trọng về giới, hướng tới bình đẳng giới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến, đồng thời giải phóng phụ nữ Việt Nam khỏi địa vị phụ thuộc vào đàn ông đã kéo dài từ nhiều thế kỷ. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới (Hiến pháp năm 1946) đã khẳng định: “Tất cả quyền lực trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, nam nữ, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo… phụ nữ bình đẳng với nam giới trên về phương diện”. Bình đẳng nam nữ từ đó là một trong những nguyên tắc hiến định xuyên suốt trong tất cả các Hiến pháp về sau (năm 1959, 1980, 1992, 2001 và được sửa đổi, bổ sung năm 2013) của Việt Nam.

Năm 2013, Quốc hội ban hành Hiến pháp, trong đó tại điều 26 có quy định công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt và cũng quy dịnh Nhà nước phải có chính sách để bảo đảm cho các giới thực hiện quyền và cơ hội bình đẳng như nhau. Thể chế hóa quy định kể trên của Hiến pháp, Điều 11 Luật bình đẳng giới năm 2006 khẳng định, phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong những lĩnh vực và vấn đề cụ thể như: (i) Tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; (ii) Tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; (iii) Tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; (iv) Tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. Điều này đồng thời nêu ra hai biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, đó là: (i) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND; và (ii) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước.

Luật bầu cử Đại biểu quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định “Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn chủ tịch Ban chấp hành trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.” [Khoản 3, Điều 8] và “bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ” [Khoản 1, Điều 9]

Cụ thể hóa quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước, phụ nữ có quyền:

– Phụ nữ có quyền ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú và có quyền được phát thẻ cử tri.

– Nếu cử tri nữ phát hiện có sai sót khi kiểm tra danh sách cử tri thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày niêm yết, có quyền khiếu nại với cơ quan, đơn vị nơi lập danh sách cử tri để giải quyết khiếu nại.

– Có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu HĐND tương ứng với mỗi cấp HĐND tại địa phương mình…

Ngoài quyền bầu cử, theo quy định của Luật phụ nữ còn có quyền tham gia ứng để thực sự khẳng định được vai trò của giới mình. Nếu như bầu cử là hình thức dân chủ gián tiếp, công dân bầu ra người đại diện theo ý chí nguyện vọng của mình, thì ứng cử là hình thức dân chủ trực tiếp, công dân trực tiếp tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước, trực tiếp tham gia quán lý, điều hành, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước Việc xây dựng vào đào tạo cán bộ nữ, nâng cao tỷ lệ lãnh đạo là nữ hiện nay đang là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước. Theo quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, những phụ nữ có quyền được ứng cử làm đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND khi đáp ứng được các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và HĐND theo quy định. [Điều 35, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015]

1.2.1.2. Quyền tham gia vào hoạt động trong các cơ quan nhà nước

Tại Điều 25 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 ghi nhận và bảo vệ quyền của mọi công dân không phân biệt là nam hay nữ được tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và quyền được tham gia các cơ quan công quyền. Công ước đã khẳng định trên cơ sở sự đồng thuận của nhân dân thì công tác quản lý nhà nước mới thật sự bền vững, đối với các quốc gia thành viên đã ký và phê duyệt Công ước, cho dù theo thể chế chính trị nào thì cũng phải thông qua những biện pháp pháp lý để đảm bảo cho mọi công dân đều có cơ hội được hưởng các quyền này (Mục 1, Điều 25, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị).

Đối với Việt Nam, tùy theo năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phụ nữ được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước hoặc được bổ nhiệm vào những chức vụ trong bộ máy nhà nước. Khi làm việc trong các cơ quan nhà nước, phụ nữ có những điều kiện, cơ hội thuận lợi để trực tiếp tham gia quản lý nhà nước.

Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung các năm 2000 và 2003) trước đây và sau này được thay thế bằng Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã khẳng định nguyên tắc không phân biệt đối xử trong tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, nâng ngạch, khen thưởng và chế độ đối xử giữa cán bộ, công chức nữ và nam trong các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp cũng như các đơn vị sự nghiệp. Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/03/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức quy định tuổi dự tuyển đối với cả nam và nữ là như nhau vào làm công chức trong các cơ quan nhà nước, đều từ đủ 18 tuổi trở lên [Điều 36, Luật Cán bộ, công chức năm 2008], trước đây quy định tuổi đời dự tuyển đối với nam phải từ đủ 18 tuổi đến 40 tuổi; đối với nữ từ 18 tuổi đến 35 tuổi [Điều 6, Nghị định 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998].

Điều 13 Luật Bình đẳng giới chỉ rõ: Nam, nữ bình đẳng với nhau về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, các điều kiện lao động, tiền công, tiền thưởng, BHXH và các điều kiện làm việc khác; ngoài ra nam nữ còn bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh. Điều này cũng đề cập đến các biện pháp cụ thể để thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm: (i) bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; (ii) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động; (iii) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ; (iv) Tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.

1.2.1.3. Quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của nhà nước, kiến nghị trưng cầu ý dân

Trên nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ, nguyên tắc không phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của nhà nước là đảm bảo dân chủ trong xã hội. Dân chủ về lý thuyết bao gồm 2 loại là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Đối với dân chủ trực tiếp thì biểu hiện là phụ nữ cũng như nam giới được trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình quản lý nhà nước, từ khâu xây dựng, hoạch định chính sách đến triển khai công việc cụ thể, hoặc trực tiếp tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan công quyền thực hiện quyền lực được giao. Đặc biệt, dân chủ cơ sở thể hiện ở chỗ phụ nữ được tham gia góp ý bằng nhiều hình thức vào các vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong đó có những vấn đề liên quan đến lợi ích của họ.

Quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của nhà nước, kiến nghị trưng cầu ý dân được ghi nhận trong Điều 19 UDHR. Theo Điều 19 UDHR, mọi công dân đều có quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có giới hạn về biên giới; tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến và tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp. Điều này cũng lưu ý là các quan điểm, tư tưởng phải đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng pháp luật, không được đi ngược lại lợi ích và đạo đức xã hội.

Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 tại Điều 28 có quy định rõ: Mọi công dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước với cơ quan nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.

Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật Việt Nam đã quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước mà trước hết, đó là quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và của địa phương, quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước. Như vậy, Phụ nữ cũng được mở rộng quyền tham gia mạnh mẽ vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý nhà nước nhằm đóng góp những ý kiến quan trọng cho việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội.

Bảo đảm sự tham gia của phụ nữ như một quyền công dân vào công việc quản lý nhà nước đã được ghi nhận trong Hiến pháp và những văn bản Luật như Bộ luật như Luật Bầu cử Quốc hội và HĐND, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, … Trong các văn bản trên đã quy định cụ thể các điều kiện, hình thức và phương thức để phụ nữ tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước bao gồm:

– Phụ nữ có thể tham gia xây dựng các chính sách, pháp luật của nhà nước thông qua đại biểu của mình trong các cơ quan đại diện Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội mà mình tham gia hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng.

– Phụ nữ cũng có thể quyết định trực tiếp các vấn đề ở tầm quốc gia khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, hoặc trực tiếp quyết định các vấn đề ở cơ sở theo quy định của pháp luật.

Mỗi khi quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và xã hội, trước khi thông qua quyết định, nhà nước thường tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Với hình thức này, mỗi công dân tự mình trực tiếp đóng góp ý kiến, trí tuệ vào các chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà Nước. Đây cũng là cách thể hiện trách nhiệm công dân và ý chí của mình trước những công việc trọng đại của đất nước, góp phần làm cho những quyết sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tế và lòng dân.

– Phụ nữ tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản, tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Đồng thời giống như quyền và trách nhiệm công dân, phụ nữ cũng có quyền và trách nhiệm đóng góp ý kiến, phản ánh với nhà nước về những vướng mắc, bất cập, không phù hợp các văn bản pháp luật trong quá trình thể hiện để Nhà nước sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và bảo đảm tốt hơn về quyền và lợi ích công dân.

– Phụ nữ tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, phát biểu ý kiến về các vấn đề quản lý nhà nước, về nôi dung các quyết định quản lý. Quyền hạn này của phụ nữ được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, gửi ý kiến góp ý đối với cơ quan có thẩm quyền.

Sự tham gia của phụ nữ được thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách: từ các đề xuất sáng kiến ban đầu, đến việc tiến hành triển khai xây dựng, quyết định và thi hành chính sách. Có thể nói, các phương thức, hình thức để phụ nữ tham gia vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách, vào công việc quản lý của Nhà nước đã được quy định rất đa dạng, phong phú. Nó cho phép phụ nữ có thể biểu đạt được ý chí, nguyện vọng của mình với các cơ quan nhà nước trong việc hình thành nên các chính sách, pháp luật cũng như việc quyết định và thi hành pháp luật.

1.2.1.4. Quyền khiếu nại, tố cáo

Khiếu nại và tố cáo là phương thức góp phần thực hiện quyền của cá nhân một cách đầy đủ và hiệu quả. Thông qua khiếu nại và tố cáo, những hạn chế trong quá trình thực thi pháp luật mới được bộc lộ rõ nét nhất và chỉ thông qua khiếu nại, tố cáo, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mới được bảo đảm đầy đủ, toàn diện.

Ở Việt Nam, phụ nữ có quyền được khiếu nại và được giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước; quyền được khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính nhà nước; quyền được khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; quyền được tiếp công dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại.

Phụ nữ có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà Nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang hoặc bất cứ cá nhân nào.

Phụ nữ thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cũng được dựa trên những nguyên tắc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo của công dân:

– Việc giải quyết tố cáo của các cơ quan có chức năng phải được giải quyết đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định pháp luật, đảm bảo kịp thời, chính xác, khách quan và an toàn cho người tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo.

– Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo ngoài những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo; trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan nhà nước, cá nhân có liên quan, còn có quy định nghiêm cấm mọi hành vi cản trở quyền khiếu nại, tố cáo; trả thù đe dọa, trù dập người tố cáo; quy định các biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khiếu nại, tố cáo; khôi phục quyền và lợi ích người bị xâm hại.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những hình thức để đảm bảo cho quyền khiếu nại, tố cáo của phụ nữ. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước để xác định xem có các hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến khiếu nại, tố cáo. Nếu thực chất có các hành vi vi phạm thì ra quyết định xử lý đối với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân công dân đã có những hành vi vi phạm pháp luật đó. Đồng thời đề ra các biện pháp cần thiết nhằm sửa chữa, bồi thường những thiệt hại do các hành vi vi phạm pháp luật đó gây ra. Bảo vệ có hiệu quả lợi ích của tập thể, công dân, qua đó xóa bỏ những mâu thuẫn, những bất đồng trong mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân và giữa nhân dân với Nhà nước. Nhìn chung, quy định pháp luật về khiếu nại và tố cáo tương đối hoàn chỉnh về trình tự thủ tục, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người khiếu nại tố cáo, người bị khiếu nại tố cáo và các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo

1.2.2. Thủ tục xử phạt

Để bảo đảm sự tuân thủ các quy định về quyền bình đẳng, cũng như đảm bảo quyền của phụ nữ trong tham gia quản lý nhà nước, Điều 40 Luật bình đẳng giới năm 2006 đã để ra nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới: “Mọi hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời. Việc xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để theo đúng quy định của pháp luật.”

Luật cũng chỉ rõ các hành vi bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong nhiều lĩnh vực mà sẽ bị trừng phạt, trong đó, các hành vi vi phạm pháp luật về đảm bảo quyền của phụ nữ trong tham gia quản lý nhà nước bao gồm:

(1) Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp vì định kiến giới;

(2) Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới;

(3) Áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới;

(4) Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;

(5) Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình độ, năng lực vì lý do giới tính;

(6) d) Không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định riêng đối với lao động nữ.

(7) Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.

Tại Điều 42, Luật bình đẳng giới năm 2006 cũng quy định các hình thức xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới, bao gồm:

(1). Người nào có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

(2). Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

    1. 1.3. Ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

1.3.1. Thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ góp phần bảo vệ cho nhu cầu, lợi ích, các mối quan tâm của những người phụ nữ khác trong xã hội

Thường trong quá trình hoạch định và xây dựng chính sách, những quyền lợi chính đáng và đặc thù của phụ nữ không được những người đại diện khác giới phản ánh đầy đủ như chế độ thai sản, chăm sóc con cái, tình trạng dễ bị lạm dụng tại gia đình và công sở, bạo lực dựa trên cơ sở giới, thiếu đại diện trong các vị trí lãnh đạo kinh tế và chính trị cấp cao… Phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo chính thức đại diện cho nhu cầu, lợi ích, các mối quan tâm của những người phụ nữ khác trong xã hội, sẽ tạo cơ hội để những quyền lợi thật sự của phụ nữ được nêu ra trong những chương trình nghị sự bàn luận công khai. Do đó, trong hệ thống chính trị cần phải thúc đẩy sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ bên cạnh nam giới, điều này sẽ góp phần bảo đảm tính toàn diện và tính bao trùm và nâng cao chất lượng của chính sách công.

1.3.2. Thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ sẽ bảo đảm luật pháp, chính sách công có chất lượng tốt hơn, giúp giải quyết các vấn đề đặt ra trong lãnh đạo, quản lý

Nam và nữ có những kiến thức, kỹ năng, có những trải nghiệm, kinh nghiệm sống, có những cách nhìn và cách giải quyết những vấn đề đặt ra khác nhau, nhất là đối với các vấn đề mang tính quốc gia và các vấn đề mang tính lãnh đạo. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng, khi những cách tiếp cận khác nhau, những kiến thức và kinh nghiệm khác nhau cùng được phản ánh đầy đủ trong quá trình xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách công thì chính sách trở nên toàn diện hơn, phù hợp hơn với cả 2 giới, đảm bảo được bình đẳng về mặt thực chất hơn. Phụ nữ thường là người mang đến các kỹ năng, các quan điểm có sự khác biệt về cấu trúc và văn hóa để đưa ra các giải pháp hiệu quả. 

1.3.3. Góp phần thay đổi văn hóa mang tính định kiến giới về vai trò của phụ nữ, từng bước xây dựng văn hóa bình đẳng giới ngoài xã hội

Khi phụ nữ tham chính hay nói cách khác là tham gia lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa truyền cảm hứng, động lực và sự tự tin cho nhiều phụ nữ và trẻ em gái vươn lên trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý trong tương lai. Các nghiên cứu cho rằng ở những quốc gia có những nhà nữ chính trị gia cấp cao và năng động, thì phụ nữ trẻ được mong chờ tham gia nhiều hơn vào chính trị; hơn nữa, khi phụ nữ tham chính làm tăng sự quan tâm đến chính trị của phụ nữ ở mọi lứa tuổi, góp phần vào sự gia tăng phụ nữ tham gia vào các tranh luận chính trị.

Sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống chính trị góp phần xây dựng nhận thức về vị trí và vai trò của phụ nữ ngoài xã hội với tư cách là những nhà lãnh đạo, quản lý và còn làm tăng niềm tin của công dân vào nền dân chủ đại diện của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, việc thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong xã hội góp phần nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong xã hội, cộng đồng và trong gia đình, xóa bỏ những định kiến về giới, nhất là đối với giới nữ.

Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam
Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam

1.3.4. Thể hiện việc sử dụng hiệu quả nguồn lực con người cho phát triển đất nước, mang lại lợi ích kinh tế cho tổ chức và cho quốc gia

Cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ có vai trò quan trọng vì đó là sự huy động và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao làm lãnh đạo trong cơ quan, tổ chức hay địa phương đó một cách có hiệu quả. Một đất nước, một tổ chức muốn phát triển thành công cần phải có lãnh đạo giỏi mà lãnh đạo giỏi cần được lựa chọn từ tất cả các người tài giỏi trong đất nước đó, tổ chức đó, bao gồm cả nam giới và nữ giới.

Nữ giới tham gia vào lãnh đạo, quản lý còn mang lại lợi ích kinh tế cho quốc gia và cho tổ chức đó, Theo Cuộc điều tra năm 2016, nhiều nữ lãnh đạo trong các hội đồng quản trị của các công ty, các doanh nghiệp lớn đã làm lợi nhuận kinh doanh của đơn vị tăng lên đáng kể, cụ thể đối với nghiên cứu đối với 21.980 công ty cổ phần ở 91 quốc gia, các tác giả đã kết luận rằng sự hiện diện của các nữ lãnh đạo trong các vị trí hàng đầu tương quan với khả năng sinh lợi của các công ty này. [16].

    1. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

1.4.1. Chính trị

Đây là điều kiện tiên quyết cho sự tiến bộ của phụ nữ, giúp họ có nhiều cơ hội tham gia lãnh đạo và quản lý nhà nước. Quyền lợi của giai cấp và nhà nước liên quan đến chính trị, chính trị ở đây bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, đảng phái chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng này phải dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định; chính trị chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia giai cấp và còn tồn tại khi nào còn nhà nước và còn giai cấp.

Một số quốc gia quy định rõ về tỷ lệ phụ nữ trong các danh sách bầu cử vào nghị viện và các vị trí lãnh đạo trong Hiến pháp và Luật bầu cử, có thể kể đến là Pháp và An-ba-ni, đây là hai quốc gia điển hình về việc tăng cường quyền lực chính trị thực tế cho phụ nữ.

Pháp đã sớm áp dụng tỷ lệ bắt buộc có 50% nữ ứng viên của các đảng chính trị trong các cuộc bầu cử, có thể coi là sớm nhất trên thế giới. Pháp cũng quy định trong Hiến pháp trách nhiệm của các đảng chính trị trong việc thúc đẩy thực hiện nguyên tắc này.[17]

Ngoài Pháp, An-ba-ni, còn nhiều quốc gia khác có những cam kết chính trị và sự thay đổi thể chế nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho phụ nữ tham gia chính trị, như: ở Mê-xi-cô, việc sửa đổi Hiến pháp năm 2014 đòi hỏi sự tương đương về giới trong việc đề cử các ứng cử viên bầu cử cho các cuộc bầu cử Quốc hội và địa phương.

Ở Việt Nam, trong điều kiện nước ta đang xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội phải được bảo đảm trước tiên, muốn làm được như vậy thì chỉ có xây dựng thể chế chính trị đi theo nguyên mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩađộc đảng. Nhà nước luôn cố gắng bảo đảm và thúc đẩy quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân và trong đó có phụ nữ, đây là một trong những nhân tố khẳng định tính chất pháp quyền của Nhà nước, vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân, trong đó có phụ nữ là một trong những tiêu chí căn bản để đánh giá mức độ hoàn thiện của của chế độ chính trị-xã hội, nhà nước, của nền dân chủ, của trình độ phát triển của đất nước và mức độ hài lòng của người dân đối với bộ máy công quyền.

1.4.2. Văn hóa, tôn giáo

Những năm gần đây, đã có một số cải cách trong quan niệm và lối sống của phụ nữ ở các quốc gia phương Đông theo quan niệm Nho giáo và đặc biệt là các quốc gia Hồi giáo. Phụ nữ đạo Hồi tuy phải chịu các quy định khắc nghiệt, bất bình đẳng giới nặng nề, nhưng số lượng thủ tướng là nữ ở các quốc gia đạo Hồi lại nhiều hơn ở các quốc gia khác. Các quốc gia đạo Hồi từng có nữ là thủ tướng có thể kể đến là: Thổ Nhĩ Kỳ, Pa-kít-xtan, Băng-la-đét, In-đô-nê-xi-a…

Những năm gần đây, đã có một số cải cách trong quan niệm và lối sống của phụ nữ, phụ nữ đang tách dần những chuẩn mực công, dung, ngôn, hạnh để thích ứng với sự thay đổi của quan niệm về người phụ nữ hiện đại: có trình độ học vấn và kiến thức cao, năng động, sáng tạo, cách suy nghĩ và giải quyết công việc linh hoạt, biết vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại để có thể làm giàu kiến thức của mình, có sức khỏe dẻo dai, có lối sống văn hóa, hoàn thành được nhiệm vụ đặt ra cả hai lĩnh vực sự nghiệp và gia đình… Điều đó lý giải vì sao tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trên thế giới đều tăng so với trước.

1.4.3. Phong trào nữ quyền

Cuối thế kỷ XVIII, ở nhiều nước tư bản châu Âu và Bắc Mỹ, sự áp bức, bóc lột giai cấp ngày càng tăng, trong đó phụ nữ là giới chịu thiệt thòi nhất, bị đối xử thấp hèn trong xã hội và cả trong luật pháp. Ở nhiều quốc gia, sự phân biệt đối xử với phụ nữ được ghi trong luật, từ luật hình sự đến luật hôn nhân, thừa kế và tiếp cận tài sản. Ngay cả ở những nước mà phụ nữ đã đạt được bình đẳng trong pháp luật, sự phân biệt đối xử vẫn tiếp tục trong thực tế.

Đứng trước sự bất bình đẳng đó, phong trào phụ nữ đòi các quyền về tài sản, quyền về ký kết hợp đồng, quyền bỏ phiếu và các cơ hội khác bình đẳng như nam giới được trải rộng. Nghị viện Anh đã thông qua một đạo luật vào năm 1918 (the Representation of the People Act 1918) cho phép phụ nữ trên 30 tuổi có nhà riêng được quyền bỏ phiếu và 10 năm sau (năm 1928), quyền này được áp dụng cho mọi phụ nữ ở độ tuổi từ 21 trở lên.[17]

Còn ở Hoa Kỳ, kết quả của phong trào nữ quyền đã dẫn đến sự sửa đổi lần thứ 19 Hiến pháp năm 1787 và từ năm 1848 – 1920 ghi nhận việc thực hiện quyền bầu cử của phụ nữ ở tất cả các bang. Tiếp đó, giai đoạn hai diễn ra từ những năm 60 cho tới những năm 80 của thế kỷ XX, phong trào nữ quyền lan tỏa ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác với các mục tiêu được mở rộng và phát triển hơn nữa, bao gồm các quyền bình đẳng về dân sự (trong đó có các yêu cầu về quyền bình đẳng cho phụ nữ da màu và quyền tham gia tuần hành chống chiến tranh xâm lược Việt Nam), quyền sinh sản (trong đó có các đòi hỏi về quyền tránh thai và quyền phá thai) cùng quyền được tuyển dụng ngang hàng, bình đẳng của phụ nữ trước nam giới.

Sự phát triển của phong trào nữ quyền ở giai đoạn thứ ba tính từ những năm 90 thế kỷ XX cho đến nay đã trở nên ngày càng lan tỏa hơn cùng với sự mở rộng và phát triển thêm nhiều quyền khác.

Đặc biệt, trong xã hội hiện đại ngày nay, các quyền khác ảnh hưởng đến phụ nữ bao gồm quyền tự do di chuyển, quyền kết hôn, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lựa chọn việc làm, giáo dục và tham gia vào quá trình chính trị càng được quan tâm. Những phong trào đó chính là yếu tố tích cực khiến tỷ lệ tham gia lãnh đạo, quản lý nhà nước của phụ nữ trên thế giới càng ngày càng tăng.

    1. 1.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

1.5.1. Pháp luật

Yếu tố pháp luật có vai trò đặc biệt quản trọng mang tính quyết định đến việc đảm bảo thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ. Để đảm bảo thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ đạt hiệu quả cần có một hệ thống các quy định pháp luật tạo nền tảng pháp lý cho hoạt động của phụ nữ trong tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội; các văn bản pháp luật cần phải có chất lượng cao thể hiện ở tính đồng bộ, thống nhất trong nội dung của văn bản, không mâu thuẫn, chồng chéo, phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đảm bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ.

Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta, đòi hỏi pháp luật nói chung và pháp luật về bình đẳng giới nói riêng phải được thể hiện trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là cơ quan, cán bộ, công chức và cá nhân liên quan phải thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất. Thông qua hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật trên thực tế, sẽ hình thành lòng tin đối với pháp luật, tự giác điều chỉnh hành vi xử sự của mình trong các quan hệ xã hội, hiểu rõ bản chất pháp luật, nhận thức được pháp luật là công cụ có hiệu lực sắc bén trực tiếp bảo vệ quyền lợi. Bên cạnh đó, tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật và bản thân các quy định pháp luật liên quan đến bình đẳng giới sẽ ảnh hưởn rất lớn đến thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ.

1.5.2. Điều kiện kinh tế – xã hội

Điều kiện kinh tế chính là cơ sở vật chất, đây chính là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ. Nền kinh tế phát triển bền vững, năng động sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt pháp luật về bình đẳng giới, tác động đến hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của các tầng lớp trong xã hội, tạo ra công ăn việc làm, tăng thu nhập sẽ là giải pháp giải quyết tình trạng phân biệt đối xử đối với phụ nữ, đây chính là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ. Đồng thời sẽ tạo ra nhiều nguồn lực để thực hiện bình đẳng giới, mà bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ cần một khoản ngân sách nhất định, thời gian thực hiện dài nên cần đảm bảo nguồn lực để tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất.

Điều kiện văn hóa xã hội có nền tảng có ảnh hưởng rất lớn đến bình đẳng giới và bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ. Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dan tộc, nâng cao dân trí là điều kiện đảm bảo cho con người được phát triển tự do và toàn diện, nâng cao nhận thức về mọi mặt, đây là nền tảng quan trọng để thực hiện có hiệu quả bền vững pháp luật về bình đẳng giới và thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ. Các phong tục, tập quán trong cộng đồng xã hội ảnh hưởng lớn đế thực hiện bình đẳng giới, thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ, điều này thể hiện rất rõ đối với các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa ở nước ta.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN/ NGUYEN THI HOANG PIN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *