Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu

Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu

Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quận Liên Chiểu nằm ở phía Tây Bắc thành phố Đà Nẵng, là một quận nằm ở vùng ngoại ô vừa có nhiều điều kiện về tự nhiên để phát triển kinh tế xã hội như tài nguyên biển với đường bờ biển dài, tài nguyên rừng với khu vực đèo Hải Vân có điểm tham quan du lịch Hải Vân Quan hằng năm thu hút rất đông khách du lịch.

Trên địa bàn quận Liên Chiểu còn có 2 khu công nghiệp là khu công nghiệp Liên Chiểu và khu công nghiệp Hòa Khánh. Đây là nơi tập trung trên 250 nhà máy, với lượng công nhân trên 35.000 người làm việc cho các xí nghiệp công nghiệp lớn của thành phố, trung ương và các nhà đầu tư trong, ngoài nước.

Ngoài ra với 02 trường đại học, 03 trường cao đẳng, 03 trường trung học chuyên nghiệp (trường Đại học Bách Khoa, Đại học sư phạm, Cao đẳng Kinh tế – kế hoạch Đà Nẵng, Cao đẳng Giao thông vận tải II, Cao đẳng Đức Trí Đà Nẵng, trường TH BCVT và Công nghệ thông tin II, trường Trung học Xây dựng miền Trung, trường TCKT Nghiệp vụ Thăng Long…) có trụ sở đóng trên địa bàn quận đã thu hút trên 32.000 học sinh, sinh viên cả nước lưu trú và học tập; một Bến xe Trung tâm thành phố đóng trên địa bàn quận đã tạo điều kiện thuận lợi để luân chuyển hàng hoá và đón đưa khách từ các tỉnh thành khác đến với Đà Nẵng.

Vị trí địa lý và đặc điểm xã hội như trên tạo nhiều điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội của quận Liên Chiểu. Tuy nhiên đi cùng với những điều kiện thuận lợi là những thách thức đặt ra trong công tác bảo đảm an ninh trật tự, đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm đối với chính quyền và nhân dân quận Liên Chiểu. Tình trạng người dân từ nhiều nơi trên cả nước tập trung trên địa bàn để làm việc, học tập tạo nên sự phức tạp trong công tác quản lý nhân, hộ khẩu; tình hình tệ nạn xã hội tại các khu nhà trọ, ký túc xá sinh viên…; nạn trộm cắp, lừa đảo, cướp giật…tại khu vực Bến xe Trung tâm vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát nếu không có biện pháp phòng ngừa hiệu quả…Từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã tiến hành xét xử hơn 520 vụ phạm tội với hơn 788 bị cáo, trong đó số vụ phạm tội và người phạm tội có xu hướng tăng dần từ năm 2015 đến năm 2019, tỷ lệ tăng là 37,5% đối với số vụ và 36,1% đối với người phạm tội.

Với thực trạng, diễn biến của tình hình tội phạm như trên cùng với chủ trương của chính quyền thành phố Đà Nẵng về việc dành nhiều nguồn lực để phát triển khu vực tây bắc thành phố thể hiện qua hơn 60 dự án quy hoạch khu dân cư như dự án Trung tâm đô thị mới Tây Bắc, Khu đô thị sinh thái Quan Nam – Thuỷ Tú, Dự án nâng cấp và mở rộng Xí nghiệp Dây và cáp điện Tân Cường Thành, đường DT 606 (lên khu du lịch nghỉ dưỡng Bà Nà), mở rộng và nâng cấp đường Hoàng Văn Thái…dự báo trong thời gian tới tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu vẫn diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó tác giả nhận thấy sự cần thiết phải nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, qua đó đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, đưa ra những dự báo khoa học và đề ra hệ thống các giải pháp để phòng ngừa, làm giảm thiểu tình hình tội phạm trên địa bàn quận. Đó là lý do tác giả lựa chọn Đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, luận văn góp phần làm sâu sắc thêm lý luận phòng ngừa THTP, đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm này trong thời gian tới trên địa bàn quận Liên Chiểu.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tình hình và phòng ngừa tình hình tội phạm.

– Đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019.

– Phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

– Dự báo một số nội dung về diễn biến, lượng, chất của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

– Đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận, thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về không gian: Đề tài khảo sát trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

– Phạm vi về thời gian: Đề tài thực hiện việc khảo sát, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở của phương pháp luận của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước về tình hình tội phạm và phòng ngừa tình hình tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp sau để tiến hành nghiên cứu:

– Phương pháp hệ thống là phương pháp được tác giả sử dụng để trình bày những vấn đề có tính lý luận tại chương 1 của luận văn.

– Phương pháp tổng hợp, phân tích được tác giả sử dụng tại chương 2 của luận văn, nhằm tổng hợp các số liệu về tình hình tội phạm, trên cơ sở đó phân tích số liệu nhằm đánh giá được thực trạng nói chung, diễn biến, cơ cấu cũng như tính chất của tình hình tội phạm.

– Phương pháp nghiên cứu lịch sử là phương pháp tác giả sử dụng tại chương 3 nhằm nghiên cứu thực trạng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm đã áp dụng của quận Liên Chiểu.

Phương pháp thống kê, so sánh: Được sử dụng tại chương 2 của luận văn, nhằm thống kê, so sánh một số nội dung có liên quan về tình hình tội phạm, phòng ngừa tình hình tội phạm.

Phương pháp nghiên cứu điển hình: Là phương pháp được tác giả sử dụng khi nghiên cứu hệ thống các bản án của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, qua đó rút ra được những vấn đề có liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu.

Ngoài ra luận văn còn sử dụng nhiều các phương pháp khác như phương pháp diễn dịch, quy nạp…kết hợp các phương pháp trên để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu đề tài có thể được các cơ quan chức năng nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho thực tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu trong thời gian đến. Ngoài ra, luận văn là nguồn tài liệu để phục vụ mục đích nghiên cứu, tham khảo, giảng dạy và học tập tại Học việc Khoa học xã hội.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm

Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

    1. 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm

1.1.1. Khái niệm tình hình tội phạm

Trong các tài liệu tội phạm học, chúng ta thường nhìn thấy các thuật ngữ: tình hình tội phạm, tình hình tội phạm về ma túy, tình hình tội phạm về tham nhũng, tình hình tội phạm giết người…Nghiên cứu về tình hình tội phạm giúp ta hiểu được “bức tranh” toàn cảnh về tội phạm (hoặc nhóm tội phạm hoặc một tội nào đó trong một không gian, thời gian nhất định).

Hiện nay vẫn có nhiều luồng quan điểm khác nhau về khái niệm của tình hình tội phạm. Một luồng quan điểm cho rằng thuật ngữ “tình hình tội phạm” chỉ tội phạm nói chung, còn một luồng quan điểm cho rằng “tình hình tội phạm” chỉ trạng thái, xu thế vận động của tội phạm. Có vấn đề như trên bởi lẽ xuất phát từ nguyên nhân hiện nay có hai ngành khoa học là ngành khoa học luật hình sự và ngành tội phạm học cùng có chung một đối tượng nghiên cứu là hiện tượng tội phạm. Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần phải làm rõ, khoa học luật hình sự nghiên cứu tội phạm theo nghĩa là nghiên cứu hiện tượng bị pháp luật coi là tội phạm, khoa học luật hình sự phục vụ việc quy định tội phạm trong luật cũng như phục vụ việc giải thích và nhận thức luật để áp dụng; còn đối với ngành tội phạm học nghiên cứu tội phạm theo nghĩa là nghiên cứu hiện tượng tội phạm đã xảy ra trên thực tế.

Nếu xem xét tình hình tội phạm trong xã hội, ta sẽ thấy nó không phải là luôn luôn ở trạng thái tĩnh mà ngược lại, tùy từng giai đoạn lịch sử, nó có thể ở trạng thái tăng hoặc giảm với các mức độ khác nhau nghĩa là nó luôn ở xu thế động; Mặt khác, khi tìm hiểu về tình hình tội phạm, ta sẽ thấy trong đó có nhiều sự kiện có quan hệ với nhau, ảnh hưởng với nhau ở mức độ nhất định. Ví dụ như: Tình hình tội phạm bao giờ cũng gắn với một không gian và thời gian nhất định, không có tội phạm nào không có không gian và thời gian nhất định, trừ khi chúng chưa được phát hiện; thực trạng của tình hình tội phạm sẽ cho chúng ta thấy được xu hướng, diễn biến của tình hình tội phạm; cơ cấu của tình hình tội phạm sẽ làm rõ được tính chất của tình hình tội phạm…

Theo GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm: “Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định”. [52, tr.24]

Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: “THTP là trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm (hoặc nhóm tội phạm hoặc loại tội phạm) đă xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian xác định.” [17]

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định” [50].

Phân tích những quan điểm trên, theo tác giả khái niệm của GS.TS Võ Khánh Vinh về “tình hình tội phạm” mang tính khái quát, bao hàm nhất. Từ cơ sở này, trong phạm vi của luận văn có thể đưa ra khái niệm về “tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” là một hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự, bao gồm tổng thể thống nhất các tội phạm thực hiện trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

1.1.2. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm

Cũng giống như thuật ngữ về tình hình tội phạm, thuật ngữ về “phòng ngừa tình hình tội phạm” hiện cũng có nhiều luồng quan điểm khác nhau.

Lý luận về tội phạm học hiện nay tồn tại hai thuật ngữ là “phòng ngừa tội phạm” và “phòng ngừa tình hình tội phạm”. GS.TS. Đỗ Ngọc Quang chỉ ra phòng ngừa tội phạm theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội; theo nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, không để cho tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội” [22].

Theo Từ điển Luật học định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành” [18].

GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa đã đưa ra khái niệm này dưới góc độ tội phạm học cũng tương đối hợp lý như sau: “Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này…” [20, tr.31].

Theo Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội, “Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức vcông dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”[40, tr.210].

GS.TS Võ Khánh Vinh khẳng định,“Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [50, tr.154].

Từ những quan điểm nêu trên, tựu trung lại chúng ta thấy nội hàm hai thuật ngữ “phòng ngừa tội phạm” và “phòng ngừa tình hình tội phạm” có cùng nội dung đó là sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội để tác động vào hệ thống các nguyên nhân và điều kiện của tình tội phạm nhằm làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Tuy nhiên vì thuật ngữ “tình hình tội phạm” phản ánh diễn biến tình hình thực tế hoạt động của các loại tội phạm, vì vậy, theo tác giả thuật ngữ “phòng ngừa tình hình tội phạm” mang tính bao hàm hơn, phù hợp hơn về mặt lý luận.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu là hệ thống các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội để tác động vào hệ thống các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, từ đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm trên địa bàn quận.

      1. 1.1.3. Ý nghĩa của công tác phòng ngừa tình hình tội phạm

Trong công tác tư pháp (xét xử), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn” [21]. Câu nói này của Người đã thể hiện phương châm rất quan trọng trong đường lối xử lý của Nhà nước ta – lấy giáo dục, phòng ngừa là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống tội phạm tốt. Tập trung xây dựng và xác định công tác phòng ngừa là nội dung quan trọng và hàng đầu.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, với sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế – xã hội, hoạt động của các loại tội phạm ngày một tinh vi, và luôn luôn có những hoạt động mới nhằm đạt được mục đích phạm tội của mình. Công tác phòng ngừa tình hình tội phạm từ đó càng có ý nghĩa, vai trò quan trọng hơn. Chỉ thị số 48-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới” đã chỉ rõ: “Các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm, xác định công tác này là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của mình; đề ra các nghị quyết, chương trình để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, kế hoạch phòng, chống tội phạm; định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện; tăng cường đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, kịp thời giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình phòng, chống tội phạm.

Như vậy, trong công tác chỉ đạo của mình, Đảng ta luôn xác định công tác phòng ngừa tình hình tội phạm phải được ưu tiên trước công tác đấu tranh chống tội phạm. Làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của mọi người dân. Đối với các cơ quan nhà nước như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn, nếu làm tốt công tác phòng ngừa sẽ giảm đáng kể khối lượng công việc phải giải quyết, giải phóng áp lực về nhiều mặt như công tác cán bộ, ngân sách hoạt động, chất lượng công tác của các cơ quan trên, đồng thời, nếu thực hiện tốt các nội dung phòng ngừa thì niềm tin của quần chúng nhân dân đối với hoạt động của cơ quan này là rất lớn góp phần cộng hưởng đến việc giúp đỡ của quần chúng nhân dân đối với công tác của lực lượng này, các mối quan hệ trên nếu liên tục biện chứng cho nhau sẽ góp phần rất lớn kéo giảm tình hình tội phạm.

Từ những nội dung trên có thể thấy phòng ngừa tình hình tội phạm có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng và phát triển nhiều mặt của đời sống xã hội. Phòng ngừa tình hình tội phạm cần được các cấp, các ngành quan tâm nhiều hơn, thực hiện các công tác chuyên môn nhưng đồng thời phải gắn với công tác phòng ngừa tình hình tội phạm. Có như vậy mới thúc đẩy được sự phát triển kinh tế xã hội cũng như chất lượng đời sống của người dân ở từng địa phương, khu vực cũng như trên cả nước.

    1. 1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm

Công tác phòng ngừa tình hình tội phạm để đảm bảo tính hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu về nội dung, hình thức, cách thức thực hiện cũng như tính khả thi cần phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc nhất định. Theo tác giả, trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm cần tuân thủ các nguyên tắc sau:

1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Mọi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung cũng như việc áp dụng một biện pháp phòng ngừa cụ thể nào đều phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật. Các công tác phòng ngừa nếu vượt quá quy định của pháp luật lại trở thành các hành vi vi phạm pháp luật, không thể đạt được hiệu quả của công tác phòng ngừa. Vì tội phạm xuất hiện ở mọi mặt của đời sống xã hội, vì vậy, trong công tác phòng ngừa cần phải xem xét một cách toàn diện các nội dung quy định của pháp luật, một nội dung có thể được điều chỉnh không chỉ bằng một văn bản quy phạm pháp luật mà còn có thể được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

Mặt khác cũng giống như các nội dung khác trong đời sống xã hội, các quy định của pháp luật bao giờ cũng có một độ trễ so với tình hình thực tế. Vì vậy, công tác phòng ngừa tình hình tội phạm bên cạnh việc tuân thủ các quy định của pháp luật, cũng cần phải tìm ra những kẽ hở của quy định pháp luật để vừa là bổ sung hành lang pháp lý cho công tác phòng ngừa nhưng đồng thời cũng chính là một trong những nội dung phòng ngừa trong biện pháp phòng ngừa về hệ thống chính sách, pháp luật.

Ngoài ra, việc tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm còn góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật tuyệt đối từ các chủ thể thực hiện công tác phòng ngừa, triệt tiêu những tiêu cực có thể xảy ra trong công tác phòng ngừa từ đó làm giảm hiệu quả phòng ngừa cũng như tạo điều kiện để tình hình tội phạm có những diễn biến phức tạp hơn.

1.2.2. Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa

Trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm để đảm bảo nâng cao được hiệu quả cần thiết phải có sự tham gia tối đa của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân đang sinh sống trên lãnh thổ nước Việt Nam. Chỉ thị số 48-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới” đã chỉ rõ: “Huy động sự tham gia rộng rãi, tích cực của các tổ chức quần chúng và nhân dân vào công tác phòng, chống tội phạm”. [6].

Đây là một trong những yêu cầu quan trọng về nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm. Các cơ quan chức năng nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm như Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án… cần tạo mọi điều kiện để thu hút sự tham gia đông đảo của các tổ chức, cá nhân; tuyên truyền về việc nâng cao ý thức của người dân trong công tác phòng ngừa; tập huấn các biện pháp phòng ngừa cụ thể, phù hợp đối với người dân sinh sống tại những địa bàn khác nhau; tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân cũng như tiếp thu những phản biện về công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, có như vậy, hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm mới được nâng cao.

1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo

Mọi biện pháp được áp dụng để phòng ngừa tình hình tội phạm phải hướng đến sửa chữa sai sót nhân cách con người, tôn trọng nhân phẩm, danh dự và các quyền cơ bản của con người, không được hạ thấp quyền con người mà phải hướng đến việc định hướng hành vi, lối sống cho con người theo chiều hướng có ích cho xã hội. Cần xây dựng hệ thống các biện pháp chế tài đa dạng, nhân đạo nhưng có điều kiện áp dụng chặt chẽ, ưu tiên các biện pháp mang tính xã hội. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần hạn chế những tổn thương cho người phạm tội nói riêng và cho xã hội nói chung. Chỉ thị số 48-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới” có nêu: “Tăng cường và đổi mới công tác cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ những người phạm tội được đặc xá, tha tù, người mắc tệ nạn xã hội tại cộng đồng và tại các trại giam, cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng với những hình thức phù hợp.” [6].

1.2.4. Nguyên tắc khoa học và tiến bộ

Trong giai đoạn hiện nay, khi công nghệ khoa học có những phát triển vượt bậc. Việc ngày càng có nhiều người phạm tội sử dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào mục đích phạm tội của mình là điều được dự báo trước. Vì vậy, trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm cần thiết và bắt buộc phải được xây dựng trên cơ sở khoa học. Ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, một mặt sẽ góp phần hạn chế sức người trong công tác phòng ngừa, mặt khác đây là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát hiện các tội phạm mới trong giai đoạn hiện nay. Các cơ quan chức năng nhà nước căn cứ vào phạm vi quản lý, lĩnh vực quản lý của mình để đề ra những chủ trương cụ thể cho việc nghiên cứu khoa học ứng dụng vào công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên lĩnh vực, địa bàn mình quản lý.

1.2.5. Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể phòng ngừa tội phạm

Trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm nguyên tắc phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa giữa các chủ thể là một nguyên tắc vô cùng quan trọng bởi vì hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ chỉ phát huy hiệu quả cao nhất khi các chủ thể hoạt động phòng ngừa tội phạm có sự nhất quán về hình thức, nội dung và phạm vi hoạt động phòng ngừa. Nguyên tắc ấy đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm phải đặt trong một cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, có sự điều hành thống nhất giữa các cơ quan chuyên trách và không chuyên trách, giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế và mọi công dân, giữa trung ương với địa phương. Và để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc này trước hết cần đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với công tác phòng ngừa.

    1. 1.3. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm

– Nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm

Để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm đòi hỏi các cơ quan chức năng phải xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xây dựng chiến lược phòng ngừa phù hợp, trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân, điều kiện như sau:

+ Ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, cụ thể:

Không phủ nhận những thành tựu mà nền kinh tế thị trường đang mang lại đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta, tuy nhiên, trên phương diện nghiên cứu về tội phạm học thì nền kinh tế thị trường cũng có những mặt tiêu cực tác động đến tình hình tội phạm trong đó tác động mạnh đến việc tha hóa về đạo đức, lối sống đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay, hình thành lối sống hưởng thụ xa hoa, truỵ lạc của một bộ phận người trong xã hội.

Ngoài ra, sự phân hóa giàu nghèo mặc dù được các cấp ủy Đảng, cơ quan chính quyền nhà nước luôn luôn quan tâm, điều chỉnh và hạn chế bằng những chính sách của mình, tuy nhiên hiện nay việc triệt để xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo vẫn còn nhiều hạn chế. Đây cũng là một yếu tố tác động lớn đến tình hình tội phạm.

+ Những tư tưởng lạc hậu, cổ hũ, đã có từ lâu đời đến nay vẫn không thể xóa bỏ triệt để, đặc biệt là những khu vực vùng cao, đồi núi. Ví dụ: Tư tưởng trọng nam khinh nữ, mê tín dị đoan,…

+ Những hạn chế, bất cập, thiếu xót trong công tác quản lý Nhà nước về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực.

+ Công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan chức năng nói chung và của ngành công an nói riêng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu sót;

+ Công tác quản lý Nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều sơ hở. Công tác giáo dục người phạm tội còn nhiều hạn chế cả về con người, phương pháp và cơ sở vật chất, tình hình người phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt tiếp tục phạm tội vẫn còn xảy ra nhiều.

+ Phong trào phát động quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm ở nhiều địa phương vẫn còn mang tính hình thức, chưa thật sự đi sâu, đi sát và huy động được sức mạnh của quần chúng nhân dân.

– Xây dựng, đề xuất các chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm.

Tuỳ thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình trạng phạm tội trên các lĩnh vực để soạn thảo đề xuất các biện pháp đấu tranh xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cho phù hợp, bao gồm:

+ Các giải pháp phát triển kinh tế.

+ Các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật.

+ Nhà nước phải xây dựng chương trình quốc gia phòng chống tội phạm nói chung, đảm bảo các yêu cầu: Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, sử dụng đồng bộ hệ thống, các biện pháp phòng ngừa, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành, của công dân.

+ Mỗi đơn vị, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội phải xây dựng chương trình về phòng ngừa tình hình tội phạm trên lĩnh vực, địa phương mình quản lý.

+ Mỗi người dân phải có ý thức trong việc tham gia vào công tác phòng ngừa tình hình tội phạm tại khu vực mình cư trú cũng như công tác.

– Thực hiện các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

Các cơ quan chính quyền các cấp hằng năm đều phải xây dựng các kế hoạch, chương trình về phòng ngừa tình hình tội phạm; đồng thời phải xây dựng các kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm trong các giai đoạn dài hơn trong những năm tiếp theo.

Các bộ, ngành tùy thuộc vào lĩnh vực mình quản lý hằng năm và trong các giai đoạn ngắn hạn, dài hạn phải có kế hoạch, chương trình phòng ngừa tình hình tội phạm gắn với công tác chuyên môn của mình.

Mỗi hộ gia đình, mỗi công dân trong hoạt động sinh hoạt, công tác hằng ngày đều phải nâng cao cảnh giác phòng ngừa tình hình tội phạm, phòng ngừa những hậu quả do tội phạm gây ra đối với bản thân, gia đình cũng như toàn cộng đồng.

– Tiến hành các hoạt động phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý đối với tội phạm.

Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ tiến hành phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm theo quy định của pháp luật có trách nhiệm: chủ động phối kết hợp với các lực lượng có liên quan kịp thời phát hiện các thông tin về tội phạm và có liên quan đến tội phạm; tổ chức điều tra làm rõ các hành vi phạm tội, con người kẻ phạm tội, làm rõ những vấn đề cần chứng minh theo yêu cầu của pháp luật, phục vụ xử lý tội phạm; các cơ quan truy tố, xét xử cần căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử lí đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.

    1. 1.4. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm

1.4.1. Các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng ngừa

+ Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương: Ban hành các chính sách lớn, chủ trương, định hướng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm.

+ Quốc hội, Hội đồng nhân dân: Là cơ quan lập pháp, tiến hành xây dựng hệ thông văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm; các chính sách phòng ngừa tình hình tội phạm; giao nhiệm vụ cho các cơ quan ban ngành trên lĩnh vực chuyên môn của mình những chỉ tiêu về phòng ngừa tình hình tội phạm.

Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

Thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện pháp luật trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội.

Hội đồng nhân dân ở các địa phương, căn cứ tình hình của địa phương đưa ra những chủ trương, chính sách phòng ngừa tình hình tội phạm phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương mình.

+ Uỷ ban nhân dân các cấp

Là cơ quan trực tiếp tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm ở các địa phương trên cả nước, Ủy ban nhân dân các cấp căn cứ trên các văn bản quy phạm pháp luật giao nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên ngành ở cấp tỉnh, thành phố thực hiện tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm theo chức năng, nhiệm vụ của mình.

1.4.2. Các cơ quan quản lý kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch trong phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn

Ban hành những quy định thuộc thẩm quyền đồng thời là cơ quan tham mưu cho các cơ quan cấp trên những chủ trương, chính sách nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

Thực hiện các kế hoạch, chương trình phòng ngừa tình hình tội phạm theo chỉ đạo của các cơ quan cấp trên.

Làm tốt công tác phối hợp với chính quyền địa phương các cấp, đảm bảo chức năng hướng dẫn, kiểm tra đối với các cơ quan chuyên môn theo ngành dọc.

1.4.3. Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản

Các tổ chức đoàn thể xã hội, tổ chức quần chúng tự quản có vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm, đây vừa là lực lượng đi sâu đi sát đối với quần chúng nhân dân, kịp thời có những thông tin, định hướng bổ ích trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, đồng thời vừa là cầu nối của các cơ quan, ban, ngành với quần chúng nhân dân để phát huy tổng thể vai trò của toàn hệ thống chính trị trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm.

1.4.4. Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Toà án, Viện kiểm sát

Với chức năng, nhiệm vụ được giao của mình, các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành nghiên cứu thực trạng, diễn biến của tình hình tội phạm, tiến hành đấu tranh xử lý đối với các hành vi phạm tội nhằm phục vụ cho công tác phòng ngừa.

Lực lượng Công an bên cạnh công tác nghiệp vụ chuyên môn về trinh sát, điều tra, bóc gỡ, khám phá các hành vi phạm tội, các tổ chức phạm tội để đấu tranh, xử lý theo quy định của pháp luật, đây là biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm mang tính nghiệp vụ. Ngoài ra, lực lượng Công an cũng tích cực tham gia các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm mang tính phòng ngừa chung, thể hiện qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thường xuyên đi sâu đi sát nắm tình hình của lực lượng Công an khu vực…

Viện kiểm sát: Là cơ quan giữ quyền công tố, thực hiện chức năng kiểm sát, giám sát việc chấp hành pháp luật của Cơ quan điều tra, tiến hành truy tố đối với các đối tượng phạm tội, góp phần chung vào công tác giáo dục răn đe đối với xã hội. Bên cạnh đó, thông qua công tác chuyên môn của mình, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị các cơ quan chức năng khởi tố các vụ án nếu phát hiện các dấu hiệu tội phạm.

Toà án các cấp: Thực hiện việc xét xử các vụ án hình sự đảm bảo tính chính xác, đúng pháp luật, thông qua hoạt động xét xử phát hiện các nguyên nhân của tình hình tội phạm từ đó có những kiến nghị, đề xuất đối với các cơ quan lập pháp, hành pháp để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm.

1.4.5. Công dân

Công dân là tế bào của xã hội, vừa là mục tiêu bảo vệ mà hoạt động phòng ngừa hướng đến, vừa là chủ thể tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Việc tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm của công dân dưới tư cách chủ thể được thực hiện thông qua việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

    1. 1.5. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm

Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống các biện pháp, cách thức do các cơ quan chức năng có thẩm quyền, các tổ chức xã hội và công dân thực hiện nhằm hạn chế, ngăn chặn, loại trừ nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Mỗi biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm đều gắn liền với chức năng, vai trò của cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội nhất định [38].

Công tác phòng ngừa tình hình tội phạm là sự kết hợp giữa việc giải quyết những vấn đề chung liên quan đến nhiệm vụ của toàn xã hội và việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Phòng ngừa tình hình tội phạm có thể được thự hiện tùy thuộc vào tình chất, phạm vi, quy mô, mức độ của từng địa phương, từng cơ quan, ban, ngành, tuy nhiên, tổng hợp các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm của các địa phương, cơ quan, ban, ngành là một chỉnh thể thống nhất về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Vì vậy, khi nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trên lăng kính của tội phạm học cần nghiên cứu một cách tổng quát các biện pháp được sử dụng ở tất cả các địa phương, cơ quan, ban, ngành, đó chính là hệ thống các biện pháp được áp dụng ở bất kỳ địa phương nào đều mang lại hiệu quả đồng thời bên cạnh việc nghiên cứu hệ thống biện pháp chung còn cần phải nghiên cứu hệ thống biện pháp phòng ngừa chỉ có thể áp dụng đối với phạm vi một địa phương, phạm vi một lĩnh vực, hoặc hệ thống biện pháp phòng ngừa chỉ có thể áp dụng đối với một nhóm đối tượng nhất định.

Phân loại các biện pháp phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa nhận thức các biện pháp phòng ngừa tội phạm ở các góc độ khác nhau. Hiện nay, trong tội phạm học có nhiều cách phân loại biện pháp phòng ngừa tội phạm, trong đó có thể phân loại dựa vào một số căn cứ sau:

– Căn cứ vào phạm vi, mức độ tác động

Biện pháp phòng ngừa chung đối với tình hình tội phạm là những biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện chung của tình hình tội phạm. Đây là nhóm các biện pháp phòng ngừa mang tính xóa bỏ các điều kiện, nguyên nhân chung của tình hình tội phạm liên quan đến các hiện tượng tiêu cực xã hội tiêu cực mà từ hiện tượng tiêu cực đó có thể làm phát sinh bất cứ tội phạm nào.

Biện pháp phòng ngừa loại tội phạm cụ thể là hệ thống các biện pháp mang tính chuyên biệt, có thể được phân loại theo nhóm các tội phạm hoặc cụ thể hơn ở từng tội phạm. Căn cứ vào các đặc điểm, tính chất, thủ đoạn, phương tiện thực hiện của các nhóm tội phạm hoặc của từng tội phạm cụ thể mà các cơ quan chức năng của Nhà nước tiến hành xây dựng các biện pháp phòng ngừa.

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ không đem lại hiệu quả nếu chúng ta tách rời hai hệ thống biện pháp phòng ngừa chung đối với tất cả các loại tội phạm và hệ thống các biện pháp phòng ngừa riêng đối các tội phạm cụ thể. Việc kết hợp hai hệ thống này sẽ góp phần bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong phòng ngừa tình hình tội phạm, trong hệ thống các biện pháp phòng ngừa chung đã bao hàm việc phòng ngừa các tội phạm cụ thể và các biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể cũng nằm trong một hệ thống lớn đó là hệ thống biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung.

– Căn cứ vào nội dung, tính chất của biện pháp

Biện pháp kinh tế xã hội là những biện pháp có tính chất kinh tế, tác động chủ yếu đến lĩnh vực kinh tế, làm hạn chế khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm, đặc biệt là các tội phạm xâm phạm sở hữu, các tội phạm kinh tế, tham nhũng…

Biện pháp văn hóa – tâm lý xã hội là hệ thống các biện pháp tác động đến các yếu tố về tinh thần như các biện pháp về giáo dục, các biện pháp về định hướng sự lành mạnh trong lối sống, triệt xóa các hiện tượng tiêu cực có thể ảnh hưởng đến nhân cách, tâm lý của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Loại biện pháp này làm hạn chế khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm, đặc biệt là các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người, các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, các tội phạm chế độ hôn nhân gia đình, các tội phạm về ma túy…

Biện pháp phát hiện, xử lý tội phạm, hay còn gọi là các biện pháp chống tội phạm, thể hiện ở khả năng điều tra, xét xử tội phạm khi có tội phạm xảy ra.

– Căn cứ vào địa bàn, lĩnh vực cần phòng ngừa tội phạm

Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm áp dụng chung trên toàn bộ lãnh thổ đất nước. Đây là hệ thống các biện pháp phòng ngừa mang tính chung, nhất quán phù hợp với bất kỳ địa phương, dân tộc nào trên đất nước. Đây thường là nhóm biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện là các hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính phổ biến. Ngược lại, có những biện pháp chỉ được áp dụng cho một vùng, một địa phương nhất định, đây là nhóm các biện pháp mang tính đặc thù, riêng biệt.

Tuy nhiên, trong phạm vi yêu cầu, mục đích của luận văn, trên cơ sở các yếu tố tác động đến việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, thừa hưởng những luận cứ khoa học của lý luận tội phạm học về xây dựng các biện pháp phòng ngừa THTP. Tác giả đưa ra cách phân loại theo hệ thống các biện pháp phòng ngừa theo nội dung phòng ngừa THTP trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, cụ thể là:

1.5.1. Hệ thống các biện pháp nhằm xây dựng môi trường, xã hội tích cực

Hệ thống các biện pháp nhằm xây dựng môi trường, xã hội tích cực là hệ thống gồm nhiều biện pháp như biện pháp về phát triển kinh tế xã hội, biện pháp giáo dục, tuyên truyền…với mục đích chung được hướng đến là nhằm cải thiện các quan hệ xã hội gồm các quan hệ giáo dục, việc làm, quản lý… Trong đó, hoạt động nâng cao đời sống, nhận thức, trình độ văn hóa của con người là vô cùng quan trọng. Trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã tổng kết, nhận định trong số những nguyên nhân, phát sinh tinh hình tội phạm có rất nhiều nguyên nhân xuất phát từ bản thân người phạm tội như: Người phạm tội có lối sống không lành mạnh; có nhiều thói quen và quan hệ xã hội xấu; có trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn chế; lười lao động, không có việc làm hoặc người phạm tội có những nét tâm lý tiêu cực trong nhân cách. Trong đó, gia đình được coi là cái nôi, ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách con người. Theo số liệu thống kê tội phạm học: Người chưa thành niên phạm tội có nguồn gốc gia đình làm nghề buôn bán bất hợp pháp chiếm 51,94%; gia đình có người phạm tội chiếm 40%; có tới 30% người chưa thành niên phạm tội có bố hoặc mẹ hoặc cả bố mẹ nghiện hút.

Do đó, hệ thống các biện pháp nhằm xây dựng môi trường, xã hội tích cực là một trong những nhóm biện pháp quan trọng, mang tính tổng quát cần được quan tâm, chú trọng thực hiện đồng bộ đối với tất cả các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn quận.

      1. 1.5.2. Hệ thống các biện pháp mang tính chất quản lý hành chính Nhà nước

Hệ thống các biện pháp mang tính chất quản lý hành chính Nhà nước bao gồm một số biện pháp như biện pháp về tổ chức, quản lý xã hội, biện pháp pháp luật…, đây là hệ thống những biện pháp cơ bản nhất của các cơ quan quản lí nhà nước nói chung và cũng như một số cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hệ thống các biện pháp này được thực hiện bằng cách sử dụng những quy định của pháp luật về trật tự xã hội để quản lí xã hội nhằm phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các hành vi xâm hại an ninh, trật tự, bảo đảm cuộc sống yên vui, hạnh phúc của nhân dân.

1.5.3. Hệ thống các biện pháp phòng ngừa có tính chuyên biệt được đặc trưng bởi các chủ thể thực hiện (các cơ quan bảo vệ pháp luật)

Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bên cạnh các biện pháp phòng ngừa được thực hiện bằng phòng ngừa xã hội còn có hệ thống các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ, có tính chuyên biệt, tùy thuộc vào từng nghiệp vụ chuyên ngành riêng, biện pháp công tác riêng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể.

Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có lực lượng công an nhân dân, biện pháp nghiệp vụ được sử dụng trong quá trình đấu tranh phòng ngừa và chống các âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, các phần tử chống đối cách mạng và các loại tội phạm khác, bảo vệ an ninh, trật tự như biện pháp trinh sát, biện pháp vũ trang…

Tiểu kết Chương 1

Chương 1 trình bày những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm, phòng ngừa tình hình tội phạm, mục đích và ý nghĩa. Đây là nội dung cơ bản để từ đó tác giả xác định và làm rõ được tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu cũng như đề xuất các giải pháp phòng ngừa phù hợp với các cơ sở lý luận. Bên cạnh đó, tại Chương 1 cũng đã làm rõ các nguyên tắc về phòng ngừa tình hình tội phạm, nội dung và chủ thể trong công tác phòng ngừa làm cơ sở để đánh giá về công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu trong thời gian qua, đồng thời là cơ sở để xây dựng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong thời gian tới trên địa bàn quận Liên Chiểu mang tính khả thi, phù hợp với thực tiễn.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

    1. 2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội, vị trí địa lý của quận Liên Chiểu tác động đến công tác phòng ngừa tình hình tội phạm

Liên Chiểu là một trong sáu quận hiện có của thành phố Đà Nẵng được thành lập từ năm 1997. Toàn quận hiện có 5 phường gồm: Hòa Hiệp Bắc, Hòa Hiệp Nam, Hòa Khánh Bắc, Hòa Khánh Nam và Hòa Minh. Phía bắc giáp huyện Phú Lộc (tỉnh Thừa Thiên Huế), phía nam giáp quận Cẩm Lệ, Thanh Khê, phía Đông giáp vịnh Đà Nẵng, phía tây giáp huyện Hòa Vang, Với vị trí địa lý như vậy, quận Liên Chiểu là quận cửa ngõ tại khu vực phía Bắc của thành phố Đà Nẵng, có khu vực giáp ranh với tỉnh Thừa Thiên Huế, đây là khu vực có vị trí quan trọng vì có đỉnh đèo Hải Vân, là địa điểm tham quan du lịch, phục vụ cho việc phát triển kinh tế – xã hội, nhưng đồng thời cũng là khu vực đặc biệt phức tạp về tình hình trật tự, an toàn, xã hội.

Theo báo cáo của Công an hai địa phương, với đặc điểm địa lý vùng giáp ranh diện tích hơn 2.100 km2, có nhiều dân tộc sinh sống và nhiều tuyến đường huyết mạch ngang qua nên tình hình tội phạm hoạt động thời gian qua trên địa bàn giáp ranh cũng diễn biến phức tạp. Tình hình tội phạm hình sự, kinh tế, ma túy, tệ nạn xã hội tuy có giảm về số vụ nhưng tiềm ẩn yếu tố phức tạp như giết người do nguyên nhân xã hội, tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt, buôn bán với số lượng lớn, tình trạng thanh thiếu niên sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng tăng; đối tượng thường lợi dụng địa điểm hiểm trở của rừng núi để tụ tập, tổ chức hoạt động và lẩn trốn khi lực lượng Công an đấu tranh, trấn áp.

Về đặc điểm dân cư, diện tích quận Liên Chiểu hiện nay là 7.912,70 ha xếp thứ 2 sau huyện Hòa Vang; dân số là 194.913 người, đứng thứ 2 so với các quận, huyện khác sau quận Hải Châu, nhưng đồng thời tốc độ tăng dân số trong 10 năm qua là 4% cũng xếp thứ 2 sau quận Cẩm Lệ (6%) … Trong khi đó, hai quận trung tâm TP là Hải Châu và Thanh Khê thì có tốc độ tăng trưởng dân số rất thấp, dưới 1%. [10]. Như vậy, tình hình tăng trưởng về dân số, cho thấy, môi trường xã hội trên địa bàn quân Liên Chiểu hiện nay đang có nhiều điều kiện thu hút người dân về sinh sống, an cư lạc nghiệp, đây vừa là tín hiệu tích cực, nhưng đồng thời cũng là một trong những yếu tố cần phải quan tâm, chú trọng trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn quận, đặc biệt là vấn đề về quản lý cư trú, quản lý nhân hộ khẩu trên địa bàn.

Về điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, quận Liên Chiểu nằm trên trục giao thông Bắc – Nam, với Quốc lộ 1A đi qua, là cửa ngõ hướng ra biển Đông, có hệ thống sông nối liền vùng núi ở phía tây, đổ ra biển ở phía đông.

Bên cạnh đó, Liên Chiểu lại nằm gần cảng biển, sân bay quốc tế, bến xe, nhà ga đường sắt,… là điều kiện thuận lợi trong việc giao thông bằng đường thủy, đường bộ, đường sắt, đường không,… nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quận.

Nhiều nguồn sử liệu hiện tồn cho biết, trước đây, vùng đất Liên Chiểu là nơi sinh tụ của cư dân Champa. Đến thế kỷ XV, những cư dân người Việt trong cuộc hành trình Nam tiến vào đây định cư, họ đã lập nên các ngôi làng nằm ở dọc ven sông, ven biển mà hiện nay vẫn còn như: Xuân Dương, Đà Sơn, Nam Ô,… Theo thời gian, họ từng bước ổn định và phát triển đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của mình. Đến nay, Liên Chiểu là một trong những địa phương có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và lịch sử hình thành, phát triển lâu đời, điều đó đã tạo cho quận Liên Chiểu có những tiềm năng để phát triển, nhất là du lịch. Tiềm năng và thế mạnh về du lịch của quận Liên Chiểu như du lịch núi: Vùng đồi núi của quận Liên Chiểu phân bố chủ yếu ở phường Hòa Hiệp Bắc; Đà Sơn, Khánh Sơn (phường Hòa Khánh Nam); Thanh Vinh, Đa Phước (phường Hòa Khánh Bắc); Phước Lý (phường Hòa Minh). Đất rừng của quận là 3.245,91 ha, chiếm 39,07% đất toàn quận. Rừng tự nhiên chủ yếu là rừng đặc dụng Hải Vân, phong phú về tài nguyên động thực vật; Du lịch sông: Sông Cu Đê (còn có tên là sông Trường Định) bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn, gồm hai chi lưu là sông Bắc và sông Nam. Khi chảy đến Cầu Sập, thôn Tà Lang, xã Hòa Bắc (huyện Hòa Vang) thì hai chi lưu này hợp lưu với nhau tạo thành sông Cu Đê. Núi sông hòa hợp gắn liền với nhau tạo nên cảnh sắc độc đáo, là nguồn tài nguyên để phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái; Du lịch biển: Liên Chiểu có bờ biển dài khoảng 26 km, có nhiều bãi tắm đẹp như Xuân Thiều, Nam Ô, Bắc Ninh. Những chỗ núi đá ăn sâu ra biển tạo thành những ghềnh đá tuyệt đẹp như ghềnh đá Nam Ô là nguồn tài nguyên cho du lịch biển. Bãi tắm Xuân Thiều sạch, đẹp và còn hoang sơ, cát trắng mịn, nước biển lúc nào cũng xanh biếc. Trước đây, bãi tắm này được binh lính Mỹ gọi là “Red Beach”. Năm 1992, khu du lịch Xuân Thiều được thành lập với hệ thống dịch vụ đa dạng như: khách sạn, nhà hàng, một số dịch vụ vui chơi giải trí, phục vụ tắm biển…

Hiện nay, tuyến đường du lịch ven biển dài 15 km từ cầu Thuận Phước đến chân đèo Hải Vân đi ngang qua bãi biển Xuân Thiều và bãi biển Nam Ô, là cơ hội thuận lợi để quận Liên Chiểu khai thác đúng mức tiềm năng của hai bãi biển này.

Với những tiềm năng và lợi thế sẵn có để phát triển du lịch, trong những năm qua, lãnh đạo quận Liên Chiểu cùng với các tổ chức, cá nhân và nhân dân địa phương đã và đang khai thác một số địa điểm du lịch như bãi biển Xuân Thiều, bãi biển Nam Ô, khu du lịch Suối Lương, khu du lịch sinh thái Hải Vân Quan, các di tích lịch sử – văn hóa, lễ hội cầu ngư, đua thuyền… phần nào đã đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, nâng cao đời sống và tạo việc làm cho nhân dân địa phương.

Hiện nay khu đô thị sinh thái Quan Nam – Thủy Tú có diện tích hơn 382 ha do Công ty cổ phần Trung Nam (thuộc Tập đoàn Trung Nam) làm chủ đầu tư tọa lạc tại phường Hòa Hiệp Nam (quận Liên Chiểu) và xã Hòa Liên (huyện Hòa Vang), với sự kết hợp hài hòa giữa cây xanh, ốc đảo, sông nước và kiến trúc đô thị được thiết kế rất hiện đại tạo nên không gian đa mục đích sử dụng hứa hẹn sẽ góp phần làm cho du lịch Liên Chiểu có bước phát triển mới.

Năm 2017, quận Liên Chiểu là đơn vị đầu tiên trên địa bàn Thành phố được công nhận là đơn vị hành chính loại I. Từ nền kinh tế nông nghiệp, Liên Chiểu đã phát triển vượt bậc trở thành một quận công nghiệp trẻ; với tổng thu ngân sách năm 2017 đạt 370 tỷ đồng, đạt 114,4% so với kế hoạch, tăng 18,8% so với năm 2016.

Như vậy, với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, lịch sử văn hóa, quận Liên Chiểu có nhiều tiềm năng phát triển vượt bậc hơn nữa về mọi mặt trong tương lai, nhưng đồng thời đây cũng là một trong những quận tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức tạp về tình hình trật tự, an toàn xã hội, điều này không chỉ phản ánh qua thực tế số liệu về tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn quận Liên Chiểu trong thời gian vừa qua mà còn thể hiện ở nhiều hạn chế trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm.

    1. 2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Thực trạng

Trong thời gian qua, quận Liên Chiểu đã chủ động tham mưu Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, tổ chức triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách; chỉ đạo, điều hành, phối hợp với các cơ quan, lực lượng tổ chức triển khai các mặt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn quận, cụ thể:

– Hệ thống các biện pháp nhằm xây dựng môi trường xã hội tích cực

Triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm như: Chỉ thị 46-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới”; Chỉ thị số 48-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Chỉ thị số 09/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”, nhằm xác định nhiệm vụ phòng chống tội phạm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp; trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền đối với tình hình tội phạm ở địa phương, đơn vị mình quản lý và xem đây là một tiêu chí để bình xét, phân loại, hàng năm đối với tổ chức Đảng và Đảng viên ở các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc.

Bên cạnh đó, các cơ quan tham mưu giúp việc của Quận ủy đã tổ quán triệt đầy đủ, sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, các nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà Thành ủy đã đề ra thông qua các Chỉ thị như Chỉ thị 24-CT/TU và Chỉ thị 25-CT/TU của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi phạm pháp luật” và “phòng chống bạo lực gia đình” và các văn bản có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Phối hợp với các cấp, các ngành tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình hành động, chỉ thị, quyết định, kế hoạch, văn bản chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố liên quan đến công tác đảm bảo ANTT, như Chỉ thị số 24/CT-TU ngày 10/8/2009 của Thành uỷ Đà Nẵng v/v “Tiếp tục đẩy mạnh công tác phối hợp giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư vi phạm pháp luật trên địa bàn TP Đà Nẵng”, Chỉ thị số 25-CT/TU ngày 20/10/2009 của Ban Thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng về “Phòng chống bạo lực gia đình”; Chỉ thị số 37-CT/TU ngày 20/8/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về “tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố”; Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 07-8-2009 về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm và xây dựng mô hình phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”. Đồng thời, tổ chức rà soát, đánh giá, tham mưu Chủ tịch UBND thành phố điều chỉnh, khắc phục những tồn tại, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức công tác phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm. Phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể, chính quyền các cấp trên địa bàn thành phố chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện nghiêm túc các chương trình hành động, chỉ thị, quyết định, kế hoạch của Thành uỷ, UBND thành phố đối với công tác phòng, chống tội phạm; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong toàn dân, lồng ghép vào các buổi sinh hoạt của các mô hình để tuyên truyền thông qua phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phong trào PCTP, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của thành phố đã góp phần tích cực trong việc PCTP trên địa bàn quận.

– Hệ thống các biện pháp quản lý hành chính nhà nước

+ Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân phòng, chống tội phạm

Tổ chức quán triệt đến từng đảng viên, cán bộ, công nhân viên quan điểm chỉ đạo của Quận uỷ, UBND quận về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Xác định trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền đối với tình hình ANTT ở địa phương, đơn vị mình quản lý và xem đây là một tiêu chí để bình xét, phân loại hàng năm đối với chất lượng của tổ chức cơ sở đảng, cũng nhưng đánh giá, phân loại cán bộ. Đồng thời, chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể chính trị – xã hội và chính quyền các cấp làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật liên quan đến công tác PCTP theo chức năng, nhiệm vụ của mình, như đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố, quận; mô hình “Tổ, thôn không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, phong trào “Tuổi trẻ chung tay đẩy lùi tệ nạn xã hội” của Đoàn Thanh niên; mô hình “5+1” (4 hội, đoàn thể + 1 Công an nhận kèm, giúp đỡ một đối tượng sau cai nghiện), mô hình “1+3” (1 Cựu chiến binh liên kết với 3 gia đình kề cận ngăn chặn tội phạm, ma tuý và mại dâm thâm nhập vào khu dân cư) và thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của thành phố; mô hình “Chi hội không có hội viên nông dân và con em nông dân vi phạm pháp luật” của Hội Nông dân.

Đoàn Thanh niên các cấp đã tổ chức tuyên truyền, vận động trong cán bộ, Đoàn viên, thanh thiếu niên và các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động PCTP, ma túy, tệ nạn xã hội, thường xuyên lồng ghép các hoạt động hội thi, hội diễn văn nghệ nội dung tuyên truyền về phòng, chống tội phạm, ma tuý, mại dâm. Thông qua các hoạt động như hội thi, hội diễn, sinh hoạt chuyên đề…, nhằm vận động quần chúng nhân dân chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia phòng ngừa, phát hiện và tố giác tội phạm; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, kết hợp với xây dựng “Tổ dân phố không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, gắn với thực hiện Chỉ thị số 24, 25-CT/TU của Thành ủy.

Công an quận tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phòng chống tội phạm đến tận tổ dân phố, cụm dân cư và từng hộ gia đình với nhiều nội dung, hình thức phong phú, trong đó chú trọng tuyên truyền cá biệt cho số đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp luật như: số đối tượng có tiền án, tiền sự, số người nghiện, thanh thiếu niên hư, vi phạm pháp luật, học sinh, sinh viên bỏ học…, đưa ra kiểm điểm trước dân hơn nhiều lượt đối tượng; lập hồ sơ đưa vào giáo dục tại xã, phường; mở các lớp tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp luật tham gia….; tổ chức tập huấn, hướng dẫn 04 nhiệm vụ trọng tâm cho tất cả các Tổ trưởng dân phố nhằm nắm bắt kịp thời việc quản lý ANTT và xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại địa bàn dân cư, phối hợp tốt với các lực lượng chức năng những vấn đề liên quan đến tình hình ANTT trên địa bàn.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài phát thanh quận Liên Chiểu, Đài Phát thanh truyền hình Đà Nẵng, Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng, Đài Tiếng nói Việt Nam tại Đà Nẵng, Báo Đà Nẵng, Báo Công an thành phố, hàng tuần, xây dựng nhiều phóng sự, phim ảnh kịp thời đưa tin các hoạt động phòng, chống tội phạm của các địa phương, ban, ngành, đoàn thể để tuyên truyền giáo dục chung.

+ Công tác phát động quần chúng tham gia giữ gìn, bảo vệ an ninh Tổ quốc

Tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố về phê duyệt đề án “Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động toàn dân tham gia phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, qua đó từng bước đổi mới công tác phát động phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong quần chúng nhân dân, với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, đa dạng và phù hợp với từng địa bàn, khu dân cư, từng đối tượng vận động đã mang lại hiệu quả trong phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, theo tinh thần của Chỉ thị 09/CT của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới”. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền phong trào phòng chống tội phạm; xây dựng, nhân rộng các mô hình phát huy hiệu quả trong công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội tại các khu dân cư. Trong đó:

Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Cựu chiến binh, Nông dân, Liên đoàn lao động thành phố và các lực lượng vũ trang bên cạnh việc tổ chức tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân, đã chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động trong hội viên và cán bộ công nhân viên với nhiều hình thức đa dạng, phong phú gắn liền với các nội dung phong trào như: phong trào 4 không “không buôn bán, không tàng trữ, không tiêm chích, không có người nghiện ma tuý”; “Gia đình không có con em vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội”; nêu cao vai trò của gia đình trong việc quản lý, giáo dục con cái; Tộc họ làm tốt công tác giáo dục con cháu, xây dựng thôn, xóm, khu phố bình yên gia đình hạnh phúc không có tệ nạn xã hội; Thông qua các hoạt động như hội thi, hội diễn, sinh hoạt chuyên đề…đã giáo dục, động viên đông đảo quần chúng tích cực hưởng ứng các hoạt động phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, tiêu biểu như mô hình “Tổ, thôn không có tội phạm và tệ nạn xã hội”, phong trào “Tuổi trẻ chung tay đẩy lùi tệ nạn xã hội” của Đoàn Thanh niên; mô hình “5+1” (4 hội, đoàn thể + 1 Công an nhận kèm, giúp đỡ một đối tượng sau cai nghiện), mô hình “1+3” (1 Cựu chiến binh liên kết với 3 gia đình kề cận ngăn chặn tội phạm, ma tuý và mại dâm thâm nhập vào khu dân cư) và phát động phong trào quần chúng bảo vệ ANTQ, thực hiện chương trình “5 không, 3 có” của thành phố đã góp phần tích cực phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố.

– Hệ thống các biện pháp phòng ngừa có tính chuyên biệt

+ Công tác quản lý, cảm hoá, giáo dục, giúp đỡ, tạo việc làm cho những người phạm tội được tha tù trở về

Tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị 24-CT/TU của Thành ủy về “đẩy mạnh công tác phối hợp, giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học và thiếu niên hư, vi phạm pháp luật” và tổ chức quán triệt nghiêm túc đến từng cấp uỷ Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể từ quận đến cơ sở; Kế hoạch số 7733/KH-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố về quản lý, giúp đỡ và phòng ngừa nguy cơ thiếu niên vi phạm pháp luật, thiếu niên hư giai đoạn 2009 – 2015 nhằm phân công trách nhiệm cụ thể cho cho các ngành chức năng triển khai thực hiện.

Các đoàn thể chính trị chủ động phối hợp mở hàng trăm lớp giáo dục pháp luật cho các loại đối tượng hình sự, ma túy, đưa đối tượng vi phạm ra kiểm điểm trước dân; hàng năm, các địa phương đều tiến hành rà soát lên danh sách, phân loại các loại đối tượng tù tha, đặc xá và căn cứ vào đặc điểm giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp… để giao chỉ tiêu, số lượng cụ thể cho các ban, ngành, đoàn thể trực tiếp quản lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ nhiều người lầm lỗi tiến bộ, nhiều đối tượng được hỗ trợ tạo việc làm, cho vay vốn làm ăn để tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng đồng không tái phạm.

+ Công tác phối hợp các lực lượng tuần tra phòng chống tội phạm

Với mục đích luôn luôn có lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách đối với công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm trên đường phố, vào mọi thời điểm trong ngày, Công an thành phố đã tham mưu cho UBND thành phố ban hành Quyết định số 6743/QĐ-UBND ngày 07/9/2010 về thành lập lực lượng chống cướp giật và tội phạm khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quyết định 8394/QĐ-UBND ngày 09/11/2015 (thay thế cho Quyết định 7661) về hoạt động phối hợp tuần tra, kiểm soát bảo vệ ANTT ở địa bàn dân cư. Qua triển khai, đã huy động trên 978.000 lượt Công an, dân quân tự vệ, ban bảo vệ dân phố, dân phòng, quân sự, biên phòng tham gia tuần tra phòng chống tội phạm, kịp thời phát hiện, ngăn chặn hàng trăm vụ phạm pháp hình sự và vi phạm pháp luật.

+ Công tác củng cố, tăng cường và nâng cao năng lực các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm

Nhằm nâng cao hơn nữa công tác quản lý địa bàn, không để các loại đối tượng lợi dụng những hạn chế trong công tác quản lý nhân hộ khẩu, quản lý lưu trú để ẩn nấu, thực hiện hành vi phạm tội, chính quyền nhân dân quận đã:

Triển khai thực hiện Chỉ thị 21-CT/TU về “tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng hoạt động của tổ dân phố, thôn trên địa bàn thành phố” và Quyết định 51/2012/QĐ-UBND ban hành “Quy chế về tổ chức và hoạt động của tổ dân phố, thôn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, qua đó thành lập các tổ dân phố, thôn với quy mô mỗi tổ dân phố, thôn chỉ từ 20 đến 40 hộ dân, đồng thời qui định tổ dân phố, thôn phải thực hiện tốt 04 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhấn mạnh vào 02 nhiệm vụ “quản lý cư trú chặt chẽ” và “giữ vững an ninh trật tự, phòng chống tội phạm”.

Thường xuyên kiểm danh, kiểm diện, kiểm tra thử test số người trong diện quản lý sau cai, số đối tượng ma túy đang quản lý trên từng địa bàn; khảo sát, xác định các điểm, tụ điểm nghi vấn tổ chức sử dụng ma túy để có biện pháp triệt xóa, đồng thời, mở nhiều đợt ra quân kiểm tra, xử lý người nghiện, người sử dụng trái phép ma túy, qua triển khai nhiều đợt ra quân tổng kiểm tra, xử lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo Kế hoạch của Công an quận.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN/NGYEN THANH QUANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *