Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đại hội VI năm 1986 của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Đảng ta đã xác định lại vị trí và vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung, trong đó xác định cần phải xây dựng thành công nông thôn mới là một trong những yếu tố có tính quyết định đối với việc ổn định kinh tế xã hội của đất nước.Với khoảng 70% dân số sống trên địa bàn, nông thôn nước ta luôn chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình lịch sử hình thành quốc gia dân tộc và trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Qua các giai đoạn cách mạng, nông dân luôn là lực lượng hùng hậu, trung thành nhất đi theo Đảng, góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Là địa bàn chiến lược, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trực tiếp và toàn diện nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn với quan điểm: cần có bước phát triển mới về Nông nghiệp nông dân nông thôn, trong đó chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn; xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại hóa, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng KT-XH hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, xã hội NT ổn định; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí thức thành nền tảng bền vững, bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN [3]. XD NTM chính là giải pháp quan trọng thiết thực nhằm cụ thể hóa mục tiêu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, BCH TW khóa X đã đề ra, tạo động lực quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông thôn.

Nông thôn mới có thể khái quát theo 5 nội dung cơ bản là: làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, nông thôn ngày càng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lýdân chủ. Trên cơ sở các nội dung của Nghị quyết 26-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Quyết định 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010 về Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2010 – 2020, nêu rõ 19 tiêu chí và 7 nhóm giải pháp. Có thể nói, đây là một chương trình trọng tâm, xuyên suốt của Nghị quyết 26-NQ/TW, là chương trình khung, tổng thể phát triển nông thôn với 11 nội dung lớn, tổng hợp của 16 chương trình mục tiêu quốc gia và 14 chương trình hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai ở địa bàn nông thôn trên phạm vi cả nước. Chính vì vậy thực hiện thành công chương trình xây dựng nông thôn mới sẽ không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho cư dân nông thôn mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị, xã hội chung trong cả nước [3].

Phước Sơn là một trong những huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, dân số vào khoảng 26.500 người, bao gồm 16 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn 11 xã và 01 thị trấn, trong đó người Bh´nong chiếm 62%, người Kinh 31,5%, còn lại 6,3% thuộc về các dân tộc thiểu số khác.Qua hơn04 năm triển khai, thực hiện Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020 có những thuận lợi cơ bản: Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới tiếp tục được đầu tư, kết cầu hạ tầng được tập trung xây dựng, hạ tầng giao thông được tăng cường… đặc biệt, Thông tin và truyền thông (TT&TT) là một bộ phận quan trọng của kết cấu kinh tế – xã hội. Phát triển TT&TT là tiền đề quan trọng để nâng cao dân trí, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Thời gian qua, để thực hiện thắng lợi chương trình xây dựng NTM trên địa bàn huyện, Phòng văn hóa – Thông tin huyện Phước Sơn đã tập trung chỉ đạo, triển khai đầy đủ, đồng bộ, tích cực và hướng dẫn các nội dung quy hoạch, kế hoạch; phát động phong trào thi đua; kiểm tra việc thực hiện chương trình nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí của ngành trong xây dựng NTM. Tham mưu cho UBND huyện ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước rộng khắp đến các đơn vị cấp xã, từng bước đáp ứng tốt công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, chuyên môn nghiệp vụ, cải cách hành chính, đảm bảo truyền nhận thông tin đa chiều an toàn và nhanh chóng [34]. UBND các xã, thị trấn đã được triển khai cài đặt phần mềm quản lý văn bản và điều hành phục vụ công tác. Bên cạnh những thành tựu trên thì hoạt động xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT của huyện Phước Sơn cũng như công tác QLNN về vấn đề này còn tồn tại nhiều hạn chế như: hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện các nội dung QLNN về xây dựng NTM nói chung, lĩnh vực TT&TT nói riêng còn thiếu và chưa đầy đủ, các địa phương chủ yếu thực hiện các tiêu chí của Nhà nước quy định mà chưa có sự vận dụng linh hoạt vào địa phương, nguồn nhân lực QLNN các cấp còn hạn chế về năng lực và kỹ năng xử lý công việc trong xây dựng NTM, đặc biệt huyện Phước Sơn là huyện miền núi còn nhiều khó khăn như hiện nay… Hơn nữa, nguồn vốn ngân sách tỉnh hỗ trợ còn hạn hẹp (và không được Trung ương hỗ trợ do tỉnh tự cân đối ngân sách để thực hiện) trong khi nhu cầu đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn mới trên địa bàn huyện là rất cao, khả năng đóng góp của người dân vùng DTTS và miền núi còn hạn chế đã ảnh hưởng nhiều đến tiến độ xây dựng nông thôn mới nói chung cũng như trong lĩnh vực thông tin truyền thông nói riêng. Hơn nữa, trình độ dân trí của người dân tại địa bàn các xã vùng DTTS và miền núi còn thấp, năng lực của cán bộ cơ sở còn hạn chếviệc ứng dụng khoa học – công nghệcòn nhiều hạn chế… Bên cạnh đó, cấp ủy Đảng, chính quyền ở một số địa phương chưa năng động, chưa khai thác và phát huy được sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của tỉnh. Ðây đều là những lực cản không nhỏ trong tiến trình xây dựng nông thôn mới nói chung và trong lĩnh vực thông tin truyền thông trên địa bàn huyện Phước Sơn nói riêng [34].

Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên nên tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực Thông tin – Truyền thông, Luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực này ở huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để hoàn thanh đề tài, đề tài thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

– Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực Thông tin, truyền thông.

– Đánh giá thực trạng QLNN về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, phân tích những kết quả đã đạt được, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế.

– Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện QLNN về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam trong những năm tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các nội dung của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông (Tiêu chí số 8).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về không gian: Hoạt động QLNN về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

– Về thời gian: từ năm 2015 đến 2019

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng, Nhà nước, của các Bộ, ngành về xây dựng nông thôn mới; những chủ trương, biện pháp nhằm xâydựng nông thôn mới của Huyện ủy, HĐND và UBND huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chú trọng phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, quy nạp, luật học…Cụ thể:

– Phương pháp thống kê: Thu thập các tài liệu, số liệu đã có tại các cơ quan trong huyện và các xã trên địa bàn huyện; Chi cục thống kê huyện; Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện Phước Sơn, từ đó phân tích và rút ra những kết quả đánh giá khách quan, dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tiếp theo. Sử dụng các tài liệu, số liệu từ các ấn phẩm và các websites chuyên ngành.

– Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin công bố chính thức của các cơ quan nhà nước, các nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức về xây dựng nông thôn mới; những thông tin về tình hình cơ bản của huyện, về xây dựng nông thôn mới do các cơ quan chức năng của huyện cung cấp.

Thu thập tài liệu dựa trên cơ sở điều tra các xã trên địa bàn huyện theo bảng biểu ứng với các tiêu chí nông thôn mới.

– Phương pháp luật học: Đề tài nghiên cứu, tìm đọc các văn bản luật, văn bản dưới luật… để xác định khung nghiên cứu đề tài phù hợp với chuyên ngành nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung QLNN, các yếu tố ảnh hưởng QLNN đối với xây dựng NTM trong lĩnh vực thông tin, truyền thông trong bối cảnh hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn chỉ ra mặt được, mặt chưa được và nguyên nhân yếu kém.Đồng thời, đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động QLNN về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn là một trong những nguồn tài liệu tham khảo cho những người thực hiện QLNN liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân, xây dựng NTM và những ai quan tâm đến vấn đề này.

7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn bao gồm: phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu và được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông;

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam;

Chương 3: Phướng hướng và giải pháp quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRONG LĨNH VỰC THÔNG TIN

VÀ TRUYỀN THÔNG

    1. 1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Quản lý nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

1.1.1.1. Khái niệm về thông tin và truyền thông

Thông tin và truyền thông (TT&TT) là một bộ phận quan trọng của kết cấu kinh tế – xã hội. Phát triển TT&TT là tiền đề quan trọng để nâng cao dân trí, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thực hiện đường lối đổi mới, chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Đảng và Nhà nước, thời gian qua, lĩnh vực thông tin và truyền thông đã tích cực, chủ động hội nhập, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tái cơ cấu kinh tế thị trường dịch vụ, doanh nghiệp. Đến nay ngành Thông tin và truyền thông tiếp tục giữ vững là ngành có tốc độ phát triển nhanh, bền vững, có tỷ trọng đóng góp vào GDP ngày càng cao; giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Trong từng lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin, báo chí, phát thanh truyền, xuất bản, toàn ngành Thông tin và Truyền thông đang tiếp tục có những bước phát triển mới, khẳng định vị trí, vai trò trên các mặt chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội.

Đối với lĩnh vực bưu chính: Kết cấu hạ tầng mạng lưới bưu chính công cộng tại các địa phương nhằm bảo đảm cung cấp các dịch vụ bưu chính. Bản chất của hoạt động bưu chính gồm các hoạt động đầu tư, kinh doanh, cung ứng, sử dụng dịch vụ bưu chính, dịch vụ bưu chính công ích, tem bưu chính. Dịch vụ bưu chính là dịch vụ chấp nhận, vận chuyển và phát bưu gửi bằng các phương thức từ địa điểm của người gửi đến địa điểm của người nhận qua mạng bưu chính, trừ phương thức điện tử. Dịch vụ bưu chính công ích là dịch vụ bưu chính được cung ứng theo yêu cầu của Nhà nước, gồm dịch vụ bưu chính phổ cập, dịch vụ bưu chính phục vụ quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ đặc thù khác.Dịch vụ bưu chính phổ cập là dịch vụ bưu chính được cung ứng thường xuyên đến người dân theo các điều kiện về khối lượng, chất lượng và giá cước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định [19, tr.15].

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam

Lĩnh vực viễn thông:Viễn thông là một hạ tầng cơ sở quan trọng của nền kinh tế, là công cụ đắc lực cho việc quản lí, điều hành đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần nâng cao đời sống văn hóa xã hội của nhân dân và đồng thời là ngành kinh doanh dịch vụ có lãi. Dịch vụ Viễn thông không chỉ đơn thuần là điện thoại, telex mà còn nhiều loại hình từ đơn giản đến phức tạp, là các dịch vụ âm thanh, hình ảnh, truyền số liệu… Phát triển mạng lưới viễn thông không phải chỉ với tư cách là một ngành khai thác dịch vụ mà thực sự là một trong những hạ tầng cơ sở quan trọng nhất của nền kinh tế và nó đặt ra những yêu cầu về chọn lựa công nghệ, vốn và hiệu quả đầu tư, nhất là ở các nước đang phát triển bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng. Với mỗi quốc gia, yếu tố quyết định đến chính sách và phương hướng phát triển của ngành dịch vụ Viễn thông là nền tảng kinh tế quốc dân và xã hội. Dịch vụ viễn thông là dịch vụ cung cấp cho khách hàng khả năng trao đổi thông tin với nhau hoặc thu nhận thông tin qua mạng viễn thông (thường là mạng công cộng như mạng điện thoại chuyển mạch công cộng, mạng điện thoại di động, mạng internet, mạng truyền hình cáp…) của các nhà cung cấp dịch vụ và cung cấp hạ tầng mạng [19, tr.16].

Lĩnh vực phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin: Việt Nam đã hội tụ đủ khả năng phát triển, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Ứng dụng công nghệ thông tin là việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế – xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này [20, tr.17].

1.1.1.2. Khái niệm về xây dựng nông thôn mới

Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế – xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng trên địa bàn nông thôn. Trong đó, có vai trò đóng góp quan trọng của ngành Thông tin và Truyền thông góp phần cùng toàn tỉnh “chung sức xây dựng nông thôn mới”.

Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, nhiều thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế: nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, cấp nước… còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị còn lớn làm phát sinh nhiều vến đề xã hội bức xúc.

Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và là một cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp. Đồng thời, phát triển sản xuất toàn diện về nông – công nghiệp và dịch vụ. Người dân có nếp sống văn hóa, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo, thu nhập và đời sống vật chất – tinh thần của người dân được nâng cao.

Trong điều kiện hiện nay của nước ta, xây dựng NTM là cuộc vận động lớn, một quyết tâm chính trị nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm tạo dựng một nông thôn Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân. Chương trình xây dựng NTM có những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, giải pháp, phương thức tổ chức thực hiện hết sức cụ thể [24].

Trên cơ sở khái niệm xây dựng NTM, đề tài luận văn đưa ra khái niệm xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT là cuộc vận động của cả hệ thống chính trị nhằm tạo dựng một hệ thống TT&TTvới điểm phục vụ bưu chính; dịch vụ viễn thông, internet; đài truyền thanh và hệ thống loa đến các thôn; hệ thống CNTT trong công tác quản lý, điều hành được triển khai đồng bộ nhằm tạo ra động lực tổng thể trong xây dựng NTM.

1.1.1.3. Quản lý nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT là một bộ phận của QLNN đối với các lĩnh vực nói chung trong nền kinh tế – xã hội. Vì vậy, để hiểu về khái niệm QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT, tác giả cho rằng trước hết cần tìm hiểu về khái niệm QLNN và QLNN về nông thôn mới.

Quản lý nhà nước: “QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện thông qua hệ thống công cụ luật pháp và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức nhằm duy trì sự ổn định và phát triển ổn định toàn xã hội” [21, tr.11].

Quản lý nhà nước về nông thôn: “QLNN về nông thôn là sự tác động có tổ chức và điều hành bằng quyền lực Nhà nước thông qua một bộ máy quản lý tác động lên các quá trình, các hoạt động kinh – tế xã hội ở nông thôn nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội nông thôn đã đề ra” [21, tr.13].

Quản lý nhà nước về xây dựng NTM: là một trong những bộ phận của QLNN. Quản lý nhà nước về xây dựng NTM là tập hợp tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước tác động vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân, vào các hoạt động thực hiện mục tiêu, nội dung xây dựng NTM… nhằm hướng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế và đảm bảo cho cuộc sống của người dân ngày càng tốt đẹp hơn. Hay nói cách khác QLNN đối với xây dựng NTM là việc cơ quan QLNN sử dụng công cụ (luật pháp), bộ máy của mình để tác động đến quá trình triển khai, thực hiện mục tiêu, nội dung của Chương trinh xây dựng NTM nhằm đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân ở khu vực nông thôn, góp phần hạn chế và giảm bớt khoảng cách giữa đô thị và nông thôn ở nước ta; từ đó tạo ra sự ổn định và cần thiết cho phát triển đất nước.

Mặt khác, theo tiêu chí số 8 về thông tin và truyền thông trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng chính phủ), xã được công nhận đạt tiêu chí về TT&TT phải đáp ứng các điều kiện: Có điểm phục vụ bưu chính, dịch vụ viễn thông Internet, đài truyền thanh và hệ thống loa đến các thôn, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong công tác quản lý, điều hành.

Trên cơ sở các khái niệm trên, đề tài luận văn đề xuất khái niệm QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT là việc cơ quan QLNN sử dụng công cụ (luật pháp), bộ máy của mình để tác động đến quá trình triển khai, thực hiện mục tiêu, nội dung của Chương trình xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT nhằm đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân ở khu vực nông thôn nói chung và phát triển lĩnh vực TT&TT khu vực nông thôn, góp phần hạn chế và giảm bớt khoảng cách giữa đô thị và nông thôn ở nước ta trong lĩnh TT&TT, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của khu vực nông thôn.

1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Một là, QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT nhằm thực hiện chức năng quản lý đối với ngành, lĩnh vực của Nhà nước.Xây dựng NTM nói chung và xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT là chủ trương có tầm chiến lược trong sự nghiệp CNH – HĐH xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và góp phần nâng cao đời sống và thay đổi bộ mặt của nông thôn. Nhà nước, với chức năng quản lý của mình khắc phục những hạn chế của việc điều tiết thị trường trong hoạt động xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT, bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội nói chung và lĩnh vực TT&TT nói riêng.

Hai là, xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT là công việc mới, thí điểm phải đi trước một bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nên hoạt động QLNN xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT của các cấp chính quyền cũng mang tính chất linh hoạt, phù hợp với từng địa bàn, lĩnh vực trên cơ sở Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM.

Ba là, chủ thể thực hiện QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT rất đa dạng và mang tính phối hợp rất cao, về bản chất Nhà nước giao UBND các cấp thực hiện nhiệm vụ QLNN đối với vấn đề này, đơn vị đầu môi triển khai ở cấp huyện là Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện và tùy vào lĩnh vực mà các đơn vị chuyên môn phối hợp triển khai để đem lại hiệu quả cao nhất. Trong lĩnh vực TT&TT Nhà nước giao Bộ TT&TT, Sở TT&TT và Phòng Văn hóa – Thông tin huyện thực hiện chức năng QLNN, nên để hoạt QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT đạt được hiệu quả cao nhất, thì Phòng Văn hóa – Thông tin phải phối hợp chặt chẽ với Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM huyện triển khai các nội dung của tiêu chí TT&TT.

1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là một chương trình tổng thể của cả hệ thống chính trị bao gồm mọi mặt công tác của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong đó, Nhà nước phải đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện và kích thích tinh thần nhân dân thực hiện; nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch định chính sách trong việc thực hiện các tiêu chí về xây dựng NTM. Việc triển khai xây dựng NTM mới là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đóng vai trò nòng cốt, có tính chất quyết định. Vì vậy, nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của UBND các cấp, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ là nhiệm vụ trọng tâm và quyết định sự thành bạ của xây dựng Nông Thôn mới.

Một là, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Xây dựng nông thôn mới là chủ trương có tầm chiến lược trong sự nghiệp CNH – HĐH xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và góp phần nâng cao đời sống và thay đổi bộ mặt của nông thôn. Bên cạnh đó, lĩnh vực thông tin và truyền thông tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò là ngành đa lĩnh vực, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, góp phần đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và giúp khu vực nông thôn thu hẹp với khu vực thành thị trong lĩnh vực thông tin và truyền thông.Công tác QLNN về xay dựng nông thôn mới trong lĩnh vực TT&TT là hoạt động đòi hỏi sự tham gia của người dân với vai trò là chủ thể chính bên cạnh sự hỗ trợ của chính quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo tính thống nhất từ mục tiêu đến cách thức thực hiện trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, về lý luận và thực tiễn, Nhà nước có vai trò không thể thiếu đối với hoạt động xây dựng nông thôn mới nói chung và trong lĩnh vực TT&TT nói riêng. Nhà nước, với chức năng quản lý của mình khắc phục những hạn chế của việc điều tiết thị trường trong hoạt động xây dựng nông thôn mới, bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội; giải quyết những mâu thuẫn lợi ích kinh tế – xã hội phổ biến, thường xuyên và cơ bản trong xây dựng nông thôn mới như: mâu thuẫn giữa nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà nông; mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế và những giá trị xã hội bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tế của mình.

Mặt khác, xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực TT&TT là công việc mới, thí điểm phải đi trước một bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nên vai trò QLNN của nhà nước rất quan trọng nhằm đảm bảo vấn đề hạ tầng thông tin và truyền thông, nông thôn được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước.

Hai là, xuất phát từ thực tế quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực TT&TT và những hạn chế của hoạt động xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực TT&TT hiện nay.

Trong quá trình thực hiện nhiều Nghị quyết của Đảng đã bàn tới vấn đề này, qua đó góp phần bổ sung hoàn thiện hơn quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên, xây dựng nông thôn mới là công việc đòi hỏi thường xuyên, diễn ra trong thời kỳ dài và có nhiều người tham gia, nên muốn có kết quả tốt phải có sự đồng thuận của nhân dân và tham gia quản lý có hiệu quả của của Nhà nước. Qua những năm triển khai xây dựng nông thôn mới ở các xã điểm có thể nói những nhân tố nông thôn mới của các xã ven đô thị đã hình thành và phát huy tác dụng; Cơ sở hạ tầng phát triển đáp ứng được nhu cầu sản xuất và dân sinh; Sản xuất phát triển góp phần đưa thu nhập hộ tăng cao, bền vững;

Bên cạnh những kết quả đạt được, nhiều mô hình xây dựng nông thôn mới có nhiều biểu hiện lệch lạc: Xây dựng NTM có tính phong trào, chạy theo thành tích, chưa coi trọng vai trò chủ thể của người dân, Nhiều địa phương chỉ tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng, không chú trọng chuyển đổi, tổ chức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Thậm chí có nơi vay vốn, đầu tư hạ tầng trước dẫn đến công nợ vượt khả năng chi trả, vi phạm pháp luật và tạo dư luận xấu trong nhân dân… Từ thực tiễn ấy, việc tăng cường vai trò của nhà nước trong quản lý thực hiện xây dựng nông thôn mới là cần thiết.

    1. 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

1.2.1. Xây dựng và ban hành các văn bản quản lý nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT nhằm điều hành và quản lý hoạt động xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT một cách thống nhất. Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành TW Đảng khoá IX về đẩy nhanh CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 16 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM giai đoạn 2016 – 2020; các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư và Quyết định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chính quyền địa phương ra các quyết định nhằm điều chỉnh các hoạt động xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT tại địa phương, xác định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân xây dựng NTM.

Việc xây dựng đồng bộ và ban hành hệ thống thể chế tạo môi trường pháp lý cho quá trình xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT. Tổ chức, quản lý các hoạt động phát triển hạ tầng TT&TT thực hiện các hoạt động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy quá trình phát triển nông thôn. Huy động và quản lý các nguồn vốn xây dựng NTM. Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức trong quátrình xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT.Nhà nước ban hành và thực hiện các chính sách khoa học, công nghệ và tổ chức chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, chỉ đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân và phát triển nông thôn.Nhà nước đầu tư áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo cơ cấu thích hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội.Quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để thực hiện xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT như quản lý vốn nhà nước, vốn đóng góp của nhân dân.

1.2.2. Tổ chức bộ máy và các hoạt động quản lý nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

1.2.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mớitrong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước là một trong các yếu tố giúp nhà nước quản lý hoạt động xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT một cách thống nhất, có tổ chức chặt chẽ, mang tính khoa học, nhất quán. Nhà nước ta quy định rất rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan chuyên môn theo cấp hành chính để phối hợp thực hiện xây dựng NTM. Hệ thống các cơ quan, tổ chức được xây dựng và kiện toàn từ TW tới địa phương sẽ vận hành theo định hướng của Đảng và Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để triển khai các nội dung quản lý. Theo đó mỗi địa phương thành lập Ban chỉ đạo xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT, Văn phòng điều phối, Ban quản lý, Ban Giám sát để tuyên truyền, quản lý, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện chương trình.

Ngày 01/7/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1013/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, giai đoạn 2010 – 2020, trên cơ sở đó Ban Chỉ đạo TW tiếp tục xây dựng và ban hành kế hoạch triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, giai đoạn 2010 – 2020, trong đó nêu rõ việc thành lập BCĐ – cơ quan tham mưu giúp việc trong quản lý nhà nước về xây dựng NTM ở các cấp như sau [31]:

Trung ương: Theo Quyết định số 1013/QĐ-TTg, BCĐ TW Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 gồm 24 thành viên; Ban hành Quy chế hoạt động, phân công trách nhiệm cụ thể đối với các thành viên của BCĐ TW;Thành lập Thường trực BCĐ TW, gồm Trưởng ban, phó Trưởng ban và 3 ủy viên là lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính và Xây dựng;Thành lập Văn phòng điều phối Chương trình giúp Ban Chỉ đạo Trung ương đặt tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định) [31].

Cấp tỉnh:BCĐ của tỉnh do Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban. Phó Ban thường trực là Phó Chủ tịch UBND tỉnh và 01 Phó ban là Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các thành viên BCĐ có thành phần tương tự BCĐ TW. Thường trực BCĐ cấp tỉnh là Trưởng ban, các phó trưởng ban và 3 ủy viên là đại diện lãnh đạo các Sở: Xây dựng, Kế hoạch – Đầu tư, Tài chính;Thành lập Văn phòng điều phối Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM đặt tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, giúp BCĐ tỉnh thực hiện Chương trình trên địa bàn.

Cấp huyện, thị xã (gọi chung là huyện):BCĐ của huyện do Chủ tịch UBND dân huyện làm Trưởng ban; Phó Chủ tịch UBND là Phó Trưởng ban. Thành viên gồm lãnh đạo các phòng, ban có liên quan của địa phương;Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc Phòng Kinh tế) là cơ quan thường trực điều phối, giúp BCĐ huyện thực hiện Chương trình trên địa bàn.

Cấp xã: thành lập Ban Quản lý XD NTM xã do Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban; Phó Chủ tịch UBND xã là Phó Trưởng ban. Thành viên là một số đạidiện cơ quan chuyên môn và đại diện một số Ban, ngành, đoàn thể chính trị xã.

Đối với lĩnh vực TT&TT, UBND huyện thực hiện chức năng QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT giao Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì, phòng Văn hóa – Thông tin phối hợp triển khai. UBND cấp huyện, các đơn vị chuyên môn thực hiện xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn triển khai QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT trên cơ sở các Nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hình thành bộ máy triển khai thực hiện việc QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT thông qua những phân công công việc cụ thể cho từng đơn vị chức năng các cấp. Bộ máy này sẽ triển khai các nội dung như tuyên truyền, phổ biến các quy định, tiêu chí về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT, tổ chức thực hiện các tiêu chí về TT&TT và cuối cùng là thanh tra, kiểm tra thực hiện hiện QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT nhằm rà soát những hạn chế trong triển khai thực hiện [31].

Đi đôi với thành lập bộ máy giúp việc, cần tổ chức, quản lý hoạt động đàotạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc ở NT, đặc biệt là cán bộ chuyên trách về NTM. Kinh nghiệm thành công trong XD NTM chỉ ra rằng, một tập thể lãnh đạo có năng lực, có trách nhiệm chính là điều kiện quan trọng quyết định thành công. Chính vì vậy, công tác đào tạo cán bộ cơ sở được coi trọng, bởi đây là lực lượng trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về XD NTM. Sự năng động và tinh thần trách nhiệm của họ đã dẫn dắt vàkhơi dậy tính sáng tạo của nông dân. Nhiều năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước đã xây dựng và triển khai thực hiện nhiều Đề án về tuyển chọn, sử dụng và có những chế độ đãi ngộ để thu hút những người có đủ năng lực, trí tuệ và phẩm chất tham gia XD NTM [31].

1.2.2.2. Các hoạt động xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

(1) Công tác tổ chức tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh về các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, của tỉnh về xây dựng nông thôn mới. Các tiêu chí, đặc biệt là cách thức triển khai xây dựng nông thôn mới được coi là nội dung chính trong công tác tuyên truyền. Các nội dung tuyên truyền trên được triển khai với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Đưa nội dung tuyên truyền xây dựng nông thôn mới vào các hướng dẫn tuyên truyền theo tháng, quý; tổ chức các hội nghị báo cáo viên cấp tỉnh để cung cấp thông tin về các quan điểm chỉ đạo, kết quả triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

(2)Quản lý về các tiêu chí về thông tin và truyền thông trong xây dựng nông thôn mới

Muốn quản lý thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT chúng ta phải nắm được các tiêu chí quy định và thực hiện các hoạt động đánh giá nhằm nhận định, xác nhận giá trị thực trạng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng hiệu quả công việc; xem xét trình độ phát triển cùng những kinh nghiệm và bài học được hình thành ở thời điểm hiện tại đang xét so với mục tiêu hay những chuẩn mực đã được xác lập trong lĩnh vực TT&TT, cụ thể là tiêu chí 8. Đó là một quá trình thu thập, xử lý thông tin để lượng định tình hình và kết quả công việc giúp quá trình lập kế hoạch, quyết định và hành động có kết quả.

Đối với lĩnh vực TT&TT trong xây dựng NTM, thì một xã, thị trấn đạt tiêu chí nông thôn mới về TT&TT giai đoạn 2016-2020 là đáp ứng 04 điều kiện: Có điểm phục vụ bưu chính; có dịch vụ viễn thông, internet; có đài truyền thanh và hệ thống loa đến các thôn; có ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, điều hành [33]

Về điều kiện đạt đối với xã có điểm phục vụ bưu chính là: Có mặt bằng, trang thiết bị phù hợp với hình thức tổ chức cung ứng và nhu cầu sử dụng dịch vụ bưu chính tại địa phương; có treo biển tên điểm phục phục vụ; niêm yết giờ mở cửa phục vụ và các thông tin về dịch vụ bưu chính cung ứng tại các điểm phục vụ; thời gian mở cửa phục vụ phải đảm bảo tối thiểu 4 giờ/ngày làm việc; đảm bảo cung cấp các dịch vụ: dịch vụ thư có địa chỉ nhận, khối lượng đơn chiếc đến 02 kg, dịch vụ gói, kiện hàng hóa có khối lượng đơn chiếc đến 05 kg [33].

Về điều kiện đạt đối với xã có điểm dịch vụ viễn thông, internet là: Tất các các thôn, bản trên địa bàn xã có khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng ít nhất một trong hai loại dịch vụ điện thoại: trên mạng viễn thông cố định mặt đất hoặc trên mạng viễn thông di động mặt đất và ít nhất một trong hai loại dịch vụ truy cập internet băng rộng cố định mặt đất hoặc trên mạng viễn thông di động mặt đất (hoặc phải có ít nhất một điểm dịch vụ viễn thông công cộng đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại và dịch vụ truy cập internet); dịch vụ viễn thông, internet trên địa bàn xã phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do cơ quan có thẩm quyền ban hành [33].

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông từ thực tiễn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam

Về điều kiện đạt đối với xã có đài truyền thanh và hệ thống loa đến các thôn là: Có đài truyền thanh hữu tuyến hoặc vô tuyến được thiết lập, đáp ứng các quy định về thiết bị truyền thanh, phát xạ vô tuyến điện, tương thích điện từ và sử dụng tần số vô tuyến điện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền ban hành; ít nhất 2/3 số thôn, bản trong xã có hệ thống loa hoạt động [33].

Về điều kiện đạt đối với xã có ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, điều hành: Xã có máy vi tính phục vụ công tác của cán bộ, công chức với hệ số máy vi tính/số cán bộ, công chức của xã đạt tối thiểu là 0,3; Cơ quan Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã có máy vi tính kết nối mạng internet băng rộng; Xã có sử dụng ít nhất một trong các phần mềm ứng dụng: Hệ thống quản lý văn bản và điều hành; Hệ thống thư điện tử chính thức của cơ quan Nhà nước; Hệ thống một của điện tử; Cổng/trang thông tin điện tử có chức năng phục vụ công tác quản lý, điều hành hoặc cung cấp dịch vụ công trực tuyến tối thiểu mức độ 2 [33].

Quản lý thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT bao gồm việc đánh giá các nội dung quản lý cùng những công việc mà nhà nước tiến hành và đánh giá tác động của QLNN đối với xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT. Đối với các công việc nhà nước phải thực thi để xây dựng NTMtrong lĩnh vực TT&TT, chủ yếu dựa vào thực trạng ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật; dựa vào tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ và thực trạng hoạt động kiểm tra, giám sát để đánh giá cụ thể những thành tựu nhà nước đã làm được và hạn chế nhà nước phải khắc phục và chỉ ra nguyên nhân trách nhiệm của chủ thể có liên quan. Nội dung đánh giá này lại dựa chủ yếu vào những chính sách, những biện pháp và những kết quả cụ thể mà qua các công việc quản lý của mình nhà nước đã thực thi đối với xây dựng NTMtrong lĩnh vực TT&TT.

(3) Xây dựng đội ngũ quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mớitrong lĩnh vực TT&TT.

Đội ngũ công chức trong hệ thống hành pháp liên quan đến xây dựngNTM trong lĩnh vực TT&TT. Trong quá trình QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT, yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quản lý là đội ngũ cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức này đóng vai trò quan trọng trong điều hành QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT. Họ là những người thay mặt cho chính quyền để giải quyết các công việc của nhân dân.Đội ngũ cán bộ công chức phải có năng lực cao, có trình độ chuyên môn giỏi mới có thể hoàn thành công việc được giao. Trình độ của cán bộ được đánh giá là tốt khi đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thể hiện qua kết quả về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT. Cán bộ công chức phải được trang bị văn hóa chính trị, văn hóa công sở cao, làm việc khoa học, hiệu quả, vì dân. Người cán bộ, công chức phải có nhận thức: hành động của mình là phục vụ nhân dân.

Đội ngũ cán bộ chuyên môn, cán bộ QLNN – những người trực tiếp điều hành các hoạt động xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT. Đội ngũ này đòi hỏi được cập nhật các kiến thức liên quan đến hoạt động xây dựng NTM và các hiểu biết về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT không chỉ có những tiêu chuẩn chung cũng như là kinh nghiệm quản lý, kiến thức chuyên môn mà cần có những kinh nghiệm thực tế trongquá trình xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT.

Đối với đội ngũ chuyên trách cấp xã: Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn là một trong 5 nội dung cơ bản của Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có cán bộ xã là đối tượng quan trọng góp phần thành công xây dựng NTM nói chung và trong lĩnh vực TT&TT nói riêng.Vì là cấp cơ sở, nên mọi chủ trương, chính sách thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau có đi được vào cuộc sống hay không hầu hết đều qua mắt xích cuối cùng này. Tầm quan trọng đó đòi hỏi người cán bộ ở cơ sở phải có kiến thức và năng lực tương đối tổng hợp. Trình độ, năng lực của họ là một trong những yếu tố quyết định sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và đảm bảo sự ổn định chính trị ở nông thôn [33].

Để nâng cao chất lượng cán bộ công chức các cấp thực hiện QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT cần thực hiện các nội dung sau:

Từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực điều hành, năng động và sáng tạo; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật với đội ngũ QLNN về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực TT&TT.Có chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực QLNN về xây dựng nông thôn mới thông qua chương trình đào tạo mới và đào tạo lại nguồn nhân lực hiện có.Có chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc biệt để thu hút nhân tài tham gia vào đội ngũ QLNN về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực TT&TT.Tổ chức các lớp tập huấn nội dung QLNN về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực TT&TT cho đội ngũ nhân lực phụ trách xây dựng nông thôn mới tại địa phương.Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới có vị trí đặc biệt quan trọng, đóng vai trò thúc đẩy, tạo bước chuyển mạnh mẽ về năng lực, trình độ của đội ngũ này.

(4) Huy động các nguồn lực phục vụ xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực thông tin và truyền thông

Nguồn lực huy động để thực hiện Chương trình được quy định tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 bao gồm: Hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng (bao gồm cả đầu tư phát triển và thương mại), vốn đầu tư của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác, đóng góp của cộng đồng (bao gồm nguồn lực đất đai, công đóng góp và tài trợ của các tổ chức, cá nhân…), cụ thể [30]:

Hỗ trợ từ ngân sách nhà nước:Thực hiện chủ yếu bằng ngân sách phân bổ hằng năm, tuy nhiên không chỉ đơn thuần là kinh phí bố trí từ ngân sách mà có thể thực hiện bằng nhiều cách như: Hoán đổi đất do Nhà nước trực tiếp quản lý (trong xây dựng cơ sở hạ tầng, thay vì bồi thường…), hay đấu giá quyền sử dụng đất nhằm tạo vốn phục vụ xây dựng nông thôn mới. Quy trình thực hiện đảm bảo theo những quy định hiện hành;Mặt khác, huy động từ nguồn ngân sách thông qua việc phát huy sử dụng công năng các cơ sở hiện có do Nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội… đang quản lý để thực hiện các nội dung trong xây dựng nông thôn mới; Nguồn lực của Nhà nước bằng các chính sách khuyến khích nhân dân – cộng đồng tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, sửa chữa nhà cửa… hoặc chọn lựa ưu tiên danh mục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn các xã để tạo điều kiện đẩy mạnh giao thương, phát triển sản xuất hoặc đảm bảo an sinh xã hội [30].

Vốn đầu tư của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác:Trong quá trình QLNN về xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT, vấn đề thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế vào nông nghiệp, nông thôn đang có phần hạn chế, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT. Nhận thấy điều đó trong những năm qua Nhà nước ta đã có những chích sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đầu tư vào NNNT. Tiêu biểu là Nghị định số: 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về “chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”. Theo đó, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư bổ sung của Nhà nước thông qua chính sách về đất đai như miễn, giảm tiền sử dụng đất, miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước; được hỗ trợ thuê đất, mặt nước của hộ gia đình, cá nhân; được miễn, giảm tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngoài ra, còn được hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường mà trong đó hỗ trợ chi phí quảng cáo đến 70%, được hỗ trợ dịch vụ tư vấn, hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ cước phí vận tải. Với chính sách mạnh mẽ nói trên, là cơ sở để kỳ vọng thu hút các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mạnh dạn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Cũng thông qua đó vấn đề thu hút vốn từ các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế để xây dựng NTM trong lĩnh vực TT&TT được giải quyết hiệu quả hơn [30].

Nguồn lực trong dân – cộng đồng:Luôn coi nguồn lực trong dân, cộng đồng là chính, không chỉ là vận động nhân dân – cộng đồng hiến đất xây dựng cơ sở hạ tầng, vận động xây dựng nhà tình thương, tình nghĩa… Mà có thể huy động nguồn lực trong nhân dân – cộng đồng bằng nhiều cách: Vận động nhân dân thực hiện hoán đổi đất đai với nhà nước (trong xây dựng cơ sở hạ tầng…); vận động nhân dân tăng cường đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh: vận động nhân dân khuyến khích đầu tư cho con em học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề…; phát huy sáng kiến, hiến kế của nhân dân trong xây dựng NTM…;

Nói chung, có thể huy động nguồn lực trong nhân dân – cộng đồng bằng nhiều cách. Chú trọng phát động phong trào toàn dân thi đua thực hiện chương trình nông thôn mới. Qua phong trào thi đua, tạo nguồn đối tượng phát triển đảng viên mới; tạo nguồn bổ sung vào đội ngũ cán bộ xã; nhân dân tích cực tham gia bàn bạc, thực hiện những nội dung trong xây dựng nông thôn mới.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN/nguyen quoc ky

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *