Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân

Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân

Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước có quan hệ, gắn bó chặt chẽ với các quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất. Quyền tư pháp có một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và coi đó là chiến lược cải cách tư pháp với mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [6, tr.2].

Ở Việt Nam, Tòa án được xác định là trụ cột, có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Cải cách, nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án, trong đó trọng tâm là hoạt động xét xử, là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp, có tính cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử các VAHS sơ thẩm nói riêng của Tòa án thực chất là hoạt động ADPL tố tụng hình sự. Đây là một hoạt động đặc biệt và rất quan trọng, bởi vì hoạt động này nhân danh quyền lực Nhà nước của cơ quan Tòa án, thông qua HĐXX là những người được Nhà nước trao quyền tuân thủ chặt chẽ và đầy đủ những quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục để xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Từ đó áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và luật hình sự để ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo phạm tội hoặc không phạm tội.

Công tác xét xử tại phiên tòa nói chung và tại PTSTVAHS của TAND nói riêng, đóng vai trò rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật ở Việt Nam; PSSTVAHS là hoạt động thể hiện sự trừng trị nghiêm khắc những người có hành vi vi phạm pháp luật; Bảo vệ và khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NN và công dân, bảo vệ danh dự, nhân phẩm, tính mạng của con người theo quy định của PL, giữ gìn trật tự trị an và an toàn xã hội, giữ gìn kỷ cương phép nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, PTSTVAHS có vai trò trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng; Ngoài ra, PTSTVAHS còn thể hiện vai trò trong việc phổ biến và tuyên truyền giáo dục PL cho nhân dân.

Việc tổ chức PTSTVAHS của Tòa án hai cấp thành phố Đà Nẵng nói chung và PTSTVAHS tại TAND quận Liên Chiểu nói riêng, trong những năm vừa qua (2015-2019) đã có nhiều tiến bộ và đạt được kết quả khả quan, qua đó góp phần quan trọng bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn. Tuyên truyền, giáo dục người dân nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và phòng chống vi phạm, tội phạm. Tuy nhiên, hoạt động ADPL hình sự và tố tụng hình sự tại PTSTVAHS của TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót trong quá trình giải quyết dẫn đến một số VAHS sơ thẩm bị Tòa án cấp trên sửa một phần bản án hoặc hủy toàn bộ để điều tra, truy tố, xét xử lại. Nguyên nhân khách quan của những hạn chế, thiếu sót đó là do hệ thống pháp luật của nước ta còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, các văn bản PL liên quan có nhiều thay đổi, bổ sung mà việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cấp có thẩm quyền còn chậm. Ngoài ra, còn có nguyên nhân chủ quan từ TP, HTND như năng lực chuyên môn còn hạn chế, khả năng đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ nên đã có những phán quyết không chính xác. Trước tình hình đó, đặt ra yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động xét xử tại Phiên tòa sơ thẩm hình sự của hệ thống Tòa án nói chung và của TAND quận Liên Chiểu nói riêng.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵnglàm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích lý luận áp dụng quy định của pháp luật tố tụng và đánh giá thực tiễn PTSTVAHS tại TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, luận văn nêu lên quan điểm và các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng pháp luật về trình tự và thủ tục tố tụng trong hoạt động xét xử tại PTSTVAHS của hệ thống Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Phân tích khái niệm, đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện;

– Phân tích thực trạng PTSTVAHS của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng trong thời gian vừa qua (Từ năm 2015 đến năm 2019). Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế khi áp dụng pháp luật về trình tự và thủ tục trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng;

– Nêu lên các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu quy định của pháp luật và việc ADPL quy định về trình tự và thủ tục tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự nói và phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng nói riêng từ năm 2015 đến năm 2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về không gian: Nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật quy định về trình tự và thủ tục tố tụng trong xét xử tại PTSTVAHS của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

– Về thời gian: Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của ĐCS Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; các quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tư pháp, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị; Hội nghị, hội thảo về “Chiến lược cải cách tư pháp trong ngành Tòa án nhân dân định hướng đến năm 2030” do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức ngày 20/6/2019 tại Hà Nội.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin với những phương pháp như: Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học về luật hình sự, TTHS và luận chứng các vấn đề tương ứng để nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài góp phần trong việc làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong hoạt động xét xử các VAHS nói chung và tại PTSTVAHS của TAND cấp quận, huyện hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

­Đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết, vận dụng pháp luật hình sự và TTHS của cán bộ tư pháp nói chung và của TP nói riêng trong thực tiễn xét xử phiên tòa sơ thẩm hình sự tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu. Ngoài ra luận văn cũng được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu nói chung và giảng dạy nói riêng. Ngành Tòa án và đặc biệt TAND cấp quận, huyện có thể khai thác kết quả nghiên cứu để áp dụng pháp luật quy định về trình tự và thủ tục tố tụng trong hoạt động XXVAHS.

7. Cơ cấu của luận văn

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

Chương 2: Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

    1. 1.1. Những vấn đề lý luận về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.1.1. Khái niệm phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Như đã biết xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực của nhà nước do TAND hực hiện, nhằm để giải quyết các VAHS, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động…; Còn xét xử VAHS là một hoạt động tố tụng hình sự được phát sinh khi có cáo buộc từ cáo trạng của VKSND, nó được thực hiện rõ bởi chức năng của TAND trên cơ sở tranh tụng một cách bình đẳng, dân chủ nhằm xem xét và giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản án, quyết định bị cáo có tội hay vô tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp theo quy định của pháp luật. Chỉ có TAND mới là cơ quan nhà nước duy nhất được NN trao cho quyền được xét xử. Do đó bản án, quyết định của TAND được thực hiện bởi sức mạnh của NN. Và để bảo đảm sức mạnh của nhà nước thì phải thực hiện bằng PL. Do vậy mà PL TTHS đã ra đời với những nội dung quy định về trình tự thủ tục của hoạt động xét xử, trong đó việc xét xử phải diễn ra công khai và trong một trình tự về không gian, thời gian nhất định, đó gọi là “Phiên tòa”.

Trong khi xét xử thì TP và HTND sẽ là người sẽ đưa ra quyết định bị cáo có tội hay vô tội, tội phạm gì, mức lượng hình và hình phạt nào. Như vậy xét trong mối quan hệ với chức năng buộc tội và chức năng bào chữa chức năng thì chức năng xét xử được coi là chức năng trung tâm của pháp luật hình sự và có ý nghĩa quyết, PTSTVAHS là phiên xét xử lần đầu một VAHS theo thẩm quyền của từng cấp tòa án. Sau khi có bản án, quyết định sơ thẩm của TAND thì các chủ thể mới được thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Khi đó, vụ án sẽ được xét xử phúc thẩm. Như vậy khi PTSTVAHS kết thúc, cũng có nghĩa là kết thúc một VAHS, điều đó được thể hiện thông qua việc mọi chứng cứ của VAHS do CQĐT thu thập đều được xem xét công khai tại phiên tòa, người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận những điều mà tại CQĐT chưa thực hiện được. Có thể nói, phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS được xem là trung tâm của quyền tư pháp và PTSTVAHS là công việc yêu cầu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên … cần tập trung trí tuệ, nhanh chóng xử lý các tình huống phát sinh nếu có; phải đưa ra và vận dụng nội dung của các quy định pháp luật một cách chính xác đúng luật. Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình cũng là nới để biết được trình độ, năneg lực chuyên môn của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng. Cho nên PTSTVAHS cũng chính là nới tuyên truyền pháp luật để giúp người dân hiểu biết thêm về các quy định và chính sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta.

Tại PTSTVAHS, Hội đồng xét xử điều khiển phiên tòa, thực hiện việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, làm trọng tài phân xử đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án. Do đó việc XXST VAHS được TAND thực hiện tại PTSTVAHS, XXST VAHS được tính từ khi TAND tiếp nhận VAHS đến khi đưa VAHS ra xét xử. Tại phiên tòa TAND phải kiểm tra tất cả tài liệu chứng cứ do CQĐT và VKS thu thập có trong hồ sơ vụ án để căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và LHS để đưa ra phán quyết (quyết định) xem bị cáo có tội hay không có tội hoặc cũng có thể là THSĐBS.

Từ những phân tích trên thì có thể rút ra chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử với tính chất xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ các vấn đề của vụ án, bao gồm và thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời điểm Tòa án nhận hồ sơ, thụ lý vụ án cho đến khi HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa mà mục đích cuối cùng là giải quyết triệt để một vụ án.

Theo quy định tại Điều 27 BLTTHS 2015 thì “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử[25] bao gồm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm hình sự, trong đó xét xử sơ thẩm là trọng tâm và có tính bắt buộc của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tòa án có thẩm quyền mở PTSTVAHS là TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện và các Tòa án khác theo luật định.

Tuy nhiên, với nội dung đề tài nghiên cứu khoa học của luận văn là: PTSTVAHS từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, theo học viên thì khái niệm PTSTVAHS là như sau: “PTSTVAHS là một khâu trong tố tụng hình sự, là hoạt động do Tòa án nhân dân địa phương (Cấp tỉnh hoặc cấp huyện) tiến hành công khai ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở tranh tụng, nhân danh nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, HĐXX ra bản án, quyết định giải quyết toàn diện vụ án hình sự”.

Khi mở PTSTVAHS thì Tòa án mà cụ thể là HĐXX sẽ phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về PTSTVAHS, gồm: Quy định về nội quy phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa; Quy định về sự có mặt của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; Quy định về hoãn phiên tòa; Quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; Quy định về nghị án và tuyên án. Các quy định này sẽ được học viên nêu tại mục 1.2 của luận văn.

1.1.1.2. Vị trí, vai trò của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Với vị trí là trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, PTSTVAHS có vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Phiên tòa sơ thẩm VAHS còn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân. Bởi vì, tại PTSTVAHS các chủ thể tham gia phiên tòa đều được quyền đưa ra những tài liệu chứng cứ, chứng minh việc ngoiạ phạm (nếu có) hoặc là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (nếu có). Bởi vậy có thể nói, PTSTVAHS là nơi thể hiện đầy đủ nhất quyền dân chủ của cá nhân, công dân.

1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự

Phiên tòa sơ thẩm VAHS của Tòa án nhân dân là một hình thức cụ thể của áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung. Trong quá trình thực hiện vừa phải tuân theo những nguyên tắc, quy trình áp dụng pháp luật. Đồng thời, do tính chất của xét xử án hình sự liên quan trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền sở hữu tài sản của nhà nước, của công dân nên cũng có những đặc điểm riêng biệt. Vì vậy, có thể xem xét, nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong phạm vi luận văn này, học viên xin nêu một số đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, PTSTVAHS của Tòa án nhân dân là hoạt động của HĐXX sơ thẩm nhân danh quyền lực Nhà nước lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử.

Tại Điều 102 HP 2013 đã ghi rõ: TAND à cơ quan có thẩm quyền xét xử duy nhất của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam [26]. Như vậy TAND là cơ quan quyết định cuối cùng xem bị cân, bị cáo có tội hay vô tội. Tuy nhiên TAND vẫn phải chấp hành nghiêm chỉnh những nguyên tắc về xét xử được pháp luật TTHS và LHS quy định.

Theo Điều 103 Hiến pháp 2013, đó là các nguyên tắc:

1. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.

3. Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.

4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.

6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.

7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm [26]

Có chấp hành nghiêm các nguyên tắc trên thì phán quyết của Tòa án mới đảm bảo tính khách quan, công bằng; thể hiện được vị trí trung tâm của Tòa án trong hoạt động tư pháp.

Phiên tòa sơ thẩm VAHS là nơi Tòa án nhân dân khi xét xử và sau khi ban hành bản án, quyết định (Gọi chung là văn bản áp dụng pháp luật) không phải nhân danh cá nhân người tiến hành tố tụng hay nhân danh cơ quan Tòa án mà nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua HĐXX. Điều 254 BLTTHS năm 2015 quy định: Thành phần của HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Nếu là VAHS nghiêm trọng và phức tạp thì HĐXX có thể gồm 02 TP và 03 HTND; Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán. Việc quy định như vậy là do yêu cầu đảm bảo chất lượng công tác xét xử phúc thẩm mà mục đích là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án sơ thẩm.

Tòa án thực hiện quyền lực nhà nước thông qua phiên tòa xét xử công khai mà kết quả của quá trình xét xử là HĐXX công bố bằng một quyết định, bản án. Quyết định, bản án phải thể hiện ý chí của nhà nước và đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Mỗi quyết định, bản án nghiêm minh, chính xác và công bằng không những có ý nghĩa trừng trị, giáo dục người phạm tội mà còn giúp quần chúng nhân dân nâng cao ý thức pháp luật, có niềm tin vào chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Ngược lại, quyết định, bản án oan sai không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, của công dân mà còn ảnh hưởng đến uy tín của ngành Tòa án, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào công lý. Bởi vậy, mỗi quyết định, bản án của Tòa án phải rất thận trọng, chính xác, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, PTSTVAHS của TAND luôn thực hiện theo trình tự, thủ tục do luật định.

Việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của BLTTHS là điều kiện và biện pháp cần thiết quan trọng bảo đảm trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước và xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Chỉ có việc tuân thủ nghiêm chỉnh và thường xuyên các đòi hỏi của các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự mới xác định được sự thật khách quan của vụ án, từ đó đưa ra phán quyết chính xác và có căn cứ.

Cụ thể, BLTTHS năm 2015 đã dùng 41 điều luật, từ Điều 288 đến Điều 329 để quy định về PTSTVAHS . Đó là những quy định rất chặt chẽ về trình tự thủ tục và cách thức tiến hành các hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Bắt buộc cơ quan Tòa án phải tuân thủ triệt để các quy định đó khi xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm. Học viên sẽ nêu tại mục 1.2 của luận văn.

Các quan hệ phát sinh trong quá trình xét xử đều được BLTTHS năm 2015 dự liệu trước những vấn đề có thể xảy ra. Ví dụ như các quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; áp dụng các quy phạm pháp luật TTHS để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định triệu tập những người tham gia tố tụng đến phiên tòa; quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng trong trường hợp cần thiết; quyết định hoãn phiên tòa; trình tự tại phiên tòa từ phần thủ tục, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Nếu trong quá trình ADPL hình sự mà Tòa án vi phạm các thủ tục xét xử được quy định trong BLTTHS thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bản án cấp sơ thẩm ban hành sẽ không được công nhận và bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ.

Tại PTSTVAHS, HĐXX áp dụng các quy định của BLTTHS hay áp dụng các quy phạm pháp luật hình thức là điều kiện bắt buộc và là tiền đề cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung, để đi đến việc ra văn bản áp dụng pháp luật cuối cùng là bản án, quyết định hình sự sơ thẩm. Bởi vậy, tại PTSTVAHS, HĐXX phải áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật nội dung, đồng thời phải tuân thủ triệt để các quy định của BLTTHS. Có như vậy mới đảm bảo được tính khách quan của vụ án hình sự.

Thứ ba, PTSTVAHS của TAND chỉ do HĐX (gồm TP và HTND) thực hiện

Tại Điều 1 Pháp lệnh TP và HTND 2013 đã ghi rõ, TP được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử VAHS; Còn HTND được bầu để làm nhiệm vụ xét xử VAHS. Bởi vậy, với chức năng và nhiệm vụ của mình trong quá trình xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm đòi hỏi người Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước tiến hành tố tụng quy định trong BLTTHS và phải đảm bảo áp dụng pháp luật nội dung đạt độ chính xác cao. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải triệt để tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải là người có ý thức pháp luật, ý thức chính trị, đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp vững. Có như vậy mới giúp cho quá trình giải quyết các vụ án hình sự được chính xác và đúng pháp luật.

Tại PTSTVAHS, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 4 Pháp lệnh Thẩm phán 2013) và nguyên tắc “Xét xử tập thể và quyết định theo đa số[25] đều là những nguyên tắc có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm. Giúp cho việc nghiên cứu, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án một cách khách quan, vô tư và chính xác. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ thông qua hồ sơ vụ án, qua quá trình xét xử công khai tại phiên tòa. Thẩm phán và Hội thẩm luôn có sự bàn bạc dân chủ, thẳng thắn, nêu cao tinh thần trách nhiệm của từng thành viên. Mỗi thành viên trong HĐXX đều có quyền nêu ra quan điểm riêng của mình và bảo vệ quan điểm đó, điều này thể hiện sự độc lập và tuân theo pháp luật giữa Thẩm phán và Hội thẩm. Trong đó thành phần HĐXX phải có ít nhất 03 người, biểu quyết theo đa số. Hoạt động áp dụng pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử các vụ án hình sự luôn được sự quan tâm, chú ý của dư luận xã hội, bởi hoạt động đó mang tính quyền lực nhà nước, tính mẫu mực của việc thực hiện pháp luật, tính nghiêm khắc của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa và cả tính nhân đạo của chế độ chính trị. Vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm luôn phải giữ cho mình cái “Tâm” trong sáng.

Thứ tư, PTSTVAHS của TAND là hoạt động áp dụng pháp luật để quyết định bị cáo bị VKS truy tố đúng người, đúng tội hay không.

Việc xác định sự thật khách quan của VAHS là xem xét tài liệu chứng do CQĐT thu thập trong giai đoạn điều tra và VKS thu thập trong trong giai đoạn truy tố để TAND nghiên cứu, thẩm định xem hành vi vi phạm pháp luật hình sự của bị can, bị cáo có đủ CTTP hình sự hay không cấu thành tội phạm hình sự. Đồng thời, khi nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị xét xử, những người tiến hành tố tụng cần xác định hành vi phạm tội trên thực tế thực hiện ở giai đoạn nào: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt…, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, vai trò của từng bị cáo trong vụ án nếu có đồng phạm, trách nhiệm dân sự nếu có.

Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

Tại PTSTVAHS để có cơ sở áp dụng đúng pháp luật và đi đến quyết định cuối cùng thì HĐXX còn phải lựa chọn các quy phạm pháp luật nội dung là BLHS và quy phạm pháp luật hình thức là BLTTHS, phù hợp để áp dụng và xem xét TNHS và trách nhiệm dân sự đối với người phạm tội.

Tại PTSTVAHS thì HĐXX sẽ áp dụng các quy định trong BLHS để quyết định bị cáo có tội hay không có tội, vì: Căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai tại phiên tòa làm cơ sở để các chủ thể áp dụng pháp luật xác định bị cáo phạm tội gì hoặc không phạm tội, từ đó quyết định trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự nếu có. Để quyết định trách nhiệm hình sự phải thực hiện các công việc sau: Xem xét khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết của vụ án, mức đội nguy hiểm của hành vi đối với quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ; phân tích, đánh giá chính xác các yếu tố cấu thành tội phạm; phân tích các dấu hiệu của tội phạm; xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra.

Khi thấy có đủ căn cứ để quyết định hình phạt, chủ thể áp dụng pháp luật cần lựa chọn những chế tài cụ thể được quy định trong BLHS để:

– Quyết định một hình phạt cụ thể đối với bị cáo theo quy định tại Điều 50: Căn cứ quyết định hình phạt; Điều 54: Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng; Điều 55: Quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo phạm nhiều tội; Điều 57: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; Điều 58: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm [25].

– Quyết định biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo được quy định tại Điều 32 đến Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 2015 từ hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân đến tử hình.

– Điều 45 Bộ luật hình sự 2015, ghi rõ về trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo đối với phần thiệt hại về tài sản trong VAHS [22].

– Bên cạnh việc quyết định TNHS của người phạm tội, HĐXX còn phải xem xét các vấn đề về xử lý vật chứng được quy định tại Điều 106 BLTTHS 2015.

Thứ năm, PTSTVAHS của TAND là hoạt động mang tính sáng tạo.

Điều này thể hiện ở việc tại PTSTVAHS, HĐXX phải vận dụng một cách linh hoạt các quy định của BLHS và BLTTHS để ra những phán quyết chính xác, có căn cứ và tính thuyết phục cao. Khi quyết định hình phạt HĐXX sẽ xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật; xem xét đến lợi ích chung của NN và XH; áp dụng đầy đủ những tình tiết tăng nặng TNHS và những tình tiết TNHS. Tính sáng tạo trong hoạt động xét xử của Tòa án còn được thể hiện trong các trường hợp tùy nghi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tùy nghi lựa chọn mức hình phạt v.v…Ngoài ra, khi xét xử các VAHS người làm công tác xét xử không thể áp dụng dập khuôn, máy móc mà đòi hỏi phải có tính sáng tạo, có ý thức pháp luật cao, có khả năng quan sát, tổng hợp và kinh nghiệm cuộc sống phong phú.

    1. 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng về phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

1.2.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa và một số nguyên tắc cơ bản của phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Xét xử tại phiên tòa là khâu quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm các VAHS của Tòa án. Giai đoạn xét xử được bắt đầu từ khi mở phiên tòa cho tới khi Tòa án tuyên án. Đặc biệt, theo yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp đang đặt ra hiện nay thì việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Giai đoạn này, việc áp dụng pháp luật gồm các bước như: Kiểm tra căn cước những người tham gia tố tụng; giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo và những người tham gia tố tụng theo những điều luật tương ứng của BLTTHS. Ví dụ, đối với bị cáo, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa phải giải thích cho bị cáo đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 61 BLTTHS 2015; đối với người bị hại phải giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 62 BLTTHS 2015.

Chủ toạ phiên toà phải hỏi bị cáo đã nhận được bản cáo trạng của Viện kiểm sát và quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án hay chưa. Nếu đã được giao nhận thì ngày được giao nhận là ngày nào, nếu chưa nhận được cáo trạng và quyết định đưa VAHS ra xét xử hoặc đã nhận được quyết định đưa VAHS ra xét xử từ 09 ngày trở xuống trước khi mở phiên toà, thì phải hỏi bị cáo có đồng ý để Toà án tiến hành XXVAHS hay không. Nếu bị cáo đồng ý thì ghi vào biên bản phiên toà và tiến hành xét xử theo thủ tục chung. Nếu bị cáo không đồng ý thì HĐXX phải hoãn phiên toà. Ngay sau khi hoãn phiên toà, nếu bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng thì Tòa án yêu cầu VKS giao bản cáo trạng cho bị cáo; nếu bị cáo chưa nhận được quyết định đưa VAHS ra xét xử thì Tòa án tiến hành giao quyết định đưa VAHS ra xét xử theo đúng quy định.

HĐXX cũng phải tiến hành giải quyết việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký tòa án, người phiên dịch, người giám định; cách ly người làm chứng, cách ly bị cáo khi cần thiết; giải quyết các yêu cầu xem xét vật chứng và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt; tiến hành thẩm vấn, tranh luận tại phiên tòa theo quy định của pháp luật.

Để đảm bảo việc xét xử trực tiếp, những thành viên của HĐXX phải có mặt trong suốt quá trình xét xử, nếu phải thay đổi thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 250 BLTTHS 2015. Việc xét xử bằng lời nói là hoạt động tại phiên toà được thể hiện bằng lời nói từ thủ tục bắt đầu phiên toà cho đến phần xét hỏi, tranh luận, tuyên án. Xét xử bằng lời nói thể hiện tính minh bạch của hoạt động xét xử bảo đảm cho mọi người tham dự tại phiên toà theo dõi được mọi diễn biến của vụ án. Bằng lời nói, những người tham gia tố tụng được trình bày công khai những suy nghĩ và nhận xét của họ về những vấn đề của vụ án, đảm bảo cho mọi người tham dự phiên tòa theo dõi được mọi diễn biến của vụ án, đồng thời đảm bảo yêu cầu trực tiếp của hoạt động xét xử.

Xét xử liên tục là trong cùng một thời gian các thành viên của HĐXX không được tham gia xét xử nhiều vụ án mà phải xét xử xong vụ án này mới được chuyển sang vụ án khác. Hội đồng xét xử phải xét xử liên tục từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc phiên toà (Trừ thời gian nghỉ theo quy định của pháp luật), các thành viên của HĐXX phải có mặt liên tục tại phiên tòa. Nếu có thành viên của HĐXX không thể tham gia phiên tòa được thì phải thay thế theo quy định tại Điều 250 BLTTH 2015 bằng việc ra văn bản áp dụng pháp luật là Quyết định thay thế những người tiến hành tố tụng. Xét xử liên tục đảm bảo cho các thành viên của HĐXX không bị phân tán tư tuởng và không thực hiện được nguyên tắc trực tiếp của hoạt động xét xử.

Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và xét xử liên tục có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành nguyên tắc đặc thù trong hoạt động xét xử, các chủ thể áp dụng pháp luật phải tuân thủ triệt để nguyên tắc này để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác, chống thái độ định kiến chỉ dựa vào kết quả điều tra và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, dẫn đến xét xử qua loa, hình thức.

– Giới hạn của việc xét xử, Điều 298 BLTTHS 2015 ghi rõ TAND chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố …[25]. Tòa án không được xét xử người, hành vi mà Viện kiểm sát chưa truy tố hoặc không được xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Nếu qua xét xử tại phiên toà, Toà án xác định rằng còn có người khác phạm tội hoặc hành vi phạm tội khác chưa được truy tố thì Toà án tiếp tục xét xử bị cáo và những tội phạm đã truy tố, sau đó có thể ra văn bản áp dụng pháp luật là Quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tội phạm mới rồi chuyển cho Viện kiểm sát quyết định việc điều tra hoặc yêu cầu khởi tố bị can. Tuy nhiên, TAND vẫn có quyền xét xử theo khoản khác (Theo khoản nặng hơn hoặc khoản nhẹ hơn) với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật; TAND cũng có quyền xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố. Khi VKS truy tố bị cáo về nhiều tội với nhiều hành vi phạm tội thì TAND có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà VKS tố hoặc xét xử về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà VKS truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó; Còn trong trường hợp TAND xét xử về tội nặng hơn tội do VKS truy tố, thì TAND trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo dõ lý do chi bị cáo biết. Nếu VKS vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như lúc đầu, thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo tội nặng hơn so với tội mà VKS truy tố.

1.2.2. Quy định về nội quy phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa

1.2.2.1. Nội quy phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

BLTTHS năm 2015 và Thông tư 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân tối cao quy định cụ thể về Nội quy phiên tòa như sau:

1. Phiên tòa được tổ chức công khai, trừ trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự.

2. Phiên tòa được tổ chức tại phòng xử án ở trụ sở Tòa án hoặc ở nơi xét xử lưu động ngoài trụ sở Tòa án (Sau đây gọi chung là phòng xử án).

3. Việc tổ chức phiên tòa phải bảo đảm các yêu cầu về an ninh, trật tự, sự tôn nghiêm của Tòa án; bảo đảm cho việc xét xử được tiến hành dân chủ, nghiêm minh, khách quan, đúng pháp luật; góp phần tuyên truyền, giáo dục công dân chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của đời sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.

Nội quy phòng xử án

1. Khi vào phòng xử án, mọi người đều phải chấp hành việc kiểm tra an ninh của lực lượng có trách nhiệm bảo vệ phiên tòa.

Nghiêm cấm mang vũ khí, hung khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, đồ vật cấm lưu hành, truyền đơn, khẩu hiệu và tài liệu, đồ vật khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa vào phòng xử án, trừ vật chứng của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.

2. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan khác cho Thư ký phiên tòa tại bàn thư ký chậm nhất là 15 phút, trước giờ khai mạc phiên tòa và ngồi đúng vị trí trong phòng xử án theo hướng dẫn của Thư ký phiên tòa; trường hợp đến muộn thì phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan khác cho Thư ký phiên tòa thông qua lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.

3. Người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập.

4. Mọi người trong phòng xử án phải mặc quần áo nghiêm túc; có thái độ tôn trọng HĐXX, giữ trật tự, không nói chuyện riêng và tuân theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa.

5. Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng, được Chủ tọa phiên tòa cho phép; không sử dụng điện thoại di động trong phòng xử án; không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa.

6. Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi HĐXX vào phòng xử án và khi tuyên án, trừ trường hợp đặc biệt được phép của Chủ tọa phiên tòa.

7. Bị cáo đang bị tạm giam chỉ được tiếp xúc với người bào chữa; việc tiếp xúc với những người khác phải được phép của Chủ tọa phiên tòa.

8. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được Chủ tọa phiên tòa cho phép rời khỏi phòng xử án khi có lý do chính đáng.

9. Chỉ những người được HĐXX cho phép mới được hỏi, trả lời hoặc phát biểu và phải phải đứng dậy, chỉ khi được chủ TP chủ tọa đồng ý thì mới được ngồi.

10. Người vi phạm nội quy phòng xử án thì tùy trường hợp có thể bị Chủ tọa phiên tòa cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án, bị bắt giữ hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Hoạt động thông tin, báo chí tại phiên tòa

1. Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải xuất trình Thẻ nhà báo và giấy giới thiệu công tác cho Thư ký phiên tòa tại bàn thư ký chậm nhất là 15 phút, trước giờ khai mạc phiên tòa; chấp hành đúng hướng dẫn của Thư ký phiên tòa hoặc lực lượng cảnh sát bảo vệ phiên tòa về khu vực tác nghiệp; chấp hành sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa; tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy phòng xử án.

2. Hoạt động thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Việc bảo vệ phiên tòa và thực hiện các quyết định của Chủ tọa phiên tòa

Khi TP chủ tọa PTSTVAHS phát hiện có chủ thể tham gia phiên tòa vi phạm nội quy, sẽ quyết định việc buộc phải rời khỏi hội trường xét xử hoặc bắt giữ người có hành vi gây rối trật tự tại PTSTVAHS thì cảnh sát hỗ trợ tư pháp sẽ thực thị quyết định của TP Chủ tọa phiên tòa.

Xử lý người vi phạm nội quy phiên tòa

1. Người vi phạm nội quy phiên tòa thì tùy tính chất, mức độ vi phạm có thể bị Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

2. Chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định buộc người vi phạm rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính. Cơ quan công an có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa hoặc người có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa thi hành quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc tạm giữ hành chính người gây rối trật tự phiên tòa.

3. Trường hợp hành vi của người vi phạm nội quy phiên tòa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì HĐXX có quyền khởi tố vụ án hình sự.

1.2.2.2. Tạm ngừng phiên tòa

       Tạm ngừng phiên tòa là thuật ngữ pháp lý đã được sử dụng trong pháp luật tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Tuy nhiên, trong pháp luật tố tụng hình sự thì đây là quy định mới, trong BLTTHS 2003 không có quy định này, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định này cho phù hợp thực tế xét xử các vụ án hình sự cũng như phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật tố tụng hành chính. Theo sách Đại Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998,“Tạm ngừng” là từ ghép của hai từ “tạm” và “ngừng”. Tạm là chỉ trong thời gian ngắn và sẽ còn thay đổi. Ngừng là dừng lại, không tiếp tục hoạt động. Tạm ngừng là không tiếp tục hoạt động mà phải dừng lại trong thời gian ngắn [51].

Như vậy có thể hiểu, tạm ngừng phiên tòa là phiên tòa không tiếp tục các hoạt động tố tụng trong thời gian ngắn khi có các căn cứ do pháp luật tố tụng hình sự quy định

Tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã nêu rõ 03 trường hợp TAND có thể tạm ngừng PTSTVAHS: Xét thấy tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ VAHS do CQĐT và VKS thu thập chưa đầy đủ. Các chủ thể tham gia PTSTVAHS không thể xuất trình và cung cấp ngay được mà phải cần thời gian trong khoảng năm ngày sau; Hoặc trường hợp các chủ thể tham gia phiên tòa vì lý do sức khỏe hoặc nguyên nhân khách quan khác không thể tiếp tục tham gia PTSTVAHS nhưng có thể tiếp tục tham gia trong khoảng 05 ngày sau và vì lý do nào đó TKTA không có mặt tại phiên tòa.

Nếu TP chủ tọa PTSTVAHS quyết định tạm ngừng phiên tòa (không quá 05 ngày) thì phải được ghi vào bút ký phiên tòa (hay còn gọi là biên bản phiên tòa) sau đó thông báo theo quy định của pháp luật, PTSTVAHS sẽ được tiếp tục sau khi lý do hết thời hạn tạm ngừng (năm ngày). Nhưng nếu vẫn không thể tiếp tục xét xử được thì TP chủ tọa PTSTVAHS có thể xem xét áp dụng việc hoãn PTSTVAHS theo luật định.

Như vậy, tùy từng trường hơp mà tiến hành tạm ngưng phiên tòa hoặc hoãn phiên tòa. Căn cứ vào tính chất vụ việc, việc thu thập, xác minh, chứng cứ… có tiến hành được nhanh chóng trong thời gian tối đa là 05 ngày hay không. Nếu quá thời gian này mà các trường hợp trên không tiến hành được ngay thì Tòa án sẽ ra quyết định hoãn phiên tòa.

Quy định việc tạm ngừng phiên tòa là một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS 2003 (sửa đổi, bổ sung 2009). Qua đó giúp cho người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

1.2.3. Quy định về sự có mặt của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng

– PTSTVAHS chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên HĐXX và TKTA. Các thành viên của HĐXX tham gia từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc PTSTVAHS. Trường hợp có TP hoặc HTND không thể tiếp tục tham gia xét xử VAHS nhưng có TP, HTND dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu thì những người được thay thế làm thành viên HĐXX. Nếu HĐXX có 02 TP mà TP chủ tọa không thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thì TP còn lại sẽ là TP chủ tọa PTSTVAHS, trường hợp này sẽ bổ sung TP dự khuyết làm TP thành viên của HĐXX. Còn nếu không có TP dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi TP chủ tọa phiên tòa mà không có TP để thay thế thì phải hoãn phiên tòa. Trường hợp TKTA bị thay đổi hoặc không thể thực hiện nhiệm vụ thì TAND vẫn có thể xét xử vụ án nếu có TKTA dự khuyết, nếu không có người thay thế thì tạm ngừng PTSTVAHS.

– Với tư cách là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, KSV bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa từ khi khai mạc cho đến khi kết thúc phiên tòa. Những VAHS nghiêm trọng, phức tạp VKS có quyền cử thêm KSV. Việc cử một hay hai KSV tham gia phiên toà do Viện trưởng VKSND quyết định. Sự có mặt của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bắt buộc, nếu KSV không thể tiếp tục thực hành quyền công tố tại phiên tòa hoặc bị thay đổi mà không có KSV dự khuyết từ đầu thì HĐXX hoãn phiên tòa và thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp.

– Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa là bắt buộc, phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Toà án trong suốt thời gian xét xử vụ án; nếu vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì bị áp giải đến phiên tòa. Tại phiên tòa, bị cáo chịu sự giám sát cặ chẽ của Cảnh sát bảo vệ phiên tòa, đề phòng họ có thể trốn hoặc thông cung với người khác. Trong trường hợp người bị VKS truy tố đang bị tạm giam, ngoài việc được tiếp xúc với NBC, nếu muốn tiếp xúc với người khác phải được sự đồng ý của TP chủ tọa. Nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng (Bị ốm, bệnh, tai nạn hoặc do thiên tai, lũ lụt) thì phải hoãn phiên tòa. Trường hợp bị cáo bị tạm giam, thì phải được cơ quan Công an áp giải đến phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án.

Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì HĐXX TĐC vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh; Nếu bị cáo bỏ trốn thì HĐXX ra Quyết định TĐC chỉ vụ án và yêu cầu CQĐT truy nã bị cáo.

Theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành thì TAND sẽ được mở PTSTVAHS khi bị cáo vặng mặt, trong một số trường hợp: Người bị VKS truy tố đã bỏ trốn, bị truy nã chưa bắt lại được; Hoặc trường hợp người này đang ở nước ngoài mà Việt Nam chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp …; Và chỉ xét xử vắng mặt khi sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử [25].

– Những người tham gia tố tụng khác, nếu họ vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp xét thấy sự có mặt của họ là cần thiết hay không cần thiết mà HĐXX quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử.

+ Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa, NBC được quyền gửi bài bài chữa đến TAND trước khi mở PTSTVAHS, trường hợp này NBC vắng mặt thì TAND vẫn mở PTSTVAHS.

Tuy nhiên trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Gọi là người bào chữa theo chỉ định) mà vắng mặt tại phiên toà thì HĐXX phải hoãn phiên toà, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Trường hợp người bào chữa theo chỉ định có mặt nhưng bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa thì HĐXX xem xét quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận. Nếu chấp nhận thì HĐXX quyết định hoãn phiên toà và yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa khác cho bị cáo.

Nếu vắng mặt người bào chữa trong các trường hợp khác thì tùy trường hợp cụ thể Tòa án có thể vẫn xét xử hoặc hoãn phiên tòa. Thông thường, trong các trường hợp vụ án nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, hồ sơ vụ án có những điểm chưa thật rõ ràng, việc buộc tội bị cáo có những ý kiến khác nhau…và bị cáo yêu cầu mà người bào chữa vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.

+ Bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến VAHS hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền tham dự PTSTVAHS, khi những người này vắng mặt thì vẫn có thể tiếp tục PTSTVAHS và trong trường hợp cần thiết có thể hoãn PTSTVAHS [25].

1.2.4. Quy định về hoãn phiên tòa

Trong tiếng Việt “Hoãn là chuyển thời điểm đã định để làm việc gì đó sang thời điểm khác muộn hơn” [51]. Theo nội hàm của từ này thì hoãn phiên tòa là việc chuyển thời điểm tiến hành phiên toà hình sự đã định sang thời điểm khác muộn hơn. Việc hoãn phiên tòa chỉ được thực hiện khi có các căn cứ do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Như vậy, hoãn phiên tòa hình sự được hiểu là việc không tiến hành xét xử vì một số lý do nhằm đảm bảo việc xét xử được khách quan, công bằng. Việc hoãn phiên tòa này chỉ trong một thời gian nhất định, sau khoảng thời gian đó sẽ tiến hành xét xử lại, cụ thể như sau:

 a. Về căn cứ pháp lý:

 Điều 297 BLTTHS năm 2015 quy định các trường hợp hoãn phiên tòa:

“1. Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp

a) Có một trong những căn cứ quy định tại các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291, 292, 293, 294 và 295 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; [25].

Trong đó:

– Điều 52 và Điều 289 quy định về thay đổi KSV và sự có mặt của KSV tại phiên tòa: Trường hợp phải thay đổi KSV tại phiên tòa thì HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa;

– Điều 53 và Điều 288 quy định về thay đổi TP, HTND và sự có mặt của thành viên HĐXX và TKTA: Trường hợp phải thay đổi TP, HND và TKTA tại phiên tòa thì HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa;

– Điều 290 quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa;

– Điều 291 quy định về sự có mặt của người bào chữa;

– Điều 292 quy định về sự có mặt của bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ;

– Điều 293 quy định về sự có mặt của NLC;

– Điều 294 quy định về sự có mặt của người giám định, người định giá tài sản;

Và Điều 295 quy định về sự có mặt của người phiên dịch, người định giá tài sản.

b) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;

c) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại;

d) Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản;

Trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.

2. Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa

3. Quyết định hoãn phiên tòa có các nội dung chính:

a) Ngày, tháng, năm ra quyết định;

b) Tên Tòa án và họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án;

c) Họ tên KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa;

d) Vụ án được đưa ra xét xử;

đ) Lý do của việc hoãn phiên tòa;

e) Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa;

4. Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên.

Trường hợp Chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án TAND ra quyết định hoãn phiên tòa.

Quyết định hoãn phiên tòa phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho VKS cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn hai ngày kể từ ngày ra quyết định.”

Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng

b. Về thời hạn

Theo quy định của tại Điều 297 BLTTHS 2015 thì thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa phải được Chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX ký tên. Trường hợp Chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án TAND ra quyết định hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa; gửi cho VKSND cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định [25].

c. Về hình thức hoãn phiên tòa.

Việc hoãn phiên tòa phải được thực hiện bằng một quyết định bằng văn bản, trong quyết định phải thể hiện đầy đủ các nội dung như ngày tháng năm ra quyết định, họ tên thành phần những người tiến hành tố tụng, lý do của việc hoãn phiên tòa, thời gian địa điểm mở lại phiên tòa. Đây là điểm mới của BLTTHS năm 2015 so với quy định BLTTHS năm 2003. Quyết định hoãn phiên tòa phải được các thành viên Hội đồng xét xử thông qua tại phòng nghị án theo quy định tại khoản 2 Điều 299 BLTTHS năm 2015. Trường hợp hoãn phiên tòa do Chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa [25].

d. Thời điểm và thẩm quyền ra quyết định hoãn phiên tòa

Hoãn phiên toà là việc chuyển thời điểm tiến hành phiên toà hình sự đã định sang thời điểm khác muộn hơn, nên về nguyên tắc chỉ khi phiên tòa được mở thì Tòa án mới xác định được chính xác có căn cứ hoãn hay không, do đó về nguyên tắc quyền hoãn phiên toà chỉ thuộc về HĐXX. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã dự liệu trường hợp “Trường hợp Chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa”. Đây là một quy định hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ trên thực tế khi vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, đến ngày mở phiên tòa vì lý do sức khỏe hay lý do nào đó mà Chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì phải có người ký quyết định hoãn phiên tòa. Như đã phân tích ở trên thì về nguyên tắc thẩm quyền hoãn phiên tòa thuộc về HĐXX và TP -Chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX ký quyết định hoãn phiên tòa. Nếu không có dự liệu trường hợp Chủ tọa vắng mặt hoặc bị thay đổi thì khi xảy ra trường hợp này, HĐXX sẽ rất lúng túng, việc thực hiện sẽ thiếu thống nhất.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN/ NGUYEN THI THANH THUY

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *