Phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự từ thực tiễn

Phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự từ thực tiễn

Phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

TTHS là quá trình tiến hành giải quyết VAHS theo quy định của pháp luật TTHS bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan THTT; người THTT; người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật TTHS. Nói cách khác, TTHS là trình tự và thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS và thi hành bản án, quyết định của toà án do pháp luật TTHS quy định [31, tr.5]. Quá trình giải quyết VAHS bao gồm các giai đoạn nhất định do luật định. Ở mỗi giai đoạn do cơ quan và người THTT khác nhau đảm nhiệm. Những mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tố tụng giữa các cơ quan và người THTT với người tham gia tố tụng được pháp luật TTHS điều chỉnh, trong đó quy định các quyền và nghĩa vụ của cơ quan, người THTT cũng như của người tham gia tố tụng. Thủ tục TTHS được pháp luật quy định đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện, chính xác và công bằng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có liên quan [26, tr.12].

Trong các thủ tục TTHS thì phê chuẩn của VKS trong TTHS là một nội dung quan trọng của pháp luật TTHS, có ý nghĩa trên cả hai phương diện bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đấu tranh PCTP và VPPL. Phê chuẩn của VKS trong TTHS là nội dung quan trọng của pháp luật TTHS, đồng thời là bộ phận cấu thành của thủ tục TTHS hiện diện trong tất cả các mô hình TTHS trên thế giới, xuyên suốt quá trình lịch sử [20, tr.213]. Phê chuẩn của VKS trong TTHS phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất vẫn là tính hiệu quả của thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm và bảo đảm quyền con người với ý nghĩa việc quy định phê chuẩn của VKS trong TTHS hợp lý, khoa học sẽ có tác động tích cực trong việc thực hiện mục đích của TTHS. Việc quy định phê chuẩn của VKS trong TTHS hợp lý, khoa học là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ này, đồng thời tăng cường trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trong việc phát hiện và xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động TTHS. Thể chế hóa yêu cầu cải cách tư pháp đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, BLTTHS năm 2015 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung các quy định về phê chuẩn của VKS trong TTHS bảo đảm hầu hết các hoạt động, hành vi tố tụng của các cơ quan THTT khác đều bị ràng buộc bởi hoạt động phê chuẩn của VKS [21, tr.9]. VKS thể hiện quyền năng của mình rõ ràng nhất thông qua hoạt động phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT. Hoạt động phê chuẩn vừa thể hiện quyền năng vừa thể hiện trách nhiệm của VKS. Đồng thời cũng cần khẳng định rằng hoạt động phê chuẩn là hoạt động đặc thù và duy nhất chỉ VKS mới có quyền phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong TTHS.

Bên cạnh phát triển kinh tế – xã hội, tại địa bàn huyện Phù Mỹ thời gian qua tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững, tuy nhiên tình hình tội phạm trên địa bàn vẫn có những diễn biến khá phức tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi. Trong khi đó, công tác xử lý các VAHS còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật TTHS, nhất là vấn đề áp dụng quy định về phê chuẩn của VKS trong TTHS còn nhiều hạn chế, bất cập. Thực tiễn cho thấy hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay vẫn theo nếp cũ, kéo dài, tình trạng vi phạm phê chuẩn của VKS trong TTHS còn xảy ra tuy không nhiều nhưng ảnh không nhỏ đến hiệu quả TTHS [45, tr.11].

Vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện lý luận, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về phê chuẩn của VKS trong TTHS tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh PCTP đảm bảo sự ổn định về TTATXH, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về nội dung này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định” làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về phê chuẩn của VKS trong TTHS.

– Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS hiện nay trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, tồn tại của việc áp dụng hoạt động này trong thực tiễn, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó.

– Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS và phòng ngừa những vi phạm trong việc áp dụng hoạt động này của cơ quan chức năng trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

– Hệ thống hóa và thống nhất nhận thức một số vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam hiện hành.

– Khảo sát thu thập thông tin, số liệu thực tế nhằm phân tích tình hình áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS để minh họa cho quá trình thực tiễn áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

– Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam trong thời gian tới của cơ quan chức năng trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Các quy định về phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2003.

– Các quy định về phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2015.

– Thực tiễn áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu các quy định về phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam.

– Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam từ thực tiễn tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

– Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật nói chung, Nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực xã hội, mọi hoạt động của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, Nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

– Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh, phân tích các tài liệu, số liệu, phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn; tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát.

Phương pháp thống kê: được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thực tế thu thập tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định nhằm minh họa, làm rõ thực trạng của tình hình áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS Việt Nam từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến năm 2020 trong chương 2 của luận văn.

Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình (được sử dụng chủ yếu tại chương 2): Để có cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, đánh giá trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu, tìm hiểu hồ sơ một số vụ án trong đó có áp dụng phê chuẩn của VKS trong TTHS đạt kết quả cao hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt động TTHS tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến năm 2020.

Phương pháp trao đổi, tọa đàm: dùng để trao đổi, tìm hiểu một số thông tin thực tế từ các KSV, lãnh đạo của VKSND huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Đinh có kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và tiến hành hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động phê chuẩn của VKSND trong TTHS nói riêng. Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho các học viên ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và TTHS để ngăn chặn, đấu tranh PCTP trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên khảo sát một cách toàn diện và sâu sắc về thực tiễn áp dụng phê chuẩn của VKSND trong TTHS Việt Nam từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến năm 2020. Làm rõ những kết quả đạt được, các hạn chế, nguyên nhân những hạn chế, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự, TTHS để thực hiện phê chuẩn của VKSND trong TTHS trong đấu tranh PCTP ở địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự và TTTHS nói chung, các hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục phần nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương.

Chương 1: Nhận thức chung về phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phê chuẩn trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

CHƯƠNG 1

NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa hoạt động phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

1.1.1.1. Khái niệm hoạt động phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

Phê chuẩn là một từ gốc Hán Việt, theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý do Nhà xuất bản Văn hóa – thông tin Hà Nội xuất bản năm 1998 thì: “Phê chuẩn là xét duyệt, đồng ý cho thi hành” [23, tr.786]. Còn theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa thì “Phê chuẩn là xét duyệt để cho phép sử dụng hoặc thực hiện một văn bản, công việc, vấn đề hay lĩnh vực nào đó” [47, tr.76]. Như vậy, có thể hiểu: Phê chuẩn là việc thực hiện quyền lực của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền (thường là cấp trên) chấp thuận một hay nhiều đề nghị, yêu cầu của cấp phụ thuộc (thường là cấp dưới) được ghi vào văn bản có ký tên hoặc ký tên và đóng dấu, cho phép cấp phụ thuộc được thực hiện yêu cầu, đề nghị đó. Phê chuẩn thường xuất hiện trong quá trình giải quyết những công việc chung của các cơ quan nhà nước, khi cấp phụ thuộc (tổ chức cá nhân) có một số yêu cầu về công việc cần thiết mà điều kiện tiên quyết để thực hiện yêu cầu đó là sự chấp thuận của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền, khi đó cấp phụ thuộc phải làm một văn bản như: tờ trình, đơn đề nghị, bản yêu cầu, dự thảo đề án, hiệp ước… gửi cho cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền. Trong văn bản cấp phụ thuộc nêu rõ yêu cầu, lý do, nội dung, mục đích và các điều kiện thực hiện. Sau khi xem xét các văn bản đó, nếu thấy không trái với pháp luật và thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền phê vào văn bản đó yêu cầu của mình, có ký tên hoặc ký tên và đóng dấu cho phép hoặc không cho phép cấp phụ thuộc được thực hiện. Có thủ tục phê chuẩn toàn bộ hoặc chỉ phê chuẩn một hay một số yêu cầu đề nghị nào đó trong văn bản yêu cầu của cấp phụ thuộc. Phê chuẩn có giá trị pháp lý nếu các yêu cầu, đề nghị của cấp phụ thuộc được cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền chấp thuận nằm trong các quy định của pháp luật hiện hành [30, tr.786]. Các khái niệm trên về thuật ngữ “phê chuẩn” đều đề cập đến mối quan hệ quyền lực Nhà nước giữa cơ quan có thẩm quyền giám sát, thẩm tra với cơ quan có thẩm quyền thi hành những hoạt động nhất định do pháp luật quy định phải chịu sự giám sát, thẩm tra thông qua thủ tục phê chuẩn.

Buộc tội là một quá trình diễn ra trong suốt quá trình chứng minh tội phạm, chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội. Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi phải có một lực lượng chuyên môn về điều tra, thu thập toàn diện chứng cứ xác định tội phạm, người phạm tội hoặc để xác định người vô tội trong giai đoạn điều tra. Những hoạt động điều tra này chủ yếu do CQĐT và các ĐTV thực hiện. Tuy nhiên, quyền buộc tội phải do cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố, tức VKS thực hiện. Trong phạm vi chức năng của mình, VKS có quyền và trách nhiệm quyết định cuối cùng về những vấn đề liên quan đến việc buộc tội một chủ thể nào đó; kiểm soát được việc phát hiện, điều tra tội phạm và xử lý tội phạm. VKS và CQĐT là các cơ quan THTT có chức năng khác nhau, phải được phân định nhiệm vụ, quyền hạn có tính độc lập tương đối nhằm đảm bảo từng cơ quan thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, luật TTHS không thể chia tách, cắt khúc quyền lực tư pháp để từ đó làm suy giảm khả năng đấu tranh PCTP. Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ vừa chế ước, vừa phối hợp. Đó chính là cội nguồn xuất phát của hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS [39, tr.45].

Trong luật TTHS có chủ thể THTT được độc lập thực hiện các hoạt động tố tụng nhưng có những chủ thể khi thực hiện một số hoạt động cần phải được sự phê chuẩn của chủ thể khác. Điều này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong tố tụng là khác nhau. Chủ thể trong TTHS là các cơ quan được THTT: CQĐT, cơ quan công tố là VKS, cơ quan xét xử là Tòa án thực hiện các chức năng tương ứng là điều tra, truy tố, xét xử [41, tr.76].

Trong các cơ quan THTT tại Việt Nam, hệ thống CQĐT gồm nhiều tiểu hệ thống, với nhiều đầu mối quản lý đang tồn tại và hoạt động độc lập với nhau, được tổ chức trong lực lượng CAND (CSĐT, an ninh điều tra), trong Quân đội nhân dân và VKSND tối cao [49, tr.18]. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi hệ thống mà tổ chức nhiều cấp. Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2020, mỗi địa phương cấp tỉnh có 2 CQĐT của Công an cấp tỉnh, cả nước 63 tỉnh, thành thì chỉ riêng CQĐT Công an cấp tỉnh ở cả nước ta có đến 126 CQĐT, chưa kể đến 705 Cơ quan CSĐT của Công an cấp huyện và hàng chục CQĐT trong Quân đội nhân dân. Mối quan hệ giữa các CQĐT thuộc hệ thống đều có sự độc lập và khép kín về phương diện, điều hành và lãnh đạo chuyên môn. Hiện tại, ngoài BLTTHS 2015 và Luật Tổ chức CQĐT hình sự 2015 chưa có một văn bản pháp luật của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn chung cho hoạt động của cả bộ máy điều tra tố tụng, xác định rõ mối quan hệ giữa các CQĐT trong cùng ngạch cũng như khác ngạch, chỉ có những văn bản hướng dẫn riêng của cơ quan hành chính quản lý ngành đối với CQĐT thuộc ngành mình. Bên cạnh các CQĐT mang tính chuyên trách, pháp luật TTHS còn cho phép một số cơ quan hành chính cũng được quyền tham gia vào một số hoạt động điều tra: Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác thuộc lực lượng CAND (Quản lý xuất nhập cảnh; lực lượng An ninh khác; Cảnh sát giao thông; Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Cảnh sát PCTP về môi trường; An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao; Trại giam) và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân Việt Nam (Trại giam, đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương) [27, tr.36]. Theo quy định của pháp luật thì những cơ quan này gọi chung là các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là một phả hệ tổ chức phức tạp, xét cả về chiều dọc lẫn chiều ngang [27, tr.5]. BLTTHS quy định người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng được quyền tiến hành một số hoạt động TTHS như bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ hình sự, gia hạn tạm giữ hình sự. Đồng thời quy định việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và gia hạn tạm giữ đều phải có sự phê chuẩn của VKS. Việc áp dụng các lệnh, quyết định này của người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi các phương tiện đã rời khỏi sân bay, bến cảng là họ đã thực hiện hoạt động của CQĐT nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động TTHS. Như vậy, CQĐT là cơ quan được thành lập để thực hiện nhiệm vụ điều tra các VAHS, ngoài ra CQĐT còn bao gồm một số các cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và các chủ thể có thẩm quyền ra một số lệnh, quyết định TTHS trong tình huống khẩn cấp theo luật định.

Hoạt động điều tra của CQĐT là hoạt động thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật của vụ án, sự thật của hành vi phạm tội và xác định người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình điều tra, để thu thập chứng cứ CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp tố tụng về điều tra. Song, nhiều biện pháp tố tụng có liên quan tới quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, như bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giam… phải có sự phê chuẩn của VKS. Nếu VKS không phê chuẩn, thì các lệnh, quyết định đó không được thi hành. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do. Ngoài ra, BLTTHS còn quy định VKS phê chuẩn một số quyết định tố tụng của một số cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác. Xét về nội dung và tính chất của các quyết định của CQĐT phải được VKS xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, thì có thể phân thành hai loại quyết định phê chuẩn: Quyết định phê chuẩn trước bao gồm xét phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ; lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét và lệnh tạm giam bị can và quyết định phê chuẩn sau bao gồm: Phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; phê chuẩn quyết định KTBC, thay đổi, bổ sung quyết định KTBC. Quyết định phê chuẩn trước là việc bắt buộc các quyết định của CQĐT phải được gửi cho VKS xem xét việc phê chuẩn hay không phê chuẩn trước khi thi hành. Nếu VKS phê chuẩn quyết định đó thì mới được thi hành, nếu VKS không phê chuẩn thì quyết định đó không có hiệu lực và không được thi hành. Các quyết định (lệnh) gia hạn tạm giữ, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét và lệnh tạm giam bị can do người có thẩm quyền (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT) quyết định và phải được gửi cùng các tài liệu có liên quan đến VKS cùng cấp để xét phê chuẩn và trong một thời hạn theo quy định của BLTTHS, VKS phải có trách nhiệm ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Quyết định phê chuẩn sau là việc phê chuẩn của VKS được tiến hành sau khi CQĐT đã ra quyết định và đã thi hành quyết định đó. Đó là các trường hợp xét phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; quyết định KTBC [35, tr.6].

Có thể thấy rõ điểm chung lớn nhất của các quyết định của CQĐT cần phải có sự phê chuẩn của VKS là chúng đều là các hoạt động mang tính cưỡng chế, khi thi hành chúng đồng nghĩa với việc hạn chế hoặc là tiền đề để hạn chế đáng kể các quyền, tự do đối với công dân. Như vậy mục đích của việc phê chuẩn trong TTHS là nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động mang tính chất cưỡng chế bất lợi về quyền tự do đối với công dân của CQĐT; đảm bảo việc áp dụng các biện pháp này là hợp pháp và cần thiết. Thông qua việc phê chuẩn VKS có thể ngăn chặn những hành động xâm phạm các quyền của công dân không được pháp luật cho phép; ngăn ngừa sự lạm quyền, lạm dụng các biện pháp cưỡng chế của CQĐT.

Như vậy, có thể hiểu khái niệm hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS là việc VKS xem xét các quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong giai đoạn điều tra các VAHS theo quy định của BLTTHS để ra quyết định cho phép hoặc không cho phép CQĐT cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan được tiến hành một số hoạt động TTHS, nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo tính hợp pháp và cần thiết của các quyết định TTHS, ngăn ngừa việc lạm dụng các biện pháp cưỡng chế của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

1.1.1.2. Ý nghĩa hoạt động phê chuẩn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

Hoạt động phê chuẩn trong TTHS là sự thể hiện quyền giám sát của VKS và mối quan hệ vừa chế ước, vừa phối hợp giữa VKS và CQĐT. Hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho hoạt động điều tra hình sự với nhiều biện pháp cưỡng chế thường xuyên được áp dụng diễn ra trong phạm vi pháp luật cho phép. Với nhiệm vụ của mình, VKS chỉ được phép phê chuẩn các quyết định của CQĐT khi xét thấy quyết định đó đáp ứng đủ các điều kiện là phù hợp với quy định của pháp luật và cần thiết cho việc điều tra giải quyết vụ án cụ thể đó.

– Ý nghĩa pháp lý: Pháp luật TTHS quy định quyền phê chuẩn của VKS là nhằm đòi hỏi những lệnh, quyết định đó được ban hành phải đúng quy định. Với nhiệm vụ của mình, VKS chỉ được phép phê chuẩn các lệnh, quyết định của cơ quan có thẩm quyền điều tra khi các lệnh, quyết định đó là phù hợp với quy định của pháp luật và cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Thực hiện tốt hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS làm cho các quyết định của cơ quan có thẩm quyền điều tra có hiệu lực thi hành, đảm bảo tính hợp pháp và cần thiết của các lệnh, quyết định đó.

– Ý nghĩa chính trị: Hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS góp phần đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đó là Hiến pháp và luật được thượng tôn, tính tối thượng của Hiến pháp và luật được thừa nhận. Nguyên tắc thượng tôn pháp luật của Nhà nước pháp quyền đòi hỏi khách quan hệ thống cơ quan tư pháp phải mở rộng và tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát xã hội của mình; trong đó VKS là một trong những thành tố của hệ thống tư pháp có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong phạm vi cả nước. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước mà ở đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đề cao, tôn trọng và bảo đảm các quyền con người. Quyền công dân chính là quyền con người trong một xã hội cụ thể được thể hiện, ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật của một nhà nước cụ thể. Nhà nước quy định hệ thống những bảo đảm, bảo vệ quyền và tự do của công dân. Hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho các quyền, tự do của công dân được tuân thủ và thực thi một cách hiện thực, chống lại các hành vi xâm phạm từ bất kỳ ai mà trước hết là từ sự lạm quyền của cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình. So với nhiều cơ quan nhà nước khác, VKS với vị trí, chức năng và nhiệm vụ của mình có khả năng to lớn trong việc bảo vệ quyền con người, ngăn chặn vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích bị vi phạm, yêu cầu áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm. Hoạt động của VKS trong TTHS phản ánh điển hình nhất, đậm nét nhất vai trò này. Tham gia trong TTHS, VKS thực hành quyền công tố để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân, chống lại hành vi tội phạm. Lĩnh vực hoạt động TTHS là lĩnh vực mà trong đó việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hạn chế các quyền tự do hiến định của công dân như tạm giam, khám xét nhà ở, thân thể, thư tín… là cần thiết, không thể tránh khỏi và có tính phổ biến nhưng việc áp dụng những biện pháp này phải trên cơ sở các quy định của BLTTHS. Phê chuẩn của VKS là bảo đảm cần thiết loại trừ những trường hợp hạn chế các quyền tự do của công dân không có căn cứ và không đúng với quy định của BLTTHS.

– Ý nghĩa xã hội: Hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS góp phần đáp ứng yêu cầu của người dân vào sự nghiêm minh, chính xác, đúng pháp luật, có căn cứ của các hoạt động của cơ quan THTT. Hoạt động phê chuẩn của VKS trong TTHS được thực hiện đúng đắn, chính xác giúp củng cố lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tư pháp, vào chính sách của Đảng, Nhà nước để đảm bảo trật tự xã hội, sự vững mạnh của Nhà nước. Thực hiện tốt việc phê chuẩn sẽ góp phần làm cho hoạt động điều tra diễn ra khách quan hơn, xác định chính xác tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, phòng ngừa và hạn chế oan, sai bỏ lọt tội phạm xảy ra trong hoạt động TTHS.

1.1.2. Những biện pháp tố tụng hình sự cần phê chuẩn của Viện kiểm sát

1.1.2.1. Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự

Các BPNC được quy định trong BLTTHS năm 2015 là những quan hệ mang tính cưỡng chế bắt buộc, một bên là Cơ quan THTT (CQĐT, VKS, Tòa án) có quyền ra lệnh và một bên là người bị buộc tội có (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có nghĩa vụ phải thi hành. BPNC trong TTHS là biện pháp cưỡng chế do cơ quan quan THTT áp dụng đối với người bị buộc tội nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa người bị buộc tội tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. BPNC là chế định pháp lý quan trọng của BLTTHS, là một nhóm biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc, khi áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân. Điều 109 các BPNC trong BLTTHS năm 2015, quy định có tất cả 08 (tám) BPNC là: biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biện pháp bắt (được áp dụng trong các trường hợp bắt người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can để tạm giam, bắt bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ); biện pháp tạm giữ; biện pháp tạm giam; biện pháp bảo lĩnh; biện pháp đặt tiền để bảo đảm; biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; biện pháp tạm hoãn xuất cảnh [31, tr.70].

1.1.2.2 . Các biện pháp tố tụng hình sự khác

Bên cạnh một số BPNC cần có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành thì nhóm các biện pháp tố tụng, bao gồm: Giải quyết nguồn tin về tội phạm; KTBC; lấy lời khai người làm chứng; khám xét; thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính viễn thông; biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; buộc nộp một khoản tiền để đảm bảo thi hành án,.. bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đấu tranh PCTP và VPPL; phê chuẩn của VKS trong các trường hợp này hợp lý, khoa học là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ này, đồng thời tăng cường trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trong việc phát hiện và xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động TTHS.

1.2. Lược sử các quy định về hoạt động phê chuẩn của Viện kiểm sát trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960

Ngay sau khi chính quyền cách mạng được thành lập tháng 9/1945, để đáp ứng các yêu cầu của tình hình chính trị phức tạp, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cách mạng Việt Nam đã ban hành ngay Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 về việc thành lập các TAQS ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam để xét xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì đó có phương hại đến nền độc lập của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Sắc lệnh số 37/SL ngày 26/9/1945 về việc quy định thẩm quyền theo lãnh thổ cho các TAQS. Hệ thống TAQS này đã thay thế TA dân chúng hoặc TAQS thời tiền khởi nghĩa và trở thành vũ khí tư pháp sắc bén để trấn áp, trừng trị những thế lực thù địch và bảo vệ thành quả cách mạng [21, tr.17].

Đối với vấn đề bảo vệ các quyền tự do cá nhân của công dân, ngay sau đó, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 trong đó quy định những người có thẩm quyền bắt, khám xét, giam giữ … đối với những người có hành vi VPPL thuộc thẩm quyền của Thẩm phán viên. Tiết 1 Điều 1 Sắc lệnh số 40 quy định: “Chỉ trừ khi nào có sự phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng tội còn bao giờ bắt người cũng cần phải có lệnh của Thẩm phán viên”, Điều 3 quy định: “Việc giam cứu trước khi xử, bao giờ cũng do các cơ quan tư pháp quyết định”. Tại tiết II Sắc lệnh quy định về “những phương pháp đề phòng đặc biệt”, Điều 7 cho phép “Trong tình thế đặc biệt hiện thời và cho đến khi có lệnh khác, Chủ tịch ủy ban hành chính kỳ đặc cách được phép lệnh bắt những người xét ra lời nói hay việc làm có thể làm hại cho sự đấu tranh giành độc lập, cho chế độ dân chủ, cho sự an toàn của công chúng và sự đoàn kết của quốc gia …”. Như vậy, Sắc lệnh này cho phép trong trường hợp đặc biệt, cơ quan hành chính có thể ra lệnh bắt người không phải là phạm tội quả tang nhưng vẫn phải được sự đồng ý của một hội đồng trong đó có sự hiện diện của đại diện cơ quan tư pháp. Chế định này tương tự như việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS hiện nay [21, tr.18].

Theo các văn bản: Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1046 về ấn định thẩm quyền các TA và sự phân công giữa các nhân viên trong TA; Sắc lệnh số 23 ngày 21/2/1946 về thành lập Việt Nam công an vụ; Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 về Tổ chức tư pháp công an thì Tư pháp công an có nhiệm vụ “truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang chứng, bắt giao người phạm pháp cho các TA xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định”. Tư pháp công an vụ gồm có: Phụ trách tư pháp công an là Dự thẩm, Biện lý và Phó biện lý; ủy viên tư pháp công an gồm: Thẩm phán sơ cấp, Chủ sự và Phó chủ sự phòng chính trị và phòng tư pháp, Trưởng ban chính trị và ban tư pháp cùng quận trưởng các quận công an, trưởng ty công an tỉnh, Kiểm soát viên kiểm lâm, Hỏa xa, Thương chính và tất cả các viên chức mà pháp luật giao phó cho nhiệm vụ tư pháp công an đối với những việc phạm pháp riêng của từng ngành. Như vậy tư pháp công an chính là cơ quan có chức năng điều tra các VAHS, là tiền thân của CQĐT ngày nay. Điều thứ 5 Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán quy định: “Những ủy viên tư pháp công an về phương diện tư pháp công an đều đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Biện lý hay Thẩm phán viên nào giữ chức vụ biện lý (còn được gọi là Thẩm phán buộc tội) ở những tỉnh không có Biện lý. Biện lý có quyền ra chỉ thị và kiểm soát công việc của tất cả các ủy viên tư pháp công an”. Trong giai đoạn này, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật được gia cho Viện Công tố – tiền thân của VKS ngày nay. Như vậy, khi cơ quan công tố chưa được tổ chức độc lập thì vai trò kiểm soát, chỉ đạo hoạt động điều tra do Biện lý hay Thẩm phán giữ chức vụ biện lý là người thực hiện quyền buộc tội đảm nhiệm. Việc phê chuẩn trong TTHS tuy chưa được quy định một cách hệ thống và cụ thể trong các văn bản pháp quy nhưng những hoạt động mang tính chất như phê chuẩn đối với một số quyết định, hoạt động trong giai đoạn điều tra các VAHS đã được quy định và thực hiện. Các quy định này nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt người, khám xét được kiểm soát chặt chẽ, phòng tránh việc lạm quyền của Ủy ban hành chính.

Có thể thấy rằng trong giai đoạn này, do Nhà nước dân chủ cộng hòa mới được thành lập, nhiều nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi phải giải quyết nên công tác lập pháp chưa có được nhiều thành tựu. Quy định về phê chuẩn trong TTHS nói riêng cũng như các quy định của pháp luật nói chung cũng như việc tổ chức bộ máy nhà nước còn thể hiện rõ nét dấu ấn kế thừa những quy phạm của chính quyền trước Cách mạng tháng Tám nhưng phù hợp với Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, với việc đánh đuổi hoàn toàn giặc Pháp tại miền Bắc Việt Nam, giai đoạn này có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt trong đó không thể phủ nhận sự phát triển của công tác lập pháp. Hiến pháp năm 1959 rồi sau đó là Hiến pháp năm 1980 đã xác định rõ đường lối phát triển của nước ta là đi lên XHCN. Tổ chức bộ máy nhà nước theo đó dần được hoàn thiện, các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước tương ứng đã được phân định cụ thể và tương đối rạch ròi, trong đó gần như xóa hẳn các dấu vết của hệ thống pháp luật trước tháng 9/1945. Viện Công tố (nay là VKSND) đã ra đời và được tổ chức theo ba cấp trên cả nước để đảm bảo thực hiện chức năng công tố cũng như thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật. Cùng với một loạt các văn bản pháp luật mới khác được ban hành trong đó có Luật tổ chức VKSND năm 1960. Cơ quan thực hiện chức năng công tố được thành lập, chính thức tách khỏi bộ máy của hệ thống TA. Hệ thống VKSND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc, vừa chịu sự lãnh đạo của VKS cấp trên về chuyên môn nghiệp vụ, vừa chịu sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính cùng cấp. Trong TTHS, VKS có chức năng: Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước TAND những người phạm pháp về hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan công an và CQĐT khác. Các bản Hiến pháp trong thời kỳ này là Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 đều quy định: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của TA, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND trừ những trường hợp phạm tội quả tang. Tuy nhiên, các quy định về pháp luật TTHS lại chưa được hệ thống hóa thành Bộ luật mà nằm rải rác ở nhiều văn bản. Trong giai đoạn này, các thủ tục TTHS vẫn chủ yếu thực hiện theo các quy định trong các văn bản được ban hành trong giai đoạn trước như: Luật số 103 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Sắc luật số 002 ngày 18/6/1957 quy định về những trường hợp phạm pháp quả tang, khẩn cấp và bổ sung quy định Điều 10 của Luật số 103; Sắc luật số 2 ngày 15/3/1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định sáu trường hợp được bắt khẩn cấp. VKSND từ cấp huyện trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán TAND có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội trong những VAHS đang thụ lý; Trưởng và Phó CAND từ cấp tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội; lệnh phải được sự phê chuẩn chính xác của VKS. Các quy định này dù có tản mạn nhưng đã có tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh PCTP của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong suốt một thời gian dài. Tuy nhiên, qua thực tế thực hiện, hệ thống các quy định về bắt, giam, giữ cũng như các quy định về KTBC vẫn chưa đầy đủ và chặt chẽ đã bộc lộ nhiều sơ hở nên dẫn đến tình trạng bắt người tràn lan, lạm dụng bắt khẩn cấp và tạm giam quá hạn còn nhiều, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại đòi hỏi cần phải được khắc phục triệt để.

1.2.3. Giai đoạn từ Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Năm 1988, BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra đời. Lần đầu tiên các quy định về TTHS được pháp điển hóa trong một Bộ luật mang tính hệ thống, thống nhất cao, trong đó có quy định về quyền phê chuẩn của VKS đối với các lệnh, quyết định của CQĐT. BLTTHS năm 1988 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra tập trung chủ yếu ở Điều 141, trong đó không phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra. Tại điểm a khoản 3 Điều 141 BLTTHS năm 1988 quy định VKS có quyền “Phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT đã được quy định trong Bộ luật này”. Qua ba lần sửa đổi, bổ sung và được thông qua vào các năm 1990, 1992 và 2000 các quy định về các biện pháp cưỡng chế trong TTHS và việc phê chuẩn của VKSND cũng ngày càng hoàn thiện hơn. Theo quy định của BLTTHS năm 1988, những quyết định của CQĐT phải được VKS xét phê chuẩn gồm: Lệnh bắt bị can để tạm giam (Điều 62); việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 63); gia hạn tạm giữ (Điều 69); lệnh tạm giam bị can (Điều 70); quyết định cho đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm (Điều 76); lệnh khám xét (Điều 116); lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện (Điều 119) [9, tr.25].

Các quy định về BPNC như bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt bị can để tạm giam đã được pháp điển hóa trên cơ sở các quy định trước đây. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 62 BLTTHS năm 1988 khá chặt chẽ về thẩm quyền, thủ tục thi hành lệnh bắt. Lệnh bắt của Trưởng công an, Phó Trưởng công an cấp huyện; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp trong quân đội nhân dân phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp đã được quy định khá chặt chẽ về căn cứ bắt gồm ba trường hợp được bắt khẩn cấp, thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp mà sau này BLTTHS năm 2003 vẫn giữ nguyên. Theo đó, trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản để xét phê chuẩn, nếu VKS không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt. Đối với các BPNC do CQĐT áp dụng như quyết định gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam, quyết định cho đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm BLTTHS năm 1988 cũng quy định đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Điều 77 BLTTHS năm 1988 còn quy định: “Đối với những BPNC do VKS phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế phải do VKS quyết định”. Các biện pháp cưỡng chế khác trong điều tra của CQĐT là lệnh khám xét người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu kiện, bưu phẩm; lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện theo Điều 116 và Điều 119 BLTTHS năm 1988 cũng đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, trừ các trường hợp “không thể trì hoãn” thì sau khi khám xong hoặc sau khi thu giữ CQĐT phải thông báo ngay cho VKS cùng cấp. Như vậy, BLTTHS năm 1988 đã quy định tương đối đầy đủ và chặt chẽ về quyền phê chuẩn của VKS đối với một số biện pháp cưỡng chế do CQĐT áp dụng trong TTHS [9, tr.27].

BLTTHS năm 1988 là BLTTHS đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện BLTTHS năm 1988 cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập nói chung và về hoạt động phê chuẩn của VKS nói riêng. Để đáp ứng kịp thời yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh PCTP trong từng thời kỳ và từng bước thể chế hóa một số quan điểm về cải cách tư pháp ở nước ta việc sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS là cần thiết, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đấu tranh PCTP và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân [14, tr.3].

Ngày 26/11/2003, BLTTHS mới được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua, thay thế cho BLTTHS năm 1988. Các quy định về việc xét phê chuẩn của VKS đối với các lệnh, quyết định của CQĐT cũng được xây dựng theo hướng quy định cụ thể hơn về thời gian để xét phê chuẩn khi nhận được đề nghị của CQĐT với tinh thần việc xét phê chuẩn phải khẩn trương, kịp thời nhưng chặt chẽ [20, tr.3]. BLTTHS năm 2003 đã dành hẳn Chương III: Cơ quan THTT, người THTT và việc thay đổi người THTT để quy định về các chủ thể được nhà nước giao thẩm quyền tiến hành giải quyết VAHS. Đối với nhóm chủ thể là người THTT, Bộ luật này quy định rõ tất cả các chủ thể là người THTT thuộc cả ba cơ quan THTT và trong Chương III cũng có các điều luật riêng quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng người THTT trong quá trình giải quyết các VAHS. Tuy nhiên, trong BLTTHS năm 2003 chưa có chế định riêng hệ thống hóa các nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi chủ thể cơ quan THTT mà chỉ có các quy định rời rạc về các nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan này tại mỗi giai đoạn tố tụng hoặc các nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan này tại mỗi giai đoạn tố tụng hoặc các nhiệm vụ, quyền hạn của những người THTT thuộc các cơ quan đó. Do đó, khi xem xét các quyền hạn, nhiệm vụ của mỗi cơ quan THTT theo quy định tại Bộ luật này có thể nghiên cứu các nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể là người THTT thuộc mỗi cơ quan tương ứng cũng như các quy định về quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan này trong các Luật tổ chức như Luật tổ chức TAND năm 2002, Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004… Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì trong CQĐT có hai nhóm chủ thể là người THTT trong các VAHS đó là: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và ĐTV; nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT trong TTHS được thể hiện trong các quy định của BLTTHS vẫn chưa có sự phân tách rõ ràng giữa thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của các chủ thể là người THTT. Các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT rất nhiều nhưng không phải hoạt động nào cũng cần phải có sự phê chuẩn của VKS. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì chỉ các hoạt động sau đây của CQĐT cần phải có sự phê chuẩn của VKS: Lệnh bắt khẩn cấp; Quyết định gia hạn tạm giữ; Quyết định KTBC; Quyết định thay đổi quyết định KTBC; Quyết định bổ sung quyết định KTBC; Lệnh tạm giam; Lệnh bắt bị can để tạm giam; Quyết định đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; Lệnh khám xét; Lệnh thu giữ điện tín, bưu kiện bưu phẩm.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 12\SAU BAO VE/ HOANG THI THANH MIN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *