Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm

Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm

“Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ của tố tụng hình sự. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những nội dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng và công khai giữa những người tham gia tố tụng và kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, là căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án, là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong hoạt động xét xử thì tranh tụng chiếm vị trí rất quan trọng. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó có nêu: “…Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, Người bào chữa, và những người tham gia tố tụng khác…, việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, Bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định…” [7, tr.3]. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “tranh tụng” được chính thức ghi nhận và là điểm nhấn trong tiến trình cải cách tư pháp, tạo sự đổi mới về “chất” của công tác xét xử, góp phần nâng cao tính công bằng, khách quan và đúng pháp luật cho các phán quyết của Toà án.

Trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề ra: “…nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…” [8, tr.5]. Rõ ràng các Nghị quyết của Bộ Chính trị đã xác định tranh tụng tại phiên toà là rất quan trọng, quyết định và phải khẩn trương nâng cao chất lượng tranh tụng.

Chủ trương mở rộng, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà là chủ trương đúng đắn, nâng cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng công việc của các cơ quan tư pháp. Thực tiễn tranh tụng tại các phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và Tòa án nhân dân huyện Tuy An nói riêng cho thấy tranh tụng tại phiên toà còn mang tính hình thức. Tranh tụng tại phiên toà hình như được hiểu là chỉ bó gọn trong phần tranh luận và ngay trong phần tranh luận này, chất lượng tranh tụng của các phiên toà cũng không đồng đều, có phiên toà thực hiện tranh tụng tốt, nhưng cũng có nhiều phiên toà tranh tụng còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được yêu cầu là các bản án, phán quyết của Toà án phải dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên toà như tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW đã nêu. Từ thực trạng trên đặt ra việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề về tranh tụng trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay nhằm đề xuất một số giải phù hợp với thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của huyện Tuy An nói riêng là hết sức cần thiết.

Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về tranh tụng và đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, đề xuất những giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự, hướng tới xây dựng một phiên tòa thực sự bình đẳng, dân chủ, công bằng, góp phần thực hiện quá trình cải cách tư pháp.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự;

+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ 2015 đến 2019;

+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Từ thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An, Phú Yên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2015 đến 2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn không nghiên cứu hoạt động tranh tụng ở các VKS địa phương khác, cũng như không đề cập đến tranh tụng trong lĩnh vực tố tụng dân sự, trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phúc thẩm và hoạt động tranh tụng trong các cơ quan tư pháp quân sự.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp cụ thể được áp dụng là: Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn, tổng kết để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn, trong chừng mực, góp phần làm cơ sở tham khảo cho việc nghiên cứu, phục vụ yêu cầu thực tiễn đánh giá, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục chữ cái viết tắt, nội dung luận văn được kết cấu thành 03 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Chương 2. Quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thi hành tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

Chương 3. Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ

    1. 1.1. Khái niệm và đặc điểm về hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm

Tranh tụng hiểu theo nghĩa cơ bản nhất theo Từ điển tiếng Việt thì chính là sự kiện cáo nhau [47, tr.1654]. Đó là tranh luận giữa hai bên có lập trường tương phản nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử . Tuy nhiên, đây là cách hiểu thông thường, và ở khía cạnh này, thuật ngữ tranh tụng được dùng để nói chung trong tất các các hình thức tố tụng như: dân sự, hình sự, hành chính… [50, tr.10]. Tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà người đứng ra phân xử trong cuộc tranh đấu này chính là Tòa án [50, tr.11].

Xét về mặt lịch sử, tranh tụng hình sự là một nội dung cụ thể của nền tư pháp tranh tụng hình thành từ thời cổ đại mà tư tưởng của nó bắt nguồn từ nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp là Plato [53, tr.9]. Ông cho rằng “Bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện, và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật” [53, tr.9]. Ý tưởng này của Plato được các Luật gia Hy Lạp cổ đại phát triển và xây dựng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS ở Nhà nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc này được đưa vào áp dụng ở La Mã và các quốc gia khác ở Châu Âu, với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” [16, tr.3]. Như vậy, vấn đề tranh tụng đã được đề cập từ rất lâu trong lịch sử tư pháp, bản chất của nó là hoạt động đối đáp liên tục giữa các bên có lợi ích đối kháng nhau trước người trọng tài đóng vai trò phân xử để đi tìm chân lý.

Bên cạnh đó, xét về khía cạnh thuật ngữ pháp lý, tranh tụng được hiểu theo ba nội dụng khác nhau: thứ nhất được hiểu là một mô hình tố tụng; thứ hai được hiểu là một nguyên tắc thuộc tố tụng hình sự; thứ ba được hiểu là phương thức, là giai đoạn thực hiện vai trò của các chức năng đối lập nhau và có quyền ngang nhau trong tố tụng hình sự hay còn gọi là hoạt động tranh tụng [49, tr.21]. Dù hiểu theo nghĩa nào thì tranh tụng luôn có bản chất là cách thức đi tìm sự thật khách quan của vụ án mà hoạt động tố tụng hình sự luôn muốn hướng tới. Theo nhiều luật gia, phương thức tranh tụng là phương thức có ưu điểm nhất trong việc vừa có thể tìm ra sự thật khách quan của vụ án vừa có thể bảo vệ hữu hiệu quyền con người của người buộc tội và chống oan sai, có thể hiểu: “Tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia[45, tr.8].

Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể trong việc thực hiện quá trình tranh cãi bình đẳng dựa trên chứng cứ, quy định của pháp luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó tìm ra sự thật khách quan của vụ án [45, tr.8]. Như vậy, tranh tụng trong tố tụng hình sự thực chất là quá trình vận động tác động qua lại giữa hai chức năng cơ bản của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa [38, tr.9]. Chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng này được tạo điều kiện “bình đẳng” với nhau trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự [38, tr.9].

Nguyên tắc này được thừa nhận rộng rãi trên thế giới không chỉ ở những nước có mô hình tố tụng tranh tụng mà còn ở những nước có mô hình tố tụng pha trộn (ví dụ như ở Việt Nam) [38, tr.9]. Tuy có sự thể hiện ở các mức độ khác nhau, mặc dù có thể được thể hiện hoặc chưa thể hiện trong văn bản pháp luật cụ thể là BLTTHS thì nguyên tắc tranh tụng vẫn đang là cơ sở định hướng cho việc xây dựng quy định của BLTTHS cũng như thực hiện quá trình giải quyết vụ án để tìm ra sự thật khách quan.

Mặc dù đã xuất hiện và được thừa nhận từ rất lâu trong lịch sử tư pháp ở các nước phát triển khác, nhưng vấn đề tranh tụng cũng như nguyên tắc tranh tụng rất ít được nghiên cứu ở Việt Nam và đặc biệt cho đến trước năm 2013 thì nó chưa được thừa nhận trong các văn bản pháp lý chính thức của Nhà nước [50, tr.12]. Sự thừa nhận mang tính sơ khai đầu tiên về tranh tụng ở Việt Nam trong các văn bản chính thức của Đảng đó chính là Nghị quyết 08/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, xác định“…việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo …để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định” [50, tr.13]. Tiếp theo đó, vấn đề tranh tụng tiếp tục được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thể hiện, theo đó: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp” [50, tr.13]. Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng tiếp tục được thể chế hóa ở Hiến Pháp 2013, tại khoản 5 Điều 103 quy định” nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” [50, tr.11]. Nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được cụ thể hóa tại Điều 26 và Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định: “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hinh sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa… Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án” [36, tr.274].

Từ đó chúng ta có thể đưa ra khái niệm Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự” đó là, quá trình tác động qua lại bằng việc tranh luận, đối đáp giữa KSV với các chủ thể khác từ khi khai mạc phiên tòa cho đến khi kết thúc phần tranh luận nhằm làm sáng rõ sự thật khách quan, làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án, bảo vệ quan điểm của VKS trong Cáo trạng, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm

Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự (STVAHS) là một hoạt động đặc biệt, thể hiện ở một số đặc điểm sau đây:

– Khi tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, KSV là một chủ thể tranh luận đặc biệt. Bởi vì KSV tranh luận với tư cách nhân danh công quyền, đưa ra sự cáo buộc công khai đối với Bị cáo về hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại, bảo vệ pháp chế và kỷ cương xã hội. Trong khi đó, Bị cáo, Người bào chữa, Bị hại, Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Người đại diện hợp pháp và Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người tham gia tranh luận với tư cách là cá nhân công dân, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân họ hoặc người họ đại diện mà thôi.

Sự đặc biệt còn thể hiện ở chỗ sự bắt buộc có mặt tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của KSV. Theo quy định của BLTTHS thì tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự có mặt của những người tham gia tố tụng là không bắt buộc 100%, trong nhiều trường hợp tuy họ vắng mặt nhưng phiên tòa vẫn được tiến hành xét xử. Nhưng sự có mặt của KSV là bắt buộc, nếu KSV vắng mặt thì trong mọi trường hợp phải hoãn phiên tòa.

-Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, KSV không chỉ là chủ thể tranh tụng mà còn là chủ thể kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nhiệm vụ này xuất phát từ chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Những chủ thể tranh tụng khác như Bị cáo, Người bào chữa, Người bị hại… là đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa. KSV tiến hành kiểm sát việc tranh tụng theo các nội dung như: tư cách chủ thể, trình tự, nội dung và phạm vi tranh tụng theo quy định của BLTTHS. Như vậy, khi tranh tụng tại phiên tòa, KSV là người áp dụng và tuân thủ pháp luật, đồng thời giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể khác.

– Phải tôn trọng sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình đối đáp tranh luận, Kiểm sát viên không nên tranh luận theo ý thức chủ quan của mình, mà phải dựa trên cơ sở, tình tiết, chứng cứ khách quan của vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở căn cứ quy định của pháp luật để đưa ra quan điểm tranh luận với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

– Phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa KSV với người tham gia tố tụng. HĐXX phải tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày đầy đủ ý kiến của mình [50, tr.14]. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phải bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, đề nghị không có căn cứ pháp luật [50, tr.14].

– Quá trình tranh tụng phải đề cao và tôn trọng nguyên tắc “thượng tôn pháp luật”. Khi đối đáp tranh luận, đòi hỏi các bên phải căn cứ trên cơ sơ pháp luật. Nhất là đối với Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, cũng là cơ quan bảo vệ pháp luật; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân, đảm bảo việc xử lý phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để oan, sai thì càng đòi hỏi việc tranh luận phải trên cơ sở các quy định của pháp luật. Tuyêt đối không được tranh luận theo kiểu nể nang hay vì động cơ cá nhân khác mà suy diễn, áp đặt ý thức chủ quan của mình khi đối đáp tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa.

– Đảm bảo tính văn hóa trong đối đáp tranh luận. Kiểm sát viên khi tranh luận sử dụng những ngôn từ có tính văn hóa, dễ hiểu. Nghĩa là phương pháp đối đáp phải nhẹ nhàng, lịch sự, có sức thuyết phục cao đối với người nghe. Không nên sử dụng ngôn từ mang tính đả kích, tự cao, xem thường người phát biểu tranh luận với mình, hay có thái độ cau có, gay gắt, quát nạt… Không được lợi dụng việc tranh luận để đã kích, cải vã tay đôi tại phiên tòa, làm ảnh hưởng đến vị thế của Kiểm sát viên và của Ngành.

    1. 1.2. Cơ sở và các tiêu chí đánh giá về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

Thứ nhất, về cơ sở lý luận

Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự  là một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, là yêu cầu cấp bách trong việc đảm bảo tính công bằng dân chủ giữa người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án đúng đắn, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như  Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 v.v… đã xác định tầm quan trọng của tranh tụng trong xét xử, coi nội dung này là một trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp [8, tr.5].

Quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tranh tụng đã được thể chế hóa ở Hiến pháp 2013 [50, tr.15]. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp quy định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [50, tr.15]. Như vậy, lần đầu tiên, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận thành một nguyên tắc, thể hiện bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật và phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta [50, tr.15].   

“Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 và cụ thể hóa tại Điều 322 BLTTHS năm 2015 quy định: “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hinh sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa… Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án[36, tr.274].

Như vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử hình sự; các qui định của Bộ luật TTHS và qui định của Hiến pháp 2013, chúng tôi nhận thấy khái niệm tranh tụng xuất hiện đầu tiên và chính thức là từ các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, gần đây được Hiến pháp qui định. Tranh tụng  được hiểu với nghĩa không phải là một kiểu mô hình tố tụng mà là hoạt động tranh luận của KSV và những người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự, cụ thể là tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự. Trong đó, KSV và người tham gia tố tụng dựa trên các tài liệu, chứng cứ; các qui định của pháp luật; trên cơ sở tư duy logic hình thức để đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [50, tr.16].

Từ khái niệm nêu trên, bản chất của khái niệm “tranh tụng” được nhìn dưới hai góc độ pháp lý và nhận thức; dưới góc độ pháp lý, bản chất của tranh tụng gồm có các nội dung cơ bản sau đây [50, tr.16]:

– Tranh tụng là hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng phải tuân theo các qui định của Bộ luật TTHS [39, tr.5].

 – Chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng khác; các chủ thể xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án; Kiểm sát viên có thể tranh tụng với người bào chữa, với bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của đối tượng tranh tụng [50, tr.19].

 – Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiển của chủ toạ phiên toà; Chủ tọa phiên toà có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng hoặc chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật và sự cần thiết làm rõ các vấn đề của vụ án [50, tr.20].

“Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên
“Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

– Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án; sự thật khách quan này bao gồm sự thật như nó đã diễn ra trên thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ pháp lý (dưói góc độ đánh giá trên cơ sở pháp luật hình sự và TTHS) [50, tr.20].

– Đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm, luận cứ và luận chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án [53, tr.7].

 – Cách thức tranh tụng là các bên chủ thể tranh tụng sử dụng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ mới cung cấp đã được kiểm tra tại phiên tòa, các qui định của pháp luật hiện hành để làm rõ các đối tượng tranh tụng [29].

Dưới góc độ coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức; bản chất của tranh tụng có các nội dung sau [50, tr.14]:

+ Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên tranh tụng có thể sử dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau để khẳng định quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên tranh tụng đối lập [50, tr.14].

+ Tranh tụng không chỉ là quyền, là trách nhiệm của các bên tham gia tranh tụng mà còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Nói cách khác, tranh tụng không chỉ là phương tiện để đạt được sự thật khách quan mà tranh tụng còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Chân lý về vụ án phải tìm thấy, có được thông qua tranh tụng. Tất nhiên, thuộc tính này của tranh tụng là xét về nguyên tắc. Với những vụ án mà bị cáo nhận tội và có đủ chứng cứ để khẳng định lời nhận tội của bị cáo là có cơ sở, tại phiên toà không có những quan điểm xung đột thì không phát sinh tranh tụng hoặc nếu có thì chỉ ở mức độ nhất định [50, tr.14].

* Nguyên tắc tranh tụng

Nguyên tắc là tư tưởng có giá trị làm nền tảng, làm cơ sở cho những thiết chế và hoạt động. Nguyên tắc trong một quan hệ pháp luật tố tụng là những tư tưởng pháp lý làm nền tảng, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực thi pháp luật trong lĩnh vực tố tụng  đó [50, tr.14].

Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc [50, tr.15]. Nội hàm của nguyên tắc tranh tụng có các nội dung cơ bản sau:

+Hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa KSV với những người tham gia tố tụng khác; tranh tụng là trọng tâm của hoạt động xét xử [50, tr.15];

+Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu; đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng của mình; bình đẳng trong đối đáp, tranh luận, chứng minh, bác bỏ quan điểm lần nhau [50, tr.15].

+ KSV và người tham gia tranh tụng phải tranh tụng với tinh thần trách nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và qui định của pháp luật; với tinh thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử [50, tr.15].

+Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các luận điểm, luận cứ và luận chứng của các bên tranh tụng [50, tr.15].

+Toà án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên tham gia tranh tụng [50, tr.15].

Với các nội dung trên thì phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc tranh tụng chủ yếu là tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự; bắt đầu từ khi Toà án mở phiên toà cho đến khi kết thúc phiên toà và tập trung trong phần tranh luận của KSV với những người tham gia tố tụng…[50, tr.16]

* Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự [50, tr.10]

KSV là chủ thể chính của tranh tụng. Tranh tụng vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của KSV [50, tr.13]. Mục đích của tranh tụng của KSV có mục đích trước mắt và mục đích cuối cùng [50, tr.13]. KSV tranh tụng trước hết nhằm mục đích bảo vệ tính đúng đắn, khách quan, tính hợp pháp và có căn cứ của quan điểm truy tố (thể hiện trong bản cáo trạng). Nói cách khác, xuất phát điểm của tranh tụng của KSV với những người tham gia tố tụng khác là nhằm bảo vệ tính có căn cứ, hợp pháp của quan điểm truy tố [50, tr.29]. Tranh tụng của KSV suy cho cùng là nhằm bảo vệ sự thật khách quan của vụ án (chân lý về vụ án) [50, tr.29]. Khi tranh tụng, KSV xuất phát điểm là nhằm bảo vệ quan điểm truy tố, do vậy các luận điểm, luận cứ và luận chứng là nhằm thực hiện mục đích này. Tuy nhiên thông qua tranh tụng, KSV có thể phát hiện ra những nội dung bất hợp lý, thiếu căn cứ hoặc không phù hợp pháp luật của quan điểm truy tố [50, tr.29]. Nếu đủ cơ sở, KSV sẽ xử lý các tình huống phát sinh nói trên theo qui định của pháp luật TTHS; cụ thể như: Có thể đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung; rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; chuyển tội danh nhẹ hơn hoặc thay đổi khung khoản truy tố phù hợp với thẩm quyền xét xử của HĐXX (ở cấp sơ thẩm) [50, tr.30].

Hoạt động tranh tụng của KSV chủ yếu thực hiện tại phiên toà, tập trung ở giai đoạn tranh luận. Tuy nhiên để tranh tụng tốt thì KSV phải thực hiện đầy đủ và có chất lượng việc xét hỏi, vì xét hỏi chính là để làm rõ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, làm rõ cơ sở để bảo vệ quan điểm truy tố. Nhìn chung, để đảm bảo tranh tụng có chất lượng tốt thì KSV phải đáp ứng được các điều kiện bắt buộc để tranh tụng, phải thực hiện tốt nhiều hoạt động mang tính chất chuẩn bị trước khi tham gia phiên toà, phải có các kỹ năng nghiệp vụ khi tham gia tranh tụng, có tinh thần trách nhiệm, có lương tâm và danh dự nghề nghiệp [50, tr.30].

Cơ sở thực tiễn,

Để thực hiện tốt hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, nắm chắc các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, am hiểu kỹ năng nghiệp vụ, vận dụng linh hoạt vào việc xử lý tình huống tại phiên tòa. Nội dung tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa chủ yếu phụ thuộc vào nội dung của những ý kiến, quan điểm, đề nghị của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đối với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên và đối với việc giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, thực tiễn tại nhiều phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự ở huyện Tuy An thường xảy ra một số tình huống tranh tụng mà Kiểm sát viên phải xử lý, đó là:

+ Trường hợp tranh luận đối với bị cáo và người bào chữa

Tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo, người bào chữa của bị cáo thường tranh luận để tự bào chữa hoặc bào chữa, bảo vệ lợi ích của bị cáo theo những hướng sau đây:

– Hướng thứ nhất: Bị cáo, người bào chữa đưa ra cơ sở chứng cứ và căn cứ pháp luật để chứng minh bị cáo không phạm tội như Viện kiểm sát đã truy tố trong bản Cáo trạng.

Để đối đáp, tranh luận lại, Kiểm sát viên phải đưa ra được những chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa kết hợp với những tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án và những căn cứ pháp luật nhằm bác bỏ những chứng cứ, căn cứ pháp lý mà bị cáo, người bào chữa đã nêu ra, phải vận dụng kiến thức pháp lý về cấu thành tội phạm để phân tích, chứng minh bị cáo phạm tội như Viện kiểm sát đã truy tố. Ví dụ: Để chứng minh bị cáo không phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219 BLHS), người bào chữa đưa ra những chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản của bị cáo chỉ gây ra thất thoát dưới 100 triệu đồng và chưa từng bị xử lý kỷ luật về hành vi này. Trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải đưa ra những chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản của bị cáo đã gây ra thất thoát về tài sản (từ 100 triệu đồng trở lên).

– Hướng thứ hai: Bị cáo, người bào chữa đưa ra cơ sở chứng cứ và căn cứ pháp luật để chứng minh bị cáo phạm tội khác nhẹ hơn hoặc bị cáo phạm tội như Viện kiểm sát đã truy tố nhưng ở khoản khác nhẹ hơn trong cùng một điều luật.

Trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ tài liệu buộc tội để kiểm tra, đối chứng ngay tại phiên tòa, nếu cần thiết, Kiểm sát viên có thể đề nghị Hội đồng xét xử quay lại phần xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo và những tình tiết của vụ án. Đồng thời vận dụng lý luận về cấu thành tội phạm, các tình tiết định tội, định khung để phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo hội đủ yếu tố cấu thành tội phạm, khoản của điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố. Mặt khác, phải chứng minh rằng tội danh hoặc khoản của điều luật mà bị cáo, người bào chữa đã nêu ra có ít nhất một yếu tố cấu thành không được đáp ứng hoặc không được hiểu chính xác. Ví dụ: Để chứng minh bị cáo không phạm tội “Cướp tài sản” như Viện kiểm sát đã truy tố mà chỉ phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, người bào chữa đưa ra chứng cứ chứng minh bị cáo chỉ đe dọa dùng vũ lực chứ không phải là đe dọa dùng vũ lực “ngay tức khắc”. Đối đáp lại, Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ chứng minh các yếu tố liên quan đến hành vi của bị cáo như thời gian, không gian, địa điểm xảy ra vụ việc, thái độ, cử chỉ, lời nói của bị cáo khi đe dọa, tương quan lực lượng, trạng thái tâm lý của người bị hại… để có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được nên đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản.

– Hướng thứ ba: Bị cáo, người bào chữa đồng ý với Viện kiểm sát về tội danh nhưng không thống nhất về cách đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và đưa ra một số tình tiết giảm nhẹ, tình tiết về nhân thân… để được Hội dồng giảm nhẹ mức hình phạt, xin được hưởng án treo, giảm nhẹ trách nhiệm bồi thường dân sự… Đối với tình huống này, Kiểm sát viên cần ghi chép các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết về nhân thân mà người bào chữa nêu ra, đối chiếu với các quy định của pháp luật xem tình tiết nào được luật quy định, tình tiết nào chưa được luật quy định, tình tiết nào đã được Viện kiểm sát áp dụng để từ đó chấp nhận hay không chấp nhận lời đề nghị của bị cáo, người bào chữa.

– Hướng thứ tư: Bị cáo, người bào chữa nêu ra một số sai sót về trình tự, thủ tục trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Để xử lý tình huống này, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ nội dung đề nghị của bị cáo, người bào chữa và đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xem xét đánh giá những sai sót được nêu ra có chính xác không? Có thuộc trường hợp phải trả hồ sơ điều tra bổ sung không? Từ đó có quan điểm chấp nhận hay không chấp nhận.

+ Trường hợp tranh luận đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi của đương sự [57, tr.8].

Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra nên khi tham gia tranh luận, người bị hại và người bảo vệ quyền lợi cho họ có thể đưa ra đề nghị yêu cầu cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý nghiêm khắc quá mức cần thiết đối với bị cáo (như đề nghị xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn, khung hình phạt nặng hơn…) hoặc có những yêu cầu đòi bồi thường vật chất cao hơn so với thiệt hại thực tế đã xảy ra. Trong một số trường hợp, phía bị hại còn đưa ra lý lẽ để chứng minh cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ lọt người phạm tội hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong những trường hợp nêu trên, Kiểm sát viên phải xem xét kỹ nhưng lý do mà phía bị hại đã đưa ra, đối chiếu với các chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa để xác định các yêu cầu, đề nghị của phía bị hại là có cơ sở hay không để chấp nhận hay không chấp nhận.

Đối với những người là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì thường đưa ra các lý lẽ nhằm làm tăng hoặc giảm quyền lợi hay nghĩa vụ của họ. Trong trường hợp này, cách đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên cũng tương tự như trường hợp bị cáo hay người bị hại đề nghị giảm nhẹ hoặc tăng trách nhiệm, mức bồi thường thiệt hại.

Tóm lại, tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ, nhưng là một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn đối với Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Chính vì vậy, Kiểm sát viên phải có kiến thức pháp luật sâu rộng, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, hiểu được bản chất của vụ án, nắm vững từng tình tiết, hành vi phạm tội của bị cáo, theo dõi sát diễn biến phiên tòa đồng thời phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phản ứng linh hoạt, nhanh nhạy, kịp thời ứng phó đối với mọi tình huống xảy ra.

1.2.2. Các tiêu chí đánh giá về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự

Các tiêu chí đánh giá hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm:

+ Về trình tự thủ tục và phương pháp tranh tụng phải nghiêm minh, dân chủ, công bằng, có văn hoá, đúng qui định của pháp luật [57, tr.8]. Các bên tham gia tranh tụng với tinh thần trách nhiệm, có căn cứ, đúng pháp luật, tôn trọng quyền và nghĩa vụ của nhau [50, tr.30];

+ Quan điểm, luận cứ và luận chứng của KSV được HĐXX chấp nhận với tỷ lệ cao (chất lượng tốt) và ngược lại [57, tr.9];

+ Chất lượng giải quyết vụ án hình sự tốt, không oan, hạn chế sai. Chất lượng giải quyết vụ án hình sự thể hiện qua các tiêu chí như: Không có bị cáo bị truy tố, xét xử oan; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp bị cáo bị truy tố, xét xử sai; tỷ lệ án bị tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung thấp; tỷ lệ án sơ thẩm bị Toà án cấp phúc thẩm huỷ thấp.Tuy nhiên riêng với tiêu chí án huỷ này cần đánh giá theo hai góc độ: Tỷ lệ án sơ thẩm bị Toà án cấp phúc thẩm huỷ án là tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của KSV ở phiên toà sơ thẩm là kém chất lượng, bởi lẽ qua tranh tụng nhưng Kiểm sát viên cấp sơ thẩm không phát hiện ra các vi phạm trong việc truy tố của VKS để khắc phục; nhưng đồng thời đây lại là tiêu chí đánh giá tranh tụng của KSV ở cấp phúc thẩm có chất lượng tốt, bởi lẽ qua tranh tụng, KSV cấp phúc thẩm đã phát hiện ra vi phạm của VKS, Tòa án cấp sơ thẩm nên đã đề nghị và được Toà án cấp phúc thẩm huỷ án để cấp sơ thẩm khắc phục vi phạm [57, tr.10].

+ KSV phải nắm vững và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn xét hỏi, luận tội và đối đáp tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.

+ KSV thực hiện tốt các hoạt động nghiệp vụ mang tính chuẩn bị cho tranh tụng tại phiên toà (nghiên cứu nắm chắc hồ sơ vụ án, xây dựng hồ sơ kiểm sát, xây dựng cáo trạng, xây dựng luận tội, xây dựng đề cương xét hỏi, dự thảo những vấn đề có thể đối đáp tranh luận…Việc chuẩn bị tốt các công việc nói trên không những để thực hiện đúng, đầy đủ qui định của Viện trưởng VKSNDTC trong các qui chế nghiệp vụ mà còn thông qua đó góp phần bảo đảm chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự được tốt.

Tiểu kết Chương 1

Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề tranh tụng, tranh tụng tại phiên tòa, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy vậy, mọi người đều thấy được tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng trong TTHS. Hiện nay, yếu tố tranh tụng ngày càng được quy định nhiều hơn, chặt chẽ hơn, thể hiện sự bình đẳng, dân chủ hơn giữa các chủ thể tham gia tranh tụng.

Trong tiến trình cải cách tư pháp của nước ta, hoạt động tranh tụng trong TTHS được sự quan tâm rất nhiều của Đảng, Nhà nước và của giới nghiên cứu luật. Vì vậy, BLTTHS 2015 của nước ta cũng đã có sự thay đổi đáng kể về những quy định về hoạt động tranh tụng so với BLTTHS 2003. Trong tương lai những quy định về hoạt động tranh tụng chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi tiến bộ hơn. Chúng tôi là những người làm công tác thực tiễn, tuy với tư cách là chủ thể buộc tội nhưng chúng tôi vẫn mong muốn BLTTHS nước ta cần có nhiều quy định bảo đảm tranh tụng hơn, tạo điều kiện bình đẳng, dân chủ hơn trong hoạt động tranh tụng, đặc biệt là trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội.

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

    1. 2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự

2.1.1. Các quy định của pháp luật về bảo vệ cáo trạng

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM KHOA 9-DOT 1\LUAN VAN ĐÃ IN/VU MINH CANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *