Thực hiện chính sách phát triển cán bộ công chức trên địa bàn

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ công chức trên địa bàn

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng, có tính chất quyết định
đối với sự thành công hay thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập, tổ
chức và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ “Cán bộ là cái gốc của

công việc”, “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [30]… Do đó, xây dựng đội ngũ cán bộ luôn là công việc then chốt của tổ chức Đảng trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào.

Gần 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện nói riêng có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, trở thành nước có nền kinh tế đang phát triển.

Sự thay đổi về kinh tế – xã hội trong những năm đổi mới, đặc biệt trong
thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay đặt ra những thách thức lớn đối với việc
thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước ở địa phương. Trước yêu cầu đó, đội
ngũ cán bộ, công chức có vai trò cực kỳ quan trọng, là một trong những nhân
tố đặc biệt quyết định sự thành bại của phát triển. Thực tiễn chỉ ra rằng, vấn
đề quy hoạch, bầu cử, bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng, chế độ chính sách, đào
tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đảm bảo đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
là vô cùng bức thiết. Trong thời gian qua, công tác quản lý, đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ, công chức của nước ta đã luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, bám
sát yêu cầu của thời kỳ quá độ trong điều kiện khởi đầu nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
của dân, do dân và vì dân. Nội dung, phương pháp, cách làm trong xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ, công chức đã có nhiều đổi mới, tiến bộ, mở rộng dân chủ, công khai trong xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ. Đa số cán bộ, công chức phấn khởi và tin tưởng vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước, tham gia tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần to lớn vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm qua, trên cơ sở thực hiện tốt công tác đại hội Đảng, bầu cử Đại biểu HĐND, UBND và các đoàn thể, liên tục tổ chức các kỳ thi tuyển công chức để kịp thời bổ sung vào các vị trí cán bộ, công chức còn thiếu, đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Hiệp Đức nói riêng đã được tăng cường về số lượng và chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, kỹ năng công vụ và tin học, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức được quan tâm.

Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của huyện Hiệp Đức còn nhiều mặt hạn chế, một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu về năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức chưa đáp ứng được yêu cầu, tác phong làm việc thiếu chuyên nghiệp, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức chưa thật phù hợp, công tác quy hoạch cán bộ chưa có chiều sâu, tỷ lệ cán bộ, công chức nữ còn thấp, cơ chế hoạt động còn thiếu đồng bộ. Việc đánh giá, tổng kết một cách có hệ thống chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn huyện chưa được tiến hành thường xuyên và chưa có giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức…

Từ thực tế nêu trên, nên tác giả đã đề tài “Thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam” làm Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính sách công, thực hiện chính sách công và vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ, công chức;

– Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam;

– Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao các chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản của việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung cũng như việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức nói riêng.

– Nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương về thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức, rút ra bài học có thể vận dụng cho huyện
Hiệp Đức.

– Phân tích, đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức ở huyện Hiệp Đức; những kết quả đạt được tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế.

– Đề xuất, kiến nghị phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức ở huyện Hiệp Đức đáp ứng yêu cầu của tỉnh giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách phát triển cán bộ, công chức của huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến các chính sách như: quản lý, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, điều động, luân chuyển, tuyển dụng, khen thưởng, kỷ luật, chính sách ưu tiên…

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu tại các cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể và tại UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. .

– Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu từ năm 2012 – 2017.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Đồng thời, kế thừa có chọn lọc và phát huy kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả khác có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu như: Luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí, báo,…

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp thu thập thông tin: Để thu thập thông tin phục vụ cho nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp thu thập số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp.

+ Số liệu thứ cấp, là những số liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài nghiên cứu và được tác giả thu thập thông qua các báo cáo, các sổ theo dõi về tình hình đội ngũ cán bộ ở huyện Hiệp Đức. Ngoài ra, tác giả còn thu thập các số liệu thông qua các phương tiện đại chúng: đài, báo, ti vi, internet… để đảm bảo được tính thời sự của thông tin. Đề tài thu thập tài liệu, thông tin từ các cơ quan thống kê, cơ quan chuyên môn như: Chi cục Thống kê huyện Hiệp Đức, Phòng Nội vụ huyện Hiệp Đức, Ban Tổ chức Huyện ủy Hiệp Đức,…

+ Số liệu sơ cấp, tác giả dự kiến nguồn số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn và điều tra trực tiếp bằng việc phỏng vấn các đối tượng sau: người dân địa phương và đội ngũ cán bộ, công chức tại huyện Hiệp Đức.

– Phương pháp xử lý và tổng hợp thông tin:

+ Phương pháp xử lý thông tin bằng phần mềm Excel, tác giải sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp, tính toán kết quả phiếu điều tra đối với từng loại phiếu làm căn cứ để minh chứng cho các nghiên cứu.

+ Phương pháp tổng hợp thông tin, là phương pháp liên kết các yếu tố, các thành phần thông tin thu thập được, thành một chỉnh thể nhằm liệt kê tất cả các dữ liệu có liên quan để thu được những dữ liệu đầy đủ, chính xác.

– Phương pháp phân tích số liệu:

+ Phương pháp thống kê mô tả, dùng để thống kê số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân các chỉ tiêu thống kê sẽ được tính toán để mô tả thực trạng, đặc điểm của cán bộ, công chức, tình hình sử dụng đội ngũ này và những thuận lợi, khó khăn trong quá trình công tác.

+ Phương pháp so sánh, được sử dụng này để tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng, lượng hóa thông qua hệ thống chỉ tiêu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn trong thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức, đồng thời đóng góp các giải pháp để thúc đẩy và thực hiện có hiệu quả chính sách đã ban hành, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức giúp cho các cơ quan quản lý và lãnh đạo huyện Hiệp Đức tiếp tục đổi mới công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo bổ ích cho những người quan tâm đến các chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện; đồng thời là tài liệu tham khảo cho học viên các khóa đào tạo, bồi dưỡng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của luận văn được bố cục theo 3 chương, gồm:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp để hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ, công chức ở huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

    1. 1.1. Cơ sở lý luận
    2. 1.1.1. Quan niệm về thực hiện chính sách công

1.1.1.1. Khái niệm chính sách công

Hiện nay, về định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề tranh luận sôi động và khó đạt được sự nhất của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Ở Việt Nam, các học giả cũng có nhiều cách hiểu không giống nhau về chính sách công, như:

“Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” (Nguyễn Hữu Hải, 2010);

“Chính sách công là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và thực tế mà đề ra” (Nguyễn Thị Như Mai, 2010).

– “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng” (Nguyễn Khắc Bình);

“Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của chủ thể nắm quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt các mục tiêu đề ra” (Hồ Việt Hạnh).

Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công, song điều đó không có nghĩa chính sách công mang những bản chất khác nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công.

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

1.1.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách công

“Thực hiện chính sách công là quá trình biến ý chí của chủ thể chính sách trở thành hiện thực, nhằm mục đích là đưa chính sách vào trong thực tiễn cuộc sống” [7]. Thực trạng việc thực hiện chính sách công ở nước ta đã đạt được những thành công rất lớn, song bên cạnh đó vẫn còn một số hạn cần phải xem xét. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề về thực hiện chính sách công có ý nghĩa vô cùng to lớn trong thời kỳ hiện nay.

Thực hiện chính sách là là quá trình biến các ý đồ của chủ thể thành hiện thực, triển khai chính sách vào trong thực tiễn của cuộc sống. Đây là một khâu đặc biệt quan trọng vì nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của một chính sách. Trong quá trình thực hiện chính sách, sẽ giúp chúng ta thấy được những mặt mạnh, những mặt hạn chế của chính sách; từ đó có những giải pháp phù hợp để cải thiện và khắc phục những mặt hạn hạn chế của chính sách, đồng thời đề xuất những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện chính sách. Qua đó đưa chính sách vào trong thực tiễn cuộc sống một cách tốt nhất [7].

1.1.1.3. Vai trò thực hiện chính sách công

Chính sách công đang ngày càng trở thành một công cụ quản lý của Nhà nước ngày càng quan trọng của quốc gia và trên thế giới. Thông qua quá trình thực hiện chính sách công, nhà nước điều tiết những vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước theo những mục tiêu mong muốn, tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển bền vững.

Thực hiện chính sách công có vai trò định hướng cho hành động của các chủ thể kinh tế – xã hội trong việc đề ra các biện pháp, các giải pháp. Mục tiêu chính sách công thể hiện thái độ ứng xử của nhà nước trước một vấn đề công, nên nó thể hiện rõ xu hướng tác động của Nhà nước lên các thực thể xã hội để chúng vận động phù hợp với những giá trị tương lai mà Nhà nước theo đuổi.

Thực hiện chính sách công giúp chúng ta biến những ý đồ của chính sách thành hiện thực.

Qua quá trình thực hiện chính sách giúp chúng ta từng bước thực hiện mục tiêu chính sách và mục tiêu chung.

Tổ chức thực hiện chính sách công là một khâu vô cùng quan trọng và có ý nghĩa rất lớn đối với một chính sách, vì đây là quá trình hiện thực hóa chính sách vào trong thực tiễn của cuộc sống. Thực hiện chính sách công là một là một khâu vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của một chính sách. Các mục tiêu chính sách công chỉ có thể đạt được thông qua quá trình thực hiện chính sách công, bởi thực thi chính sách công bao gồm các hoạt động có tổ chức được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước và các đối tác xã hội hướng tới đạt được các mục tiêu và mục đích đã tuyên bố trong chính sách công.

Quá trình thực hiện chính sách công làm cho chính sách công tiếp tục được bổ sung, phát triển và phù hợp hơn trong từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu của xã hội [7].

1.1.1.4. Mục tiêu thực hiện chính sách công

Theo nguyên lý triết học, xung quanh chúng ta là các dạng vật chất tồn tại khách quan với những chức năng nhất định. Chức năng là tập hợp những hoạt động có mục đích gắn liền với sự tồn tại và phát triển của thực thể theo yêu cầu xã hội, hay nói một cách chung nhất, chức năng là lý do tồn tại của các dạng thức vật chất. Về mặt bản chất, chính sách là kết tinh ý chí của chủ thể về phương thức tác động đến các đối tượng nên cũng được coi như những dạng thức vật chất đặc biệt, vì vậy chính sách cũng cần phải có những chức năng nhất định để tồn tại. Tổ chức thực hiện chính sách công là một bước vô cùng quan trọng nhằm để duy trì chính sách và đưa chính sách đó đạt được những mục tiêu như mong muốn [24].

Thực hiện chính sách công là giai đoạn quan trọng, để chính sách đi vào thực tiễn đời sống xã hội. Chính sách tốt phải tiến tới mục tiêu phát triển chung, đối với Việt Nam thì mục tiêu đó là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” đây là mục tiêu phù hợp với xu thế chung của thời đại vì mục tiêu chính sách sẽ phản ánh mong muốn của Nhà nước về những giá trị kinh tế và xã hội, mục tiêu chung và mục tiêu chính sách luôn có sự gắn bó mật thiết với nhau vì vậy khi hoạch định chính sách phải đạt được cả hai mục tiêu mới là tốt. 

Trên cơ sở nhận thức về vị trí vai trò của thực thi chính sách công trên đây cho thấy hoạt động này có những ý nghĩa to lớn sau đây:

Thứ nhất, trong quản lý, điều hành nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải đối xử với nhiều đối tượng có quan hệ khác nhau nên việc thực thi chính sách nhằm biến ý đồ chính sách thành hiện thực là rất quan trọng.

Thứ hai, mục tiêu chính sách công có liên quan đến các vấn đề về kinh tế, xã hội nên cùng một lúc không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề liên quan mà phải trải qua nhiều quá trình. Mục tiêu chính sách công đạt được phải trải qua quá trình thực hiện chính sách, các mục tiêu của chính sách công luôn gắn kết với nhau, có quan hệ mật thiết với nhau và có tính quyết định đến mục tiêu chung.

Thứ ba, tính đúng đắn của chính sách sẽ được khẳng định thông qua việc giải quyết các mâu thuẫn bằng chính sách đã hiệu quả hay không của vấn đề chính sách. Một chính sách nếu đáp ứng được yêu cầu của xã hội, giải quyết được những bức xúc trong đời sống thực tiễn thì được coi là đúng đắn và hợp lý. Một chính sách tốt là chính sách khi triển khai thực hiện luôn được sự đồng tình, ủng hộ của người dân; đáp ứng được các yêu cầu mà những người thụ hưởng mong muốn; giải quyết được các vấn đề bức thiết trong đời sống thực tiễn của xã hội.

Thứ tư, chính sách ngày càng hoàn chỉnh thông qua việc thực thi chính sách, bởi chính sách công được hoạch định bởi một tập thể, nên không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng của ý chí chủ quan. Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan cũng như tác động của môi trường nên giữa chính sách công và thực tiễn của đời sống xã hội có những vấn đề cần phải được khắc phục, điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp. Quá trình điều chỉnh, bổ sung sẽ góp phần làm cho chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng thời qua đó làm cơ sở để triển khai thực hiện các chính sách sau này.

1.1.1.5. Nguyên tắc thực hiện chính sách công

Phải đáp ứng được yêu cầu thực hiện mục tiêu: Thực hiện chính sách công là những hoạt động cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước và các đối tượng tham gia nhằm đạt được những mục tiêu trực tiếp [24].

– Đảm bảo tính hệ thống, bao gồm hệ thống mục tiêu và biện pháp của chính sách; hệ thống trong tổ chức bộ máy tổ chức thực hiện chính sách công; hệ thống trong điều hành, phối hợp thực hiện; hệ thống trong sử dụng công cụ quản lý khác của nhà nước.Yêu cầu này được đảm bảo trong thực hiện chính sách công sẽ là cơ sở trực tiếp cho việc đạt mục tiêu đề ra.

– Đảm bảo tính pháp lý, tính pháp lý được thể hiện trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách công là việc chấp hành các chế định, các quy định về thực hiện chính sách công nhằm đảm bảo tính tập trung, thống nhất trong chấp hành chính sách. Tính khoa học thể hiện trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách công là sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý chính sách, việc thu hút các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách, hình thành nên các dự án để thực hiện chính sách ở huyện Núi Thành một cách có hiệu quả.

– Đảm bảo lợi ích thật sự cho các đối tượng thụ hưởng: Trong xã hội có rất nhiều đối tượng thụ hưởng, vì vậy Nhà nước phải là người đứng ra bảo vệ cho các đối tượng đó bằng chính sách công của mình.

– Đảm bảo tính thực tiễn: Quá trình thực hiện chính sách công phải sát với thực tiễn nhằm để nâng cao hiệu lực, hiệu của chính sách, và trong quá trình xây dựng chính sách phải đặc biệt chú ý đến các nguồn lực (con người, kinh phí, điều kiện vật chất, thời gian, công nghệ – kỹ thuật). Công tác phân công, phối hợp phải thật sự hợp lý, đảm bảo chu trình và thời gian thực hiện.

Phải đặc biệt quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về mục đích, nội dung, yêu cầu của chính sách; và luôn quan tâm đến trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách.

Phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc quá trình thực hiện chính sách để phát hiện kịp thời những hạn chế, bất cấp của chính sách để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách và rút kinh nghiệm nhằm điều chỉnh kịp thời việc tổ chức thực hiện chính sách.

1.1.2. Quy trình tổ chức thực thi chính sách công

Thực hiện chính sách công có ý nghĩa và tâm quan trọng vô cùng to lớn đối với một chính sách, chính vì vậy mà các cấp, các ngành luôn có sự quan tâm đặc biệt trong quá trình triển khai thực hiện, nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Để triển khai thực hiện một cách hiệu quả việc thực hiện chính sách công thì cần phải thực hiện nhiều nội dung quản lý khác nhau, nhưng trước tiên cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây [7]:

1.1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công được căn cứ vào các quy định trong chính sách công và hướng dẫn các cơ quan cấp trên có thẩm quyền. Trong kế hoạch nêu rõ nội dung, cách thức tổ chức điều hành, các nguồn lực, thời gian triển khai thực hiện, phương thức kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách công, dự kiến nội quy, quy chế tổ chức điều hành, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân, tổ chức tham gia và các biện pháp khen thưởng, kỷ luật. Nhìn chung, các cấp chính quyền địa phương đều quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách công một cách cụ thể. Các kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công đều có sự tham gia của các sở, ban, ngành và được Chủ tịch UBND ký phê duyệt. Điều này tạo cơ cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện chính sách công. Tuy nhiên, một số địa phương xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công còn đơn giản, thiếu chặt chẽ, không quy định cụ thể nhiệm vụ và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc triển khai thực hiện chính sách công. Trong kế hoạch, có trường hợp không quy định các nguồn lực để thể hiện chính sách, dẫn đến việc tổ chức thực hiện gặp khó khăn và hiệu quả không cao

1.1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách công

Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện được thông qua, các cơ quan Nhà nước tiến hành triển khai tổ chức thực hiện theo kế hoạch. Vấn đề đầu tiên là phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách công, nó có ý nghĩa vô cùng quan trong trong quá trinhg triển khai thực hiện chính sách. Qua đó giúp người dân hiểu được ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của chính sách. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức luôn có tinh thần trách nhiệm trong quá trình triển khai tổ chức công việc được giao.

1.1.2.3. Phân công thực hiện chính sách công

Chính sách công được thực thi trên phạm vi rất rộng lớn, chính vì thế số lượng tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách công rất rộng lớn và vô cùng phức tạp. Do đó, muốn tổ chức thực thi chính sách có hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý, các cấp, các ngành trong quá trình triển khai thực hiện chính sách. Quá trình phân công phải thật sự hợp lý, đảm bảo đúng quy trình nhằm duy trì chính sách một cách ổn định và mang lại hiệu quả thiết thực.

1.1.2.4. Duy trì chính sách công

Hoạt động này có ý nghĩa làm cho chính sách được duy trì và tiếp tục được phát huy tác dụng trong đời sống xã hội.

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, dựa trên các kết quả đã đạt được, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực thi chính sách có trách đối chiếu, so sánh với mục tiêu chính sách đề ra, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực thi chinh sách, để qua đó đề xuất với cấp có thẩm quyền điều chỉnh chính sách cho hợp lý. Trong điều kiện cần thiết, các cơ quan có thẩm quyền sẽ sử dụng các biện pháp để duy trì chính sách nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội.

1.1.2.5. Điều chỉnh chính sách công

Cơ quan điều chỉnh, bổ sung chính sách là cơ quan ban hành chính sách, chủ thể ban hành chính sách. Nhưng thực tế, việc điều chỉnh sẽ được các cơ quan nhà nước linh hoạt điều chỉnh để triển khi thực hiện có hiệu quả và không làm thay đổi mục tiêu chung. Mục đích của việc điều chỉnh làm làm cho chính sách được tiếp tục được tồn tại và đáp ứng tốt với từng giai đoạn phát triển của xã hội.

1.1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách công

Trong các điều kiện hoàn toàn không giống nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, cũng như môi trường và năng lực tổ chức, điều hành của các cơ quan nhà nước cũng khác nhau, vì vậy, để cho chính sách công được thực hiện có hiệu quả thì cần phải có sự theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực hiện. Qua đó, khẳng định được mục tiêu cụ thể của chính sách, đồng thời để có sự tập trung cao cho những vấn đề quan trọng trong quá trình thực hiện hiện chính sách. Để từ đó, các cá nhân, tổ chức phải có trách nhiệm kiểm tra quá trình thực hiện nhằm giúp cho chính sách đạt được hiệu quả mong muốn.

1.1.2.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Công tác đánh giá quá trình thực thi chính sách là công việc bắt buộc đối với mỗi chính sách. Qua đó, nhìn nhận một cách tổng thể, khách quan nhất, phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn chế cần rút kinh nghiệm cho xây dựng chính sách sau này.

Chủ thể đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội các cấp để từ đó đưa ra các cơ chế, biện pháp hợp lý để tiến hành thực hiện tốt các mục tiêu chính sách trong từng điều kiện cụ thể.

1.1.3. Các giải pháp, công cụ và nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách

1.1.3.1. Các giải pháp, công cụ thực hiện chính sách

– Giải pháp kinh tế là giải pháp dùng công cụ kinh tế (miễn, giảm thuế, hỗ trợ lãi suất vốn vay,…) để tác động vào đối tượng chính sách. Công cụ này được sử dụng rộng rãi, phổ biến nhất là trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCH của nước ta.

– Giải pháp giáo dục, thuyết phục, để đạt được mục tiêu chính sách, các nhà quản lý sử dụng công cụ tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục như là biện pháp “mưa dầm thấm lâu” để nâng cao tính tự giác của các đối tượng thực thi chính sách. Giải pháp này thật sự có hiệu quả khi có sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và đối tượng tuyên truyền cần phải có kiến thức, kỹ năng truyền đạt .

– Giải pháp hành chính, các nhà quản lý sử dụng quyền lực Nhà nước để tác động vào đối tượng chính sách buộc đối tượng thực thi chính sách tuân theo mệnh lệnh hành chính của mình nhằm lập lại trật tự và dọn đường cho 02 giải pháp trên được triển khai có hiệu quả [7].

Ngoài ra, trong một số chính sách có thể sử dụng giải pháp kết hợp giữa các công cụ trên để đạt được mục tiêu chính sách.

1.1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực thi chính sách

– Nhân tố khách quan, lànhững nhân tố xuất hiện và tác động đến quá trình thực thi chính sách mà không do chủ thể thực thi chính sách đề ra, như: Tính chất của vấn đề chính sách;Môi trường thực thi chính sách; Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách;Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách; Đặc tính của đối tượng chính sách.

– Nhân tố chủ quan, là những nhân tố do cơ quan quản lý và cán bộ, công chức gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình tổ chức thực thi chính sách, như: Một số nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách: Thực hiện đầy đủ các bước trong quy trình thực thi chính sác; năng lực thực thi chính sách của đội ngũ cán bộ, công chức; điều kiện về cơ sở vật chất; sự hưởng ứng của người dân.

    1. 1.1.4. Quan niệm về cán bộ, công chức

1.1.4.1. Khái niệm cán bộ, công chức

Mỗi quốc gia theo một thể chế chính trị và có hệ thống pháp luật khác nhau nên quan niệm về cán bộ, công chức cũng không giống nhau. Nhưng nhìn chung, đa số các nước đều giới hạn cán bộ, công chức trong phạm vi bộ máy hành chính Nhà nước, còn những người được bầu cử hay làm việc trong các cơ quan sự nghiệp và cơ sở kinh doanh của Nhà nước không gọi là công chức.

Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Cán bộ, công chức đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 thì:

– Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước [31]..

– Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật [31].

Cụ thể, “Cán bộ, công chức” là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội sau đây, gồm:

+ Văn phòng Quốc hội;

+ Văn phòng Chủ tịch nước;

+ Các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã;

+ Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân
sự các cấp;

+ Cơ quan đại diện Nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài;

+ Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân;

Riêng đối với cán bộ, công chức cấp xã Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định:

– Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:

+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;

+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;

+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;

+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;

+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);

+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

– Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:

+ Trưởng Công an;

+ Chỉ huy trưởng Quân sự;

+ Văn phòng – thống kê;

+ Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);

+ Tài chính – kế toán;

+ Tư pháp – hộ tịch;

+ Văn hoá – xã hội [12].

1.1.4.2. Phân loại cán bộ, công chức

– Phân loại theo ngạch:

Ngạch là tên gọi thể hiện thứ bậc về năng lực và trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của công chức. Hiện nay cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ta được xếp theo ngạch: Chuyên viên cao cấp và tương đương; Chuyên viên chính và tương đương; Chuyên viên và tương đương; Cán sự và tương đương; Nhân viên.

Theo bậc:

Mỗi ngạch lại chia thành nhiều bậc. Bậc là các thứ hạng trong một ngạch. Nếu chuyển ngạch phải được đào tạo, thi tuyển thì việc nâng bậc trong phạm vi ngạch chỉ phụ thuộc vào thâm niên công tác, chất lượng công tác và kỷ luật công chức. Người cán bộ công chức khi được nâng bậc không phải thi tuyển, cũng không đòi hỏi quá trình đào tạo thể hiện qua văn bằng. Nếu người cán bộ công chức hoàn thành nhiệm vụ được giao, không vi phạm pháp luật và quy chế thì cứ đến thời gian ấn định họ sẽ được nâng lên bậc trên kế tiếp. Tuy nhiên những cán bộ công chức có cống hiến xuất sắc thì có thể xét nâng bậc trước thời hạn hoặc vượt bậc. Cán bộ công chức cũng có thể không được chuyển ngạch, nhưng theo thâm niên họ liên tục được nâng bậc.

1.1.4.3. Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức

Tiêu chí về tuổi của cán bộ, công chức, theo quy định hiện nay
cán bộ, công chức phải nằm trong độ tuổi từ 18 đến 55 đối với nữ và từ 18
đến 60 đối với Nam. Trừ một số trường hợp khi đến độ tuổi nghỉ hưu nhưng có thể được xem xét kéo dài thời gian công tác.

Thường thì đội ngũ cán bộ, công chức ngoài 40 tuổi có nhiều kinh
nghiệm công tác cũng như kỹ năng làm việc, song không phải là tất cả.
Tuy nhiên cũng có nhiều cán bộ, công chức tuổi đời còn trẻ nhưng do
được đào tạo cơ bản nên có trình độ chuyên môn khá vững vàng, kỹ năng làm
việc khá tốt… Cần kết hợp hài hòa cả hai tuyến để có được đội ngũ cán bộ,
công chức có chất lượng.

Tiêu chí về văn bằng, chứng chỉ của cán bộ, công chức, thể hiện quá trình đào tạo, học tập của cán bộ, công chức. Ở nước ta hiện nay tùy từng yêu cầu công việc mà sự đòi hỏi của bằng cấp là khác nhau. Vì vậy, Tuỳ theo yêu cầu của công việc mà lựa chọn người có bằng cấp khác nhau.

Tiêu chí về trình độ chính trị, trình độ quản lý nhà nước Đối với mỗi vị trí công tác thì yêu cầu về trình độ chính trị và trình độ quản lý Nhà nước là khác nhau. Thông thường, khi xem xét hay đề bạt cán bộ, công chức vào vị trí quản lý, vị trí lãnh đạo, ngoài tiêu chí về bằng cấp thì tiêu chí về trình độ chính trị, trình độ quản lý Nhà nước được quan tâm và đóng vai trò quan trọng.

Tiêu chí về phẩm chất đạo đức, lập trường tư tưởng. Tiêu chí phẩm chất đạo đức, lập trường tư tưởng của cán bộ, công chức cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức. Nếu một người cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, lập trường tư tưởng vững vàng thì hiệu quả công việc cũng như tinh thần trách nhiệm của họ trong công việc cũng cao.

1.1.5. Thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức

1.1.5.1. Khái niệm

Chính sách phát triển cán bộ, công chức là những chủ trương, những quyết sách của cơ quan có thẩm quyền nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chuyên môn, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

1.1.5.2. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay

– Về số lượng: Trên cơ sở phân định rõ từng loại cán bộ, công chức với các loại lao động khác để xác định số lượng cán bộ, công chức nhà nước một cách hợp lý dựa trên dân số và trình độ, yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

– Về cơ cấu: Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu của từng cơ quan trong hệ thống chinh trị mà xây dựng cơ cấu cán bộ hợp lý, trong đó chú ý về trình độ chuyên môn, độ tuổi, giới tính, dân tộc,…

– Về chất lượng: Để thực hiện tốt công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, đội ngũ cán bộ, công chức phải đáp ứng các yêu cầu sau:

+ Về năng lực: Phải đảm bảo cả năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý.

+ Về phẩm chất chính trị, đạo đức: Trong mọi giai đoạn cách mạng, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị là yêu cầu quan trọng cơ bản nhất đối với đội ngũ cán bộ, công chức.

+ Về văn hóa: Trong giao tiếp và ứng xử, cán bộ, công chức phải có thái độ lịch sự, tôn trọng; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực rõ ràng, không được có thái độ hách dịch, nhũng nhiễu, khi thi hành công vụ.

Thực tế cho thấy, nếu có đội ngũ cán bộ, công chức tài giỏi thì mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống được thuận lợi và đạt hiệu quả cao; nếu đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức yếu kém sẽ gây nên độc đoán, chuyên quyền, tiêu cực, tham nhũng,… khiến cho tài sản Nhà nước sẽ bị thất thoát, lòng tin của người dân bị giảm sút, kinh tế đình trệ và tình hình xã hội bị rối loạn. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ, công chức phát huy khả năng phục vụ, cống hiến nhiều nhất cho đất nước, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ cách mạng mới.

1.1.5.3. Xác định vấn đề thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức

– Quy hoạch cán bộ, công chức:

Việc quy hoạch cán bộ, công chức nhằm mục đích phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ có đức, có tài, có triển vọng. Có hai loại đối tượng cán bộ, công chức cần quy hoạch là đối tượng rộng và đối tượng hẹp. Đối với mỗi loại đối tượng, nội dung, phương pháp làm quy hoạch phải khác nhau, nhưng phải được thực hiện công khai dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của các cấp ủy đảng, đồng thời có sự phân cấp hợp lý về thẩm quyền quy hoạch cán bộ, phù hợp với phân cấp quản lý, sử dụng cán bộ; quy hoạch phải sát với thực tiễn trên cơ sở nắm chắc đội ngũ hiện có, nguồn cán bộ và dự báo trước yêu cầu phát triển đồng thời phải gắn với các khâu trong công tác cán bộ một cách đồng bộ từ trên xuống dưới, đảm bảo nguyên tắc “mở” và “động”.

– Tuyển dụng cán bộ, công chức:

Việc tuyển dụng cán bộ, công chức phải theo yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế của cơ quan sử dụng. Có hai hình thức tuyển dụng là thi tuyển và xét tuyển, ngoài ra có thể tiếp nhận vào công chức đối với một số trường hợp đặc biệt. Đối tượng tuyển dụng càng mở rộng và việc tuyển dụng càng công khai, minh bạch, bình đẳng thì cơ hội tuyển được người tài, đáp ứng yêu cầu công việc càng cao. Ngược lại, tuyển dụng khép kín, thiếu công khai, minh bạch thì những người yếu về chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức sẽ dễ dàng chiu vào bộ máy công quyền, gây nguy hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước, làm chậm quá trình phát triển của đất nước.

– Sử dụng cán bộ, công chức:

Để sử dụng đúng cán bộ, nhằm phát huy sở trường công tác của từng người và để đạt hiệu quả cao nhất, nhà quản lý đặc biệt là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương cần phải biết cách nhìn người, phải tìm hiểu kỹ ưu điểm, nhược điểm của người đó trước khi giao việc. Khi giao việc phải thường xuyên theo dõi, giúp đỡ, uốn nén và tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức nỗ lực, phấn đầu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Người sử dụng cán bộ phải đánh giá đúng khả năng của cán bộ một cách khách quan, chính xác để có hướng bố trí, sử dụng cho hiện tại và tương lai.

Quản lý cán bộ, công chức: Quản lý cán bộ bao gồm các nội dung chính sau:

+ Tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động, luân chuyển và phân cấp quản lý cán bộ;

+ Đánh giá cán bộ;

+ Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;

+ Bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; miễn nhiệm cán bộ;

+ Khen thưởng, kỷ luật cán bộ;

+ Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ;

+ Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác cán bộ và cán bộ.

Quản lý cán bộ dựa trên các nguyên tắc sau:

+ Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về công tác cán bộ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

+ Việc quản lý cán bộ, công chức được thực hiện theo quy định phân cấp của Đảng và Nhà nước; và do bầu cử được thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội.

– Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, là nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà, kỹ năng thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải gắn với quy hoạch chức danh cán bộ, tránh trường hợp đào tạo, bồi dưỡng tràn lan, hiệu quả thấp.

– Điều động, luân chuyển cán bộ, công chức:

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hoặc tạo điều kiện cho cán bộ, công chức rèn luyện ở nhiều môi trường công tác khác nhau, cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc điều động hoặc luân chuyển cán bộ, công chức. Tuy nhiên, luân chuyển chỉ áp dụng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý và nằm trong quy hoạch ở các chức danh cao hơn.

– Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức:

Để khuyến khích, động viên cán bộ, công chức yên tâm công tác, phát huy hết khả năng, trí tuệ đóng góp cho sự nghiệp phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước có những chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức. Ngoài ra, tùy điều kiện cụ thể của từng địa phương, có những chính sách khác nhau nhằm thu hút nhân tài và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức của địa phương mình.

    1. 1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Thực tiễn từ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

Là huyện mới chia tách từ huyện Quế Sơn, trong thời gian qua các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nỗ lực xây dựng hệ thống chính trị, trong đó tập trung phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng ở địa phương. Trong đó huyện đã tập trung một số biện pháp như: thời gian qua là:

– Công tác quy hoạch cán bộ cho bộ máy chính quyền: Trên cơ sở quy định của Trung ương và của tỉnh, Huyện ủy Nông Sơn đã tập trung quy hoạch các chức danh lãnh đạo của HĐND và UBND huyện và xã, trong đó chú ý quy hoạch những cán bộ có năng lực thực tiễn, có uy tín trong nhân dân. Vì vậy, trong bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021 những cán bộ, công chức nằm trong quy hoạch đều trúng cử với số phiếu rất cao (trên 80%). Đồng thời, tại kỳ họp thứ nhất của HĐND huyện nhiệm kỳ 2016 – 2021 đã bầu các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND huyện đảm bảo số lượng và cơ cấu.

– Công tác tuyển dụng công chức cấp xã: Là huyện miền núi, có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn nên việc tuyển dụng công chức cấp xã được thực hiện bằng hình thức xét tuyển. Năm 2015, huyện đã ban hành kế hoạch xét tuyển và tổ chức tuyển dụng được 41 công chức cấp xã, tất cả những người trúng tuyển đều đáp ứng yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị và đã kịp thời bổ sung vào đội ngũ cán bộ, công chức của huyện.

– Đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức cấp xã: Bám sát các quy định về đánh giá, phân loại cán bộ, công chức cấp xã, hằng năm UBND huyện đã chỉ đạo công tác đánh giá, phân loại đối với cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo khách quan, trung thực, chính xác. Theo đó, UBND huyện trực tiếp nhận xét, phân loại đối với chức danh Chủ tịch UBND xã, các chức danh còn lại ủy quyền cho Chủ tịch UBND xã trực tiếp nhận xét và phân loại. Theo báo cáo thống kê của Phòng Nội vụ huyện Nông Sơn năm 2016, trong 134 cán bộ, công chức cấp xã được phân loại thì có đến 84,32% cán bộ, công chức xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ, 11,94% hoàn thành nhiệm vụ và chỉ có 3,73% cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ.

1.2.2. Thực tiễn từ huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

Tây Giang là huyện miền núi có điều kiện kinh tế – xã hội rất khó khăn của tỉnh Quảng Nam với đa số đồng bào các dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Cơtu. Vì vậy, việc thực chính sách đối cán bộ, công chức cũng có những đặc thù riêng:

– Về công tác quy hoạch cán bộ: Thực hiện theo các nguyên tắc trong quy hoạch, ngoài cơ cấu theo ngành nghề thì Huyện ủy cũng đặc biệt quan tâm cơ cấu theo độ tuổi, giới tính và dân tộc, trong đó ưu tiên nguồn quy hoạch tại chỗ. Vì đây, là huyện miền núi cao, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nên vấn đề am hiểu phong tục, tập quán sinh hoạt của người dân là rất cần thiết. Nhờ làm tốt công tác quy hoạch, nên đội ngũ cán bộ, công chức của huyện luôn ổn định và thường xuyên được bổ sung, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

– Về công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Đây là nhiệm vụ được Huyện ủy, UBND huyện quan tâm hàng đầu. Hằng năm, trên cơ sở rà soát quy hoạch cán bộ và xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của địa phương. Qua đó, làm việc với cơ sở đào tạo, tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn tại huyện, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức tham gia học tập để nâng cao trình độ, nhất là đối với cán bộ, công chức cấp xã. Ngoài ra, trong năm 2016, huyện đã cử hơn 76 lượt cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng do tỉnh tổ chức. Vì vậy, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên đáng kể so với trước đây, đáp ứng yêu cầu phát triển của huyện trong tình hình mới.

– Về luân chuyển cán bộ: Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ. Trong luân chuyển luôn đảm bảo nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch, công bằng, nhằm ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, quan hệ dòng họ, thân quen. Kết hợp luân chuyển với điều động, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị, tăng cường cán bộ cho những nơi khó khăn có nhu cầu, khắc phục tình trạng nơi thừa, nơi thiếu, khép kín trong công tác cán bộ. Ngoài ra, huyện cũng đã mạnh dạn thực hiện chủ trương thí điểm bố trí một số chức danh lãnh đạo chủ chốt ở cấp xã không là người địa phương.

 

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\LE THANH LUAN\New folder

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *