Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu

Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu 2013

Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu 2013 từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Đấu thầu nhìn từ góc độ kinh tế là một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nghĩa là nó chịu sự điều chỉnh của thị trường và vận hành tuân theo các quy luật cơ bản của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá cả và quy luật cạnh tranh. Một đất nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển mạnh đòi hỏi phải có một cơ sở kết cấu hạ tầng như nhà xưởng, đường sá, sân bay, bến cảng, nhà ga… hiện đại đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội, anh ninh quốc phòng nội bộ quốc gia cũng như hòa nhập khu vực và quốc tế. Tất cả công trình này đều được xây dựng và các công trình này tiêu tốn một lượng ngân sách khổng lồ của đất nước với một chiến lược lâu dài và toàn diện. Hoạt động đấu thầu xây dựng là tiến trình đầu tiên giúp chủ đầu tư thông qua hoạt động này để lựa chọn được nhà thầu thích hợp với yêu cầu đặt ra của mình trên cơ sở đảm bảo hiệu quả về kinh tế, tránh thất thoát lãng phí nguồn vốn, công trình kém chất lượng đồng thời bảo đảm tính công khai, minh bạch và cạnh tranh tự do trong đấu thầu xây dựng công trình.

Với vai trò, vị trí quan trọng của hoạt động đấu thầu đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, trong mấy thập kỷ qua, nhất là từ khi nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập, từng bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước, Quốc hội nước ta đã chú trọng hoàn chỉnh hệ thống luật pháp phù hợp và tiến bộ. Rút kinh nghiệm qua thời ký đổi mới, với sự ra đời của Hiến pháp 2013, hệ thống pháp luật cũng theo đó được nghiên cứu, soạn thảo và ban hành nhằm thay thế những văn bản pháp luật đã cũ không còn phù hợp với Hiến pháp mới và tình hình phát triển đất nước hiện tại và tương lai. Luật Đấu thầu 2013 cũng đã được nhà nước chỉ đạo các cấp, ngành chuyên môn liên quan tổ chức biên soạn công phu và quả thật nó đã có những tiến bộ lớn so với Luật Đấu thầu 2005. Quá trình biên soạn, tổ soạn thảo đã lấy ý kiến rộng rãi từ thực tiễn các nhà thầu, chủ đầu tư, tổ chức hội thảo trong và ngoài nước với sự tham gia của các nhà làm luật tiến bộ, cho nên Luật Đấu thầu 2013 đã thực sự đáp ứng được nhu cầu và mong mỏi của nhà nước, các cơ quan quản lý, chủ đầu tư, các tổ chuyên môn, tư vấn cũng như nhà thầu.

Từ khi có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2014 Luật Đấu thầu 2013 đã khẳng định được những ưu điểm vượt trội của nó so với luật cũ như quy định thêm về tư cách hợp lệ của nhà thầu, tiêu chuẩn nhà thầu, sự ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu, hình thức, phương thức lựa chọn nhà thầu… làm cho chủ đầu tư lựa chọn được những nhà thầu thực sự đáp ứng được mong muốn. Qua đó Luật cũng góp phần giúp các cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu tiết kiệm thời gian và công sức trong quản lý đấu thầu, nhất là nâng cao được tính công khai minh bạch và cạnh tranh trong đấu thầu, từng bước hạn chế được những hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu, nâng cao chất lượng công trình và tiết kiệm nguồn vốn cho chủ đầu tư.

Bên cạnh những mặt đã đạt được kể trên, Luật Đấu thầu 2013 cũng còn một số khiếm khuyết nhất định. Tác giả luận văn thông qua đề tài nghiên cứu của mình là “Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu 2013 từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam” mạnh dạn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm qua đó đề xuất phương hướng giải pháp với niềm tin góp phần hoàn thiện chế định pháp luật đấu thầu nước ta.

  1. Tình hình nghiên cứu đề tài.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

    1. Mục đích nghiên cứu
  • Từ thực tiễn đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng của các doanh nghiệp xây dựng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam để tìm ra những thuận lợi, khó khăn cũng như tính bao quát điều chỉnh đúng đắn và điều kiện áp dụng trên mọi lĩnh vực đấu thầu của Luật Đấu thầu 2013.
    1. Nhiệm vụ nghiên cứu
  • Nghiên cứu nền tảng lý luận pháp luật, khả năng áp dụng luật đấu thầu cũng như rút kinh nghiệm từ thực tiễn đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng của các doanh nghiệp thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam.
  • Đề xuất phương hướng, giải pháp để hoàn thiện Luật Đấu thầu
  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đấu thầu các công trình xây dựng, các công trình xây dựng quốc phòng từ các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp quốc phòng và Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam. Những vấn đề chính về pháp lý và cơ sở kinh tế của đấu thầu.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Các công trình quốc phòng sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước thuộc Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam

  1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
    1. Phương pháp luận

Đề tài sử dụng phương pháp luận chung

    1. Phương pháp nghiên cứu
  • Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu đó là: phương pháp thu thập đánh giá nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích tổng hợp.
  • Phương pháp thu thập đánh giá nghiên cứu tài liệu sử dụng chủ yếu ở Chương 1 và 2; mục đích là tìm tòi tài liệu luật, nghị định, các văn bản quy phạm pháp luật, giáo trình… để đánh giá nghiên cứu nền tảng lý luận chung.
  • Phương pháp phân tích tổng hợp nhằm phân tích thực trạng áp dụng pháp luật đấu thầu trong thời gian qua từ các doanh nghiệp nói chung và từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng trong Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam, ở Chương 2 và 3. Từ đó đề xuất phương hướng giải pháp hoàn thiện luật.
  1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn chỉ ra nguồn gốc xuất hiện đấu thầu là từ nhu cầu của xã hội, từ sự cạnh tranh tất yếu của thị trường trong việc kinh doanh thương mại. Hoạt động đấu thầu từ khi bắt đầu xuất hiện cho đến khi phát triển thành một hiện tượng xã hội và được điều chỉnh bằng luật. Tuy không phải là một đề tài nghiên cứu về nguồn gốc xuất xứ lịch sử của đấu thầu và luật đấu thầu nhưng tác giả mong muốn hoàn thiện thêm cơ sở lý luận về mặt kinh tế lẫn xã hội của Luật Đấu thầu. Đồng thời phân tích nền tảng pháp lý chỉ ra những ưu khuyết điểm về lý luận chung của Luật Đấu thầu đề xuât giải pháp hoàn thiện.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua việc phân tích, tổng hợp đánh giá công tác đầu thầu xây dựng các công trình quốc phòng từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam, luận văn cung cấp, mở rộng ra một góc nhìn mới trong việc thực hiện pháp luật đấu thầu. Từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện Luật Đấu thầu 2013 để quá trình thực thi áp dụng luật được chặt chẽ, đúng đắn, hiệu quả hơn góp phần nâng cao chất lượng đấu thầu cũng như quá trình xây dựng công trình, giảm thiểu được những hệ lụy tiêu cực trong hoạt động đấu thầu, tạo niềm tin cho doanh nghiệp, nhân dân trong hoạt động đấu thầu và đấu thầu xây dựng các công trình quốc phòng.

  1. Cơ cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đấu thầu và pháp luật về đấu thầu xây dựng công trình ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng, thực tiễn về pháp luật đấu thầu xây dựng công trình ở Việt Nam hiện nay

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu xây dựng công trình ở Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết của đấu thầu xây dựng công trình

      1. 1.1.1. Khái niệm về đấu thầu và đấu thầu xây dựng công trình

Khoản 12, Điều 4, Luật Đấu thầu 2013 định nghĩa về đấu thầu như sau: “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”. Có thể nói đây là một định nghĩa khá chi tiết về đấu thầu, nó không chỉ trong lĩnh vực xây lắp như trước đây nhiều người vẫn nhầm lẫn là thuật ngữ đấu thầu chỉ xuất hiện trong xây dựng.

1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu xây dựng công trình

Thứ nhất, đấu thầu xây dựng công trình thường là những gói thầu có giá trị lớn và rất lớn có những gói thầu có giá hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng như các công trình trọng điểm quốc gia như nhà máy thủy điện, sân bay, bến cảng, đường cao tốc, cầu lớn…và nguồn vốn từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc do liên doanh góp vốn của nhiều chủ thể khác nhau.

Thứ hai, đấu thầu xây dựng công trình mang tính kỹ thuật, công nghệ cao. Nhiều hạng mục công trình đòi hỏi kỹ thuật công nghệ mới như công nghệ thi công thủy điện, sân bay, cầu ( như Cầu Nhật Tân)..;

Thứ ba, các dự án lớn thường có thời gian kéo dài, thi công trong điều kiện phức tạp đòi hỏi nhà thầu phải có những kinh nghiệm trong tổ chức thi công để vừa bảo đảm tiến độ công trình vừa bảo đảm yêu cầu chất lượng và kỹ thuật đề ra;

Thứ tư, đấu thầu công trình xây dựng thường mang tính phức hợp không giống đấu thầu cung cấp dịch vụ hay mua bán hàng hóa thông thường khác.

1.1.3. Sự cần thiết phải được điều chỉnh bằng luật đối với hoạt động đấu thầu ở nước ta hiện nay

Để có một cơ sở hạ tầng bảo đảm chúng ta phải từng bước xây dựng chúng; trong thời kỳ bao cấp ngành xây dựng trong cơ chế đó cũng chủ yếu là chỉ định thầu, giao thầu và ít có cạnh tranh dẫn tới hiệu quả chất lượng công trình không cao và lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước. Ngày nay, kinh tế thị trường đòi hỏi các ngành nghề trong đó có ngành xây dựng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Lĩnh vực đấu thầu xây dựng ở nước ta mặc dù đã xuất hiện và tồn tại đến nay được khoảng 24 năm ( khoảng từ 1994-nay) nhưng tới tận 2005 chúng ta lần đầu tiên mới ban hành được luật đấu thầu. Nghĩa là chúng ta chậm khoảng một thế kỷ hoặc hơn so với Mỹ và các nước phát triển. Luật đấu thầu đã mang lại cho xã hội những lợi ích kinh tế to lớn cũng như các chủ thể của luật này.

1.2. Pháp luật về đấu thầu xây dựng công trình

1.2.1. Các nguyên tắc của đấu thầu xây dựng

a) Nguyên tắc coi trọng hiệu quả

b) Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ

c) Nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng

d) Nguyên tắc đánh giá công bằng

e) Nguyên tắc minh bạch

f) Nguyên tắc trách nhiệm phân minh

g) Nguyên tắc bảo lãnh thích đáng

h) Nguyên tắc ưu tiên nhà thầu trong nước

i) Nguyên tắc tôn trọng các điều ước quốc tế

1.2.2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của đấu thầu xây dựng

Phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật đấu thầu 2013 được quy định ngay tại Điều 1 và Điều 2 của luật này, đó chính là các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.

      1. 1.2.3. Quy định của pháp luật hiện hành (Luật Đấu thầu 2013) về đấu thầu xây dựng công trình

1.2.3.1. Về tư cách hợp lệ của nhà thầu, nhà đầu tư

Được quy định tại Điều 5.

1.2.3.2. Về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu

Được quy định tại Điều 6.

1.2.3.3. Về điều kiện phát hành hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu

Được quy định tại Điều 7.

1.2.3.4. Quy định thông tin về đấu thầu

Được quy định tại Điều 8.

1.2.3.5. Quy định về ngôn ngữ, đồng tiền, bảo đảm dự thầu trong đấu thầu

Được quy định tại Điều 9,10 và Điều 11.

1.2.3.6. Quy định về thời gian, chi phí và ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu

Được quy định tại Điều 12.

      1. 1.2.4. Cấu trúc của pháp luật đấu thầu xây dựng công trình

1.2.4.1. Hình thức, phương thức lựa chọn nhà thầu

a) Hình thức lựa chọn nhà thầu

Luật đấu thầu 2013 quy định các hình thức lựa chọn nhà thầu gồm: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp, tự thực hiện, lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt và hình thức tham gia thực hiện của cộng đồng.

b) Phương thức lựa chọn nhà thầu

Luật Đấu thầu 2013 quy định có bốn phương thức lựa chọn nhà thầu:

– Phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ;

– Phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ;

– Phương thức hai giai đoạn một túi hồ sơ;

– Phương thức hai giai đoạn hai túi hồ sơ.

1.2.4.2. Kế hoạch và quy trình lựa chọn nhà thầu

+ Mời thầu:

Thứ nhất, sơ tuyển nhà thầu.

Thứ hai, chuẩn bị hồ sơ mời thầu. 

Thứ ba, thông báo mời thầu.

+ Dự thầu

Sau khi thông báo mời thầu, những nhà thầu quan tâm đến gói thầu hoặc đã ở trong danh sách sơ tuyển sẽ làm thủ tục dự thầu. Nhà thầu là những thương nhân có khả năng cung cấp dịch vụ, hàng hóa cho gói thầu.

+ Mở thầu

Mở thầu là việc tổ chức mở hồ sơ dự thầu tại thời điểm đã được ấn định hoặc trong trường hợp không có thời điểm được ấn định trước thì thời điểm mở thầu là ngay sau khi đóng thầu. Những hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn phải được bên mời thầu mở công khai.

Những hồ sơ dự thầu đúng hạn phải được bên mời thầu mở công khai.Các bên dự thầu có quyền tham dự mở thầu. Khi mở thầu bên mời thầu và các bên dự thầu phải ký vào biên bản mở thầu.

1.2.4.3. Phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu

Hồ sơ dự thầu được đánh giá và so sánh theo từng tiêu chuẩn làm căn cứ để đánh giá toàn diện. Các tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu do bên mời thầu quy định.

Có các phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu như: phương pháp giá thấp nhất; phương pháp giá đánh giá; phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá.

Trong quá trình đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu, bên mời thầu có thể yêu cầu bên dự thầu làm rõ các vấn đề có  liên quan đến hồ sơ dự thầu. Yêu cầu của  bên mời thầu và ý kiến trả lời của bên dự thầu phải được lập thành văn bản. Trường hợp bên mời thầu sửa đổi một số nội dung trong hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phải gửi nội dung đã sửa đổi bằng văn bản đến tất cả các bên dự thầu trước thời hạn cuối cùng nộp hồ sơ dự thầu ít nhất là mười ngày để các bên dự thầu có điều kiện hoàn chỉnh thêm hồ sơ dự thầu của mình.

1.2.4.4. Hợp đồng với nhà thầu

Các bên có thể thỏa thuận bên trúng thầu phải đặt cọc, ký quỹ hoặc bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng. Số tiền này do bên mời thầu quy định nhưng không quá 10% giá trị hợp đồng. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng có hiệu lực cho đến thời điểm bên trúng thầu hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng.Trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên trúng thầu không được nhận lại tiền ký quỹ, đặt cọc nếu từ chối thực hiện hợp đồng sau khi hợp đồng được giao kết. Sau khi nộp tiền đặt cọc, ký quỹ  bảo đảm thực hiện hợp đồng, bên trúng thầu được hoàn trả tiền đặt cọc, ký quỹ dự thầu.

1.2.4.5. Trách nhiệm pháp lý của các bên

Các bên tham gia quan hệ đấu thầu phải có trách nhiệm trong việc tôn trọng quy định của pháp luật về đấu thầu, đảm bảo quá trình đấu thầu công khai, minh bạch.

Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu 2013 từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam
Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu 2013 từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG, THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT ĐẤU

THẦU XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu các công trình xây dựng ở Việt Nam hiện nay

Mặc dù phải trải qua một thời gian dài với bao công sức của các cá nhân, tổ chức nghiên cứu ban hành luật pháp, các tổ tư vấn chuyên môn trong và ngoài nước đã tham gia nhiều hội thảo, hội nghị khoa học, rút kinh nghiệm từ thực tiễn Luật Đấu thầu 2005, song Luật Đấu thầu 2013 cũng không thể khắc phục được hết những lỗ hổng tồn tại trong quá trình đấu thầu.

Hoạt động đấu thầu xây dựng có khách thể là toàn bộ hồ sơ pháp lý liên quan đến dự án của các bên như hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ yêu cầu của bên mời thầu; hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất.. của bên nhà thầu. Còn chủ thể của hoạt động đấu thầu gồm:

Bên mời thầu: là cơ quan tổ chức có chuyên môn và năng lực để thực hiện các hoạt động đấu thầu

Nhà thầu xây dựng : là tổ chức cá nhân có đủ năng lực tham gia hoạt động xây dựng.

      1. 2.1.1. Hình thức, phương thức lựa chọn nhà thầu

* Hình thức lựa chọn nhà thầu: Đấu thầu rộng rãi; Đấu thầu hạn chế; Chỉ định thầu; Lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt.

* Phương thức lựa chọn nhà thầu: Được quy định từ Điều 28 đến Điều 31 Luật này.

      1. 2.1.2. Kế hoạch và quy trình lựa chọn nhà thầu

Kế hoạch lựa chọn nhà thầu được lập cho toàn bộ dự án, dự toán mua sắm.Trường hợp chưa đủ điều kiện lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho toàn bộ dự án, dự toán mua sắm thì lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho một hoặc một số gói thầu để thực hiện trước.

Trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu phải ghi rõ số lượng gói thầu và nội dung của từng gói thầu.

Quy trình lựa chọn nhà thầu [9, Điều 38]

1. Quy trình lựa chọn nhà thầu đối với đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế được thực hiện như sau:

a) Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu;

b) Tổ chức lựa chọn nhà thầu;

c) Đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng;

d) Trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu;

đ) Hoàn thiện, ký kết hợp đồng.

2. Quy trình lựa chọn nhà thầu đối với chỉ định thầu được thực hiện như sau:

a) Đối với chỉ định thầu theo quy trình thông thường bao gồm các bước: chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; tổ chức lựa chọn nhà thầu; đánh giá hồ sơ đề xuất và thương thảo về các đề xuất của nhà thầu; trình, thẩm định, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu; hoàn thiện, ký kết hợp đồng;

b) Đối với chỉ định thầu theo quy trình rút gọn bao gồm các bước: chuẩn bị và gửi dự thảo hợp đồng cho nhà thầu; thương thảo, hoàn thiện hợp đồng; trình, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu; ký kết hợp đồng.

6. Quy trình lựa chọn nhà thầu đối với lựa chọn nhà thầu tư vấn cá nhân được thực hiện như sau:

a) Chuẩn bị và gửi điều khoản tham chiếu cho nhà thầu tư vấn cá nhân;

b) Nhà thầu tư vấn cá nhân nộp hồ sơ lý lịch khoa học;

c) Đánh giá hồ sơ lý lịch khoa học của nhà thầu tư vấn cá nhân;

d) Thương thảo, hoàn thiện hợp đồng;

đ) Trình, phê duyệt và công khai kết quả lựa chọn nhà thầu;

e) Ký kết hợp đồng.

      1. 2.1.3. Phương pháp đánh giá HSDT

– Phương pháp giá thấp nhất: Thường được áp dụng cho các gói thầu đơn giản, quy mô nhỏ trong đó các đề xuất về tài chính, kỹ thuật, thương mại được coi là cùng một mặt bằng khi đáp ứng các yêu cầu ghi trong hồ sơ mời thầu.

– Phương pháp giá đánh giá: [9,k2, Điều 39] ghi rõ

a) Phương pháp này áp dụng đối với gói thầu mà các chi phí quy đổi được trên cùng một mặt bằng về các yếu tố kỹ thuật, tài chính, thương mại cho cả vòng đời sử dụng hàng hóa, công trình;

b) Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu bao gồm: tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm trong trường hợp không áp dụng sơ tuyển; tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật; tiêu chuẩn xác định giá đánh giá.

c) Đối với các hồ sơ dự thầu đã vượt qua bước đánh giá về kỹ thuật thì căn cứ vào giá đánh giá để so sánh, xếp hạng. Nhà thầu có giá đánh giá thấp nhất được xếp thứ nhất.

– Phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá: sử dụng khi gói thầu không áp dụng được hai phương pháp giá thấp nhất và giá đánh giá trên.

– Xác định giá thấp nhất (đối với trường hợp áp dụng phương pháp giá thấp nhất):

Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu xây lắp bao gồm:

Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm

– Tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật

– Tiêu chuẩn xác định giá đánh giá (đối với trường hợp áp dụng phương pháp giá đánh giá)

      1. 2.1.4. Hợp đồng với nhà thầu

Hợp đồng xây dựng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu và bên nhận thầu về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên để thực hiện một, một số hay toàn bộ công việc trong hoạt động xây dựng.

Luật đấu thầu 2013 quy định các loại hợp đồng đó là: Hợp đồng trọn gói; Hợp đồng theo đơn giá cố định; Hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh; Hợp đồng theo thời gian.

Hợp đồng trọn gói là hợp đồng có giá cố định trong suốt thời gian thực hiện đối với toàn bộ nội dung công việc trong hợp đồng. Việc thanh toán hợp đồng trọn gói được thực hiện một hoặc nhiều lần sao cho tổng giá trị các lần thanh toán không vượt quá giá trị ghi trong hợp đồng. Giá gói thầu hợp đồng trọn gói phải tính đến các chi phí rủi ro, trượt giá có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hợp đồng trọn gói là loại hợp đồng cơ bản, phù hợp với những gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, phi tư vấn đơn giản; gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô nhỏ phải áp dụng hợp đồng trọn gói. Đối với gói thầu xây lắp, trong quá trình thương thảo, hoàn thiện hợp đồng, các bên liên quan cần rà soát lại bảng khối lượng công việc theo thiết kế được duyệt; nếu nhà thầu hoặc bên mời thầu phát hiện bảng số lượng, khối lượng công việc chưa chính xác so với thiết kế, bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định việc điều chỉnh khối lượng công việc để bảo đảm phù hợp với thiết kế;

Hợp đồng theo đơn giá cố định là hợp đồng có đơn giá không thay đổi trong suốt thời gian thực hiện đối với toàn bộ nội dung công việc trong hợp đồng. Nhà thầu được thanh toán theo số lượng, khối lượng công việc thực tế được nghiệm thu theo quy định trên cơ sở đơn giá cố định trong hợp đồng;

Hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh là hợp đồng có đơn giá có thể được điều chỉnh căn cứ vào các thỏa thuận trong hợp đồng đối với toàn bộ nội dung công việc trong hợp đồng. Nhà thầu được thanh toán theo số lượng, khối lượng công việc thực tế được nghiệm thu theo quy định trên cơ sở đơn giá ghi trong hợp đồng hoặc đơn giá đã được điều chỉnh.

Hợp đồng theo thời gian là hợp đồng áp dụng cho gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. Giá hợp đồng được tính trên cơ sở thời gian làm việc theo tháng, tuần, ngày, giờ và các khoản chi phí ngoài thù lao. Nhà thầu được thanh toán theo thời gian làm việc thực tế trên cơ sở mức thù lao tương ứng với các chức danh và công việc ghi trong hợp đồng.

Hợp đồng được ký kết giữa các bên phải phù hợp với nội dung trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, kết quả thương thảo hợp đồng, quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.

Giá hợp đồng không được vượt giá trúng thầu. Trường hợp bổ sung khối lượng công việc ngoài hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu dẫn đến giá hợp đồng vượt giá trúng thầu thì phải bảo đảm giá hợp đồng không được vượt giá gói thầu hoặc dự toán được phê duyệt; nếu dự án, dự toán mua sắm gồm nhiều gói thầu, tổng giá hợp đồng phải bảo đảm không vượt tổng mức đầu tư, dự toán mua sắm được phê duyệt.

Hợp đồng được điều chỉnh theo các nguyên tắc sau [9, Điều 67]:

1.Việc điều chỉnh hợp đồng phải được quy định cụ thể trong văn bản hợp đồng, văn bản thỏa thuận về điều kiện của hợp đồng (nếu có).

2.Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ được áp dụng trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực.

3.Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ được áp dụng đối với hợp đồng theo đơn giá cố định, hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh và hợp đồng theo thời gian.

4.Giá hợp đồng sau khi điều chỉnh phải bảo đảm không vượt quá giá gói thầu hoặc dự toán được phê duyệt. Trường hợp dự án, dự toán mua sắm gồm nhiều gói thầu, tổng giá hợp đồng sau khi điều chỉnh phải bảo đảm không vượt tổng mức đầu tư, dự toán mua sắm được phê duyệt.

5.Đối với hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh, việc điều chỉnh đơn giá được thực hiện từ thời điểm phát sinh yếu tố làm thay đổi giá và chỉ áp dụng đối với khối lượng được thực hiện theo đúng tiến độ ghi trong hợp đồng hoặc tiến độ được điều chỉnh theo quy định tại khoản 6 và khoản 7 Điều này.

6.Tiến độ thực hiện hợp đồng chỉ được điều chỉnh trong trường hợp sau đây:

a) Trường hợp bất khả kháng, không liên quan đến vi phạm của các bên tham gia hợp đồng;

b) Thay đổi phạm vi công việc, thiết kế, biện pháp thi công do yêu cầu khách quan làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng;

c) Việc bàn giao mặt bằng không đúng với các thỏa thuận trong hợp đồng do ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng mà không do lỗi của nhà thầu gây ra.

7.Trường hợp điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng mà không làm kéo dài đến tiến độ hoàn thành dự án thì các bên tham gia hợp đồng thỏa thuận, thống nhất việc điều chỉnh. Trường hợp điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng làm kéo dài tiến độ hoàn thành dự án thì phải báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Thực tiễn các nhà thầu nhà nước, tư nhân, quốc tế hay liên danh nói chung và các nhà thầu là doanh nghiệp, đơn vị xây dựng các công trình thuộc Quân chủng Hải quân nói riêng trong quá trình điều chỉnh hợp đồng thường vi phạm khoản 4 Điều này. Nghĩa là giá trị gói thầu sau điều chỉnh thường vượt tổng mức đầu tư.

Nguyên nhân của những trường hợp này chủ quan có, khách quan có nhưng chung quy lại xét về phía chủ quan là chủ yếu. Phía chủ đầu tư mà cụ thể là nhà tư vấn khi khảo sát, thiết kế lập dự án không đánh giá hết được những khó khăn gặp phải của nhà thầu trong quá trình thi công, điều này đã làm cho nhà thầu đôi khi ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan và buộc phải điều chỉnh giá gói thầu tăng lên mới đảm bảo thi công được, có những dự án tăng gấp đôi giá trị.

      1. 2.1.5. Trách nhiệm pháp lý của các bên

Trách nhiệm của tổ chuyên gia (Điều 76, Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, ngày 09 tháng 12 năm 2013)

Trách nhiệm của nhà thầu, nhà đầu tư (Điều 77, Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, ngày 09 tháng 12 năm 2013)

2.2. Thực tiễn về pháp luật về đấu thầu xây dựng ở Việt Nam hiện nay nói chung và các công trình quốc phòng nói riêng từ thực tiễn các doanh nghiệp xây dựng thuộc Quân chủng Hải quân

Trách nhiệm của tổ chuyên gia, đơn vị tư vấn của chủ đầu tư

Thứ nhất, khoản 7 Điều 76 có quy định về việc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật cho các bên liên quan nếu thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra.

Thứ hai, điểm e khoản 1 Điều 7 có quy định: Bảo đảm mặt bằng thi công theo tiến độ thực hiện gói thầu.

Thứ ba, là mặc dù quy định cụ thể ở điểm a khoản 8 Điều 89 về cấm chuyển nhượng thầu phần công việc từ 10% trở lên của gói thầu hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỉ đồng. Pháp luật quy định như vậy cũng chưa chặt chẽ vì nhiều nhà thầu chỉ cần chia nhỏ gói thầu định chuyển nhượng ra sao cho không vượt quá giá trị 10% hoặc 50 tỉ đồng nói trên là vẫn có thể chuyển nhượng mà không vi phạm điều cấm.

Thứ tư, hiện tượng thỏa thuận về việc rút khỏi việc dự thầu hoặc rút đơn dự thầu được nộp trước đó để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu.

Thứ năm, là các dự án, gói thầu quy định về đấu thầu rộng rãi và chỉ định thầu chưa thực sự cách biệt.

Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu 2013 từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam
Đấu thầu các công trình xây dựng quốc phòng theo Luật Đấu thầu 2013 từ thực tiễn các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

3.1. Những ưu điểm và hạn chế của Luật Đấu thầu hiện nay

Luật Đấu thầu số số 43/2013/QH13 có những chế định mới đáng chú ý là: Đã quy định tư cách hợp lệ nhà thầu; quy định về bảo đảo dự thầu trong chào hàng cạnh tranh; Thời gian phát hành hồ sơ mời thầu để lựa chọn nhà thầu nhanh hơn (sau khi đăng thông báo 3 ngày; luật cũ 10 ngày); Luật mới cũng quy định về ưu đãi lựa chọn nhà thầu Điều 14 “Nhà thầu được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu quốc tế để cung cấp hàng hóa mà hàng hóa đó có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỉ lệ từ 25% trở lên” quy định này đã khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa trong nước phát huy nội lực đất nước. Nhà thầu có từ 25% trở lên số lượng lao động là nữ giới, thương binh, người khuyết tật; Luật Đấu thầu 2013 cũng quy định chặt chẽ hơn trong hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu như phương thức hai giai đoạn hai túi hồ sơ, tách biệt hồ sơ kỹ thuật với hồ sơ tài chính nhằm lựa chọn nhà thầu thiết thực bảo đảm yêu cầu thực hiện công việc khi được lựa chọn, đồng thời cũng loại bỏ được những nhà thầu bỏ giá thấp nhưng năng lực kém; Về hợp đồng cũng được phân loại cụ thể hơn so với Luật đấu thầu cũ và cũng quy định về thương thảo hợp đồng là bước cần thiết giữa nhà thầu với chủ đầu tư để rà soát khối lượng, đề nghị sửa đổi giữa các bên với nhau trước khi ký kết hợp đồng giao nhận thầu, điều này làm giảm những hệ lụy bất cẩn giữa các bên trong quá trình tổ chức thi công, thanh quyết toán dự án, gói thầu sau này.

Về cơ bản Luật Đấu thầu 2013 đã đáp ứng được những yêu cầu mới ngày càng đòi hỏi cao cả về đấu thầu trong nước lẫn đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được như trên, tác giả luận văn cũng thẳng thắn nêu lên những ý kiến cá nhân về những điểm yếu, lỗ hổng chưa thể khỏa lấp được của Luật này qua nghiên cứu và trải nghiệm thực tế bản thân trong lĩnh vực đấu thầu và xây dựng công trình.

3.2. Phương hướng hoàn thiện

Một là, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật nhà nước hiện hành, tránh các quy định chồng chéo giữa các đạo luật khi điều chỉnh cùng một sự kiện pháp lý và cùng đối tượng.

Hai là, nhà nước phải thực sự làm tốt vai trò chính phủ kiến tạo, không can thiệp sâu vào công việc các nhà thầu, để các nhà thầu tự do cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch trong khuôn khổ pháp luật và Luật Đấu thầu.

Ba là, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tới mọi người dân nhất là các chủ thể thuộc sự điều chỉnh của Luật Đấu thầu.

Bốn là, hạn chế và đi đến hủy bỏ cơ chế xin cho trong đấu thầu đối với các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát kịp thời phát hiện sai phạm, xử lý đúng luật, giải quyết kịp thời các khiếu kiện, khiếu nại.

3.3. Giải pháp hoàn thiện

      1. 3.3.1. Hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật và Luật Đấu thầu 2013

Nghĩa là các đạo luật, bộ luật khi điều chỉnh cùng một đối tượng, cùng thời điểm phải thống nhất. Tránh trường hợp cùng sự biến pháp lý xảy ra nhưng nơi này, tòa án này áp dụng luật này, nơi khác tòa án khác áp dụng luật khác dẫn tới không thống nhất tạo kẽ hở pháp lý cho những người vi phạm luật tìm cách giảm nhẹ trách nhiệm, lách luật nhằm trốn tránh trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ đối với bên kia trong quá trình hợp đồng, đấu thầu xây dựng công trình.

Điều đó có nghĩa là luật chung và luật chuyên nghành phải từng bước đồng bộ, tránh trường hợp áp dụng luật chung thì không vi phạm, nhưng áp dụng luật chuyên nghành thì lại vi phạm và ngược lại.

      1. 3.3.2. Nhà nước phải thực sự làm tốt vai trò chính phủ kiến tạo

Nhà nước phải thực sự làm được vai trò chính phủ kiến tạo, nghĩa là tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, không được ưu ái quá làm doanh nghiệp nhà nước không phát triển được, ỉ lại, mất sức mạnh cạnh tranh, làm cho doanh nghiệp này trong nước thì không phải cạnh tranh với ai, còn khi tham gia vào hội nhập môi trường khu vực hoặc quốc tế thì thất bại ngay trên sân nhà hoặc giả quá ưu ái của nhà nước dẫn tới bán giá thấp làm nảy sinh kiện tụng quốc tế. Chính phủ kiến tạo không có nghĩa là để cạnh tranh “quá” tự do dẫn đến độc quyền, cá lớn nuốt cá bé, các doanh nghiệp, nhà thầu nhỏ muôn đời vẫn chỉ làm nhà thầu phụ cho các nhà thầu lớn; ở đây phải kết hợp hài hòa giữa Luật Đấu thầu với luật Cạnh tranh phải chống cho được độc quyền, chống hạn chế cạnh tranh dưới bất kỳ hình thức nào cũng như cạnh tranh không lành mạnh. Một thực tế hiện nay là mặc dù Luật Đấu thầu 2013 đã đưa vào những ưu đãi lựa chọn nhà thầu để nhà thầu nhỏ, mới gia nhập sân chơi có cơ hội. Nhưng để những nhà thầu này đấu thầu công khai minh bạch và được lựa chọn để thi công thì còn phải bàn tới nhiều nữa. Họ vẫn là những nhà thầu phụ âm thầm của các nhà thầu lớn.

      1. 3.3.3. Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đến mọi người dân và các chủ thể của Luật Đấu thầu

Chúng ta đều biết rằng để làm đúng luật phải hiểu được luật, để hiểu được luật phải được giáo dục, còn hình thức giáo dục có nhiều cách đó là tự học, tự tìm hiểu hoặc tham gia các lớp học, lớp tập huấn, buổi tuyên truyền…

Chúng ta phải đưa pháp luật tới mọi công dân nhất là những người làm công tác chuyên môn có liên quan. Đối với Luật Đấu thầu thì các bên là chủ thể của Luật này phải thực sự hiểu thấu để tránh làm sai. Cán bộ, người chủ trì, tổ tư vấn, chuyên gia phải hiểu Luật Đấu thầu để tuân thủ áp dụng phát huy tốt pháp luật chứ không phải hiểu luật để lách luật làm sai trái. Suy cho cùng pháp luật là do con người làm ra, nên bản thân nó có những khiếm khuyết nhất định khi ban hành, điều quan trọng là làm sao những người liên quan phát huy ưu điểm của pháp luật để làm tốt vai trò quản lý vì lợi ích chung, đặc biệt trong đấu thầu xây dựng công trình vì tính chất đặc điểm của nó là những dự án lớn, tiêu tốn nhiều tiền của của nhà nước, tránh làm méo mó nó, gian lận trong đấu thầu vì lợi ích bản thân hoặc lợi ích nhóm.

Một mặt tuyên truyền pháp luật để người dân hiểu được có sự giám sát cộng đồng đối với các dự án nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nếu chúng ta không làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thì người dân không hiểu được pháp luật có quy định này nên có những công trình chỉ cần nhà thầu ghi biển, “ không phận sự miễn vào” và xung quanh dùng rào tôn vây kín che khuất tầm nhìn thì người dân không thể biết được những sai trái của nhà thầu thi công ở trong đó.

      1. 3.3.4. Hạn chế và đi đến hủy bỏ cơ chế xin cho trong đấu thầu đối với các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước; làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát kịp thời phát hiện sai phạm, xử lý đúng luật, giải quyết kịp thời các khiếu kiện, khiếu nại

Kiểm tra, giám sát là công đoạn không thể thiếu đối với bất kỳ hoạt động quản trị nào. Trong đấu thầu xây dựng các công trình xây dựng, vì tính chất đặc điểm và sự đóng góp to lớn của nó đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đất nước nên khâu kiểm tra, giám sát, thanh tra… đóng vai trò đặc biệt quan trọng và là hoạt động thường xuyên liên tục trong suốt quá trình thực hiện đấu thầu cho đến khâu xây dựng công trình. Kiểm tra giám sát góp phần tạo nên sự công khai minh bạch của Luật Đấu thầu, làm giảm sự gian lận và kịp thời ngăn chặn những nguy cơ, những hành vi sai trái của các chủ thể tham gia đấu thầu của các bên.

Tổ chuyên gia, tổ tư vấn phải là những người được đào tạo cơ bản và chuyên sâu về ngành xây dựng và đấu thầu, có kinh nghiệm thực tiễn và đạo đức nghề nghiệp. Có như vậy mới đủ khả năng để làm tốt công tác kiểm tra giám sát. Không những tổ kiểm tra giám sát của chủ đầu tư mà chủ đầu tư cũng như cơ quan quản lý nguồn vốn định kỳ hoặc bất thường tổ chức kiểm tra giám sát đối với cả chủ đầu tư lẫn nhà thầu trong quá trình đấu thầu dự án và xây dựng công trình. Khi phát hiện sai sót do lỗi vô tình hay cố ý của một trong các bên phải báo cáo kịp thời với cá nhân, tổ chức có thẩm quyền và đề xuất biện pháp kịp thời giải quyết theo pháp luật quy định. Phải quy trách nhiệm cá nhân, tổ chức và bồi thường thiệt hại nếu để xảy ra sai phạm làm tổn hại lợi ích của một trong các bên.

Xóa bỏ cơ chế xin cho, làm minh bạch hóa đấu thầu, xử lý nghiêm minh những cá nhân tổ chức có thẩm quyền làm biến tướng dự án, gói thầu lẽ ra phải đấu thầu rộng rãi thì lại tìm cách biến tướng thành chỉ định thầu, một hình thức xin cho đang phổ biến hiện nay.

Các tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu có sai phạm hoặc không phát hiện được sai phạm vì chủ quan hay cố tình đều phải có chế tài xử phạt nghiêm minh. Thực tế chúng ta làm chưa tốt vấn đề này.

KẾT LUẬN

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cũng như quá trình toàn cầu hóa hội nhập quốc tế, đấu thầu là hoạt động đặc biệt quan trọng và ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế và công nghệ, điều kiện xã hội và nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con người, luật đấu thầu tự nó cũng luôn thay đổi để phù hợp xu thế đòi hỏi của xã hội. Một bộ luật dù hoàn chỉnh đến đâu về mặt lý luận thì khi đưa vào áp dụng trong xã hội cũng cần có những con người chính trực để tuân thủ phát triển chứ không phải làm méo mó hoặc tìm khe hở của nó. Mọi sản phẩm do con người làm ra đều chứa đựng yếu tố không hoàn mỹ, đó là tính tương đối của vật chất. Cách đây hơn 200 năm, những người cha lập quốc nước Mỹ “ the founding fathers” đã nhóm họp ở Philadelphia để cùng nhau bàn thảo suốt hơn 5 tháng ròng rã và cuối cùng họ đã cho ra đời một bản hiến pháp nổi tiếng thế giới đó là Hiến pháp Mỹ 1787. Những người lập hiến lúc đó cũng không nghĩ là nó tồn tại lâu như vậy. Nhưng lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy dù tác phẩm hoàn hảo hay không, quan trọng vẫn là người sử dụng và áp dụng nó.

Với một hệ thống pháp luật còn mới mẻ của nước ta so với các nước phương tây tiên tiến chúng ta còn phải học tập nhiều. Quả thực trong mấy chục năm qua, nhà nước ta đã chú trọng công tác đào tạo những nhà khoa học pháp lý các chuyên gia luật học đầu ngành và đều được đào tạo bài bản ở các nước phương tây tiên tiến đó. Ngày nay họ là những nhà quản lý, nhà giáo, nhà làm luật… đóng góp rất nhiều sức lực và tâm huyết cho ngành luật nước nhà. Chúng ta có một đội ngũ khoa học giỏi như vậy tại sao pháp luật nước ta nói chung và pháp luật đấu thầu nói riêng vẫn còn nhiều khe hở như vậy. Tác giả luận văn chưa đủ khả năng để diễn giải vấn đề trên, cần thêm sự quan tâm của các nhà khoa học nhiều kinh nghiệm và nhiều công trình hội thảo kết luận.

Điều quan trọng tác giả luận văn mong muốn nhất đó là những người áp dụng pháp luật khi vận dụng phải đứng trên quan điểm tiến bộ, hiểu được tư duy của người làm luật mà áp dụng cho đúng không tìm khe hở lợi dụng và không lợi dụng chức quyền để đứng trên, nằm ngoài pháp luật.

Với những kinh nghiệm của bản thân trong lĩnh vực xây dựng công trình, luận văn trước hết khái quát được những khái niệm, tính chất, đặc điểm và tầm quan trọng của đấu thầu, đồng thời cũng nêu được nền tảng pháp lý của pháp luật đấu thầu hiện tại nước nhà. Những ưu điểm, hạn chế và cách áp dụng cách hiểu của các chủ thể là đối tượng điều chỉnh của luật. Tác giả từ những công trình vụ việc thực tế từ công tác đấu thầu xây dựng các công trình quốc phòng của các doanh nghiệp quốc phòng thuộc Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam đi sâu phân tích làm rõ thêm những khiếm khuyết của Luật Đấu thầu 2013 và đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu trong thời gian tới. Với tầm nhìn hạn hẹp, luận văn chắc chắn chưa thể đáp ứng được yêu cầu cao hơn của độc giả, tác giả luận văn mong muốn được lắng nghe ý kiến góp ý của quý vị để mở rộng tầm nhìn và lấy kinh nghiệm cho những công trình nghiên cứu sau này.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 7\KINH TE\NGUYEN THE LUC

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *