Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn

Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn

Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng Nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị của nước ta. Đầu tư cho phát triển nông nghiệp – nông dân – nông thôn là vấn đề quan trọng không chỉ giúp ổn định xã hội, phát triển kinh tế mà quan trọng hơn nó còn có ý nghĩa chiến lược trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư cho khu vực này.

Trải qua các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân được Đảng ta ngày càng quan tâm và định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình, yêu cầu trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Tại Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về Nông nghiệp, nông thôn, nông dân với mục tiêu “xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT-XH hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường” [1].

Đặc biệt, định hướng phát triển kinh tế trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) “phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng NTM” [3.tr75]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII cũng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.

Tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10 – 11/2015), Quốc hội (Khóa XIII) đã quyết định cả nước chỉ thực hiện 2 chương trình MTQG (thay vì trước đây có 16 chương trình) đó là: Xây dựng NTM và giảm nghèo bền vững. Với quyết định này, nguồn lực đầu tư của Quốc gia không còn bị phân tán, dàn trải mà được tập trung một cách có trọng tâm và hiệu quả vào 2 chương trình nêu trên. Theo kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020 đã được Quốc hội thông qua, vốn dành cho Chương trình MTQG xây dựng NTM là 43.119 tỷ đồng.

Thực hiện chủ trương, định hướng của Đảng, ngày 04/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình MTQG về xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM (sửa đổi tại Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 và được thay thế tại Quyết định 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016).

Cùng với cả nước, Quảng Nam cũng đã triển khai đồng bộ, toàn diện chính sách xây dựng NTM trên 204/244 xã, phường, thị trấn. Đối với huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn) cũng đã tập trung triển khai thực hiện xây dựng NTM trên 13 xã. Thị ủy Điện Bàn đã ban hành Nghị quyết 03-NQ/TU ngày 07/11/2011 tiếp tục thực hiện Nghị quyết thực hiện Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng (khóa X) về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới. HĐND, UBND thị xã ban hành và triển khai thực hiện nhiều cơ chế, chính sách để thực hiện việc xây dựng NTM trên toàn thị xã cũng như thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM.

Như vậy, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về xây dựng NTM được ban hành và triển khai thực hiện từ năm 2010. Có thể khẳng định rằng chính sách xây dựng NTM là một trong những chính sách công rất quan trọng và có tầm ảnh hưởng rộng lớn, quyết định đến sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam. Mặc dù, đến nay, chính sách xây dựng NTM đã đi được hơn hai phần ba chặng đường của giai đoạn 2010-2020, và 13/13 xã của thị xã Điện Bàn đã đạt chuẩn xã NTM, Thị xã cũng đã được Chính phủ công nhận Thị xã NTM vào cuối năm 2015. Nhưng vấn đề giữ chuẩn và nâng chuẩn chất lượng thị xã, xã NTM là vấn đề cần được thường xuyên quan tâm và việc tổ chức xem xét, đánh giá lại chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn thị xã Điện Bàn là việc làm cần thiết, thường xuyên và phù hợp nhằm chỉ ra những kết quả đạt được để tiếp tục phát huy nâng cao hơn nữa chất lượng xây dựng NTM, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế, qua đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách. Đặc biệt hơn là mục tiêu của tỉnh Quảng Nam đặt ra đối với Điện Bàn trong thời gian đến là phải xây dựng tất cả các khu dân cư trên địa bàn các xã NTM đạt khu dân cư NTM kiểu mẫu; xã NTM kiểu mẫu và phấn đấu đến năm 2020 xây dựng 3 xã vùng Gò Nổi (Điện Quang, Điện Trung, Điện Phong) trở thành khu vực Nông thôn mới tiêu biểu cho cả tỉnh Quảng Nam.

Đối với Điện Bàn, mặc dù chính thức trở thành Thị xã vào năm 2015, nhưng số lượng xã nông thôn vẫn còn nhiều (13/20 xã, phường) và số phường có tỷ lệ người dân làm nông nghiệp còn tương đối cao. Hơn nữa trong số đó, có nhiều xã phát triển nông nghiệp là chủ yếu nên việc xây dựng các xã để trở thành phường là khá khó khăn và phải trong thời gian dài; việc xây dựng duy trì thành công xã NTM cũng là một bước chuẩn bị, một nền tảng rất quan trọng để xây dựng xã lên phường. Do vậy việc xây dựng NTM ở Thị xã Điện Bàn là một trong những nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã. Bản thân tôi chọn vấn đề “Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” để làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ Chính sách công là có tính cấp thiết.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nhằm đánh giá lại những mặt được, chưa được, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách xây dựng NTM cũng như thực hiện chính sách xây dựng NTM chất lượng, hiệu quả hơn trong thời gian đến.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến chính sách, đánh giá chính sách xây dựng NTM.

Xem xét việc đánh giá thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn Thị xã Điện Bàn. Qua đó chỉ ra những nội dung hợp lý, những vấn đề còn bất cập, hạn chế của chính sách xây dựng NTM trong thời gian qua.

Kiến nghị, đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện cũng như thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn thị xã Điện Bàn cũng như của tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Chính sách xây dựng NTM của Nhà nước và kết quả triển khai thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung: nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách xây dựng NTM.

– Về không gian: thực tiễn triển khai thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và hệ thống các văn bản quy định của Nhà nước về chính sách xây dựng NTM.

– Về thời gian: nghiên cứu chính sách và kết quả thực hiện xây dựng NTM giai đoạn từ năm 2011 đến 2017.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn dựa trên quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng Nông thôn mới.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp thu thập số liệu, thông tin: Số liệu, thông tin phục vụ nghiên cứu luận văn được lấy từ các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam, Đại hội Đảng bộ Thị xã Điện Bàn, các Nghị quyết của Đảng các cấp; các văn bản, đặc biệt là các báo cáo của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, của tỉnh Quảng Nam và các cấp chính quyền của thị xã Điện Bàn; báo cáo giám sát của Đoàn ĐBQH tỉnh, HĐND thị xã; một số công trình, bài viết nghiên cứu về chính sách xây dựng nông nghiệp, nông thôn, nông dân và xây dựng NTM; tham khảo, trao đổi, lấy ý kiến, kiến nghị, nhận xét, đánh giá của một số cán bộ làm công tác chuyên môn về xây dựng NTM, lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương và người dân.

– Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu: hệ thống hóa, phân tích, đánh giá các số liệu, thông tin thu thập được để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.

– Phương pháp phân tích chính sách: áp dụng để phân tích, đánh giá quy trình thực hiện chính sách xây dựng NTM trong thực tiễn (sử dụng các phương pháp cụ thể: định lượng, định tính, kết hợp định lượng, định tính).

– Phương pháp đánh giá trước-sau: so sánh thực trạng nông thôn thị xã Điện Bàn trước và sau khi thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới (tại các thời điểm 2011 – 2017)

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Qua việc phân tích, đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, các cơ sở lý luận, lý thuyết về xây dựng NTM được hệ thống hóa và làm rõ hơn, góp phần làm phong phú thêm lý thuyết về xây dựng NTM.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Cung cấp cơ sở thực tiễn để đánh giá, làm rõ chính sách xây dựng NTM của Thị xã Điện Bàn và tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua, qua đó đề xuất góp phần hoàn thiện chính sách xây dựng NTM.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới.

Chương 2: Thực trạng đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới tại Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ

CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

    1. 1.1. Sự cần thiết của chính sách xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam

Việt Nam là nước nông nghiệp với gần 70% dân cư sống ở nông thôn, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững có vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. Đặc biệt trong xu thế hiện nay, không thể có một nước công nghiệp nếu nông thôn còn lạc hậu và đời sống của người dân còn thấp.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2015, Việt Nam có 8.971 xã (chiếm hơn 80%) trong tổng số 11.155 đơn vị hành chính cấp xã; dân số sống ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 66,06% dân số của cả nước; trong khi đó, ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 17% tổng sản phẩm trong nước. Từ những con số này cho thấy rằng khu vực nông nghiệp, nông thôn mặc dù chiếm tỷ trọng lớn về diện tích và dân số nhưng kinh tế có quy mô nhỏ và đóng góp không nhiều trong tổng số GDP của cả nước.

Chủ trương xây dựng NTM là một việc làm hết sức cần thiết, có thể nói đây là một cuộc cách mạng lớn làm chuyển biến bộ mặt nông thôn, nông nghiệp Việt Nam mà cần phải có sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng và sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Xây dựng NTM không chỉ là vấn đề kinh tế – xã hội mà đó là vấn đề kinh tế – chính trị tổng hợp. Bởi thực tế cho thấy rằng trước khi triển khai thực hiện chương trình MTQG xây dựng NTM, khu vực nông thôn Việt Nam chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và đối diện với nhiều thách thức, khó khăn như: Kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy lợi…) còn nhiều yếu kém, vừa thiếu, vừa yếu, nhiều hạng mục công trình xuống cấp trầm trọng; tỷ lệ đường giao thông nông thôn được bê tông hóa thấp; giao thông nội đồng, thủy lợi ít được quan tâm đầu tư; chất lượng lưới điện nông thôn chưa thực sự an toàn; các cơ sở, trang thiết bị, phương tiện đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa còn thiếu và hư hỏng; trụ sở làm việc của các xã xuống cấp trầm trọng.

Bên cạnh đó phát triển nông nghiệp thiếu bền vững, thiếu định hướng, còn tự phát; kinh tế phát triển chậm, sản xuất nhỏ lẽ, manh mún, năng suất lao động thấp, chưa có nhiều mô hình sản xuất phù hợp, chất lượng hàng hóa nông sản chưa đủ sức cạnh tranh với thị trường; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng KHCN tiên tiến trong nông nghiệp còn chậm; Sự liên kết 4 nhà (nhà nông – nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp) chưa chặt chẽ, đồng bộ dẫn đến việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn rất ít; kinh tế hộ, kinh tế trang trại, HTX còn khó khăn, bất cập, hạn chế, thậm chí hoạt động yếu kém. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, cơ hội có việc làm mới tại địa phương không nhiều, lao động đã qua đào tạo còn thấp. Đặc biệt là khu vực nông thôn tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn khá cao. Mặc dù đời sống vật chất và tinh thần có nâng lên nhưng khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị còn tương đối lớn.

Đời sống tinh thần của dân cư ở nông thôn còn hạn chế, nhiều nét văn hóa truyền thống đang có nguy cơ mai mọt, biến dạng như: tiếng nói, trang phục, phong tục; an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội một số nơi diễn biến phức tạp, khó lường… Từ những thực trạng trên đòi hỏi cần phải có chính sách toàn diện để phát triển nông thôn một cách bền vững, đó chính là chương trình MTQG xây dựng NTM. Như vậy việc xây dựng NTM cần phải thể hiện ở các nội dung sau:

– Về định hướng phát triển: yêu cầu đầu tiên trong xây dựng NTM là công tác quy hoạch, đây là một nhiệm vụ hàng đầu của xây dựng NTM, là định hướng chiến lược quan trọng và lâu dài để xây dựng, phát triển nông thôn một cách bài bản, chủ động. Các loại quy hoạch cần có: quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường, quy hoạch phát triển các khu dân cư.

Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

– Về hạ tầng KT-XH: Xây dựng đường giao thông, hệ thống kênh mương thủy lợi, hạ tầng trường lớp học, điện, chợ, cơ sở vật chất văn hóa và đặc biệt là nhà ở dân cư, là tiền đề quan trọng để thay đổi bộ mặt nông thôn, đáp ứng các nhu cầu phát triển KT-XH. Thực trạng chung của hạ tầng khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay là vừa yếu, vừa thiếu đồng bộ, trong khi đó nguồn lực đầu tư hết sức hạn chế, khó khăn. Khi xây dựng NTM, yêu cầu các cấp chính quyền phải huy động, lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ.

– Về kinh tế: xây dựng NTM sẽ tạo điều kiện để khu vực nông thôn phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá, hướng đến thị trường, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, nâng cao mức sống và thu nhập cho người dân nông thôn. Để giải quyết tốt vấn đề này, nhà nước phải có cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này; hỗ trợ, nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương; định hướng, hướng dẫn tổ chức sản xuất theo quy hoạch, tính toán, giải quyết hài hòa đầu vào – đầu ra cho sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng đất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ mới trong sản xuất; từng bước chấm dứt tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp, tự phát.

– Về con người, văn hóa, xã hội, môi trường:

+ Xây dựng NTM đòi hỏi cần phải có con người nông thôn “mới” (có tư duy mới, có kiến thức mới, có ý thức mới và quyết tâm mới và có đời sống văn hóa mới), có trình độ trong sản xuất, văn hóa trong ứng xử, sống hài hòa, thân thiện với môi trường tự nhiên, xã hội và đặc biệt phải biết phát huy vai trò, trách nhiệm là “chủ thể” trong xây dựng NTM. Để làm được điều này phải có quá trình lâu dài, từng bước thay đổi nhận thức, xóa bỏ những tập quán lạc hậu, phản khoa học, hình thành những thói quen mới tiên tiến, văn minh.

– Về an ninh, trật tự xã hội và hệ thống chính trị: phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật; gắn lệ làng, hương ước với pháp luật để điều chỉnh hành vi con người, đảm bảo tính pháp lý, tôn trọng kỷ cương phép nước, phát huy tính tự chủ, vai trò tự quản của làng, xã. Hệ thống chính trị được xây dựng vững mạnh với đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn mới. An ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, người dân yên tâm sống trong môi trường xã hội an toàn.

Để làm tốt được việc xây dựng NTM hiệu quả, thành công, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kiến thức kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện vật chất, động viên tinh thần để người dân thực hiện. Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi chính sách và là “chủ thể” của quá trình xây dựng NTM . Các chính sách xây dựng NTM sẽ tạo hiệu ứng tổng thể, thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển theo định hướng của Đảng, Nhà nước. Khi đó, vai trò của NTM được phát huy tối đa, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

    1. 1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới

Để đưa ra được cách hiểu về đánh giá chính sách xây dựng NTM cần phải làm làm rõ một số thuật ngữ sau:

Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp [33].

Trong quản lý hành chính nhà nước, theo Thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã.

Như vậy, nông thôn, trước hết đó không phải là đô thị (về không gian sống, về cấu trúc và tổ chức xã hội, về quan hệ con người và sinh kế), là môi trường sống của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội với nhiều nét đặc thù của khu vực nông thôn. Nông thôn là nơi định cư của những người sống chủ yếu bằng nghề nông, đất đai là tư liệu sản xuất chính; về cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu; bên cạnh nông dân sống bằng nghề nông nghiệp, khu vực nông thôn vẫn có một số ít người sống bằng nghề phi nông nghiệp, chủ yếu là kinh doanh nhỏ, làm nghề truyền thống với phân công lao động giản đơn, trình độ sản xuất không cao. Một trong những đặc điểm lớn của cư dân nông thôn là có mối quan hệ họ tộc và gia đình khá chặt chẽ, khắng khít, tính cộng đồng cao, các thiết chế xã hội như gia đình, dòng họ, làng xóm… chi phối lớn đến hành vi của mỗi người.

Nông thôn mới: Hiện nay có nhiều cách hiểu, nhiều quan niệm khác nhau về NTM, tùy thuộc vào cách tiếp cận của từng nhà nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau như: văn hóa, xã hội học, kinh tế, quản lý nhà nước… Theo Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn thì: Nông thôn mới: là nông thôn có kết cấu hạ tầng KT -XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để xây dựng nông thôn với các nội dung trên, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm 19 tiêu chí. Khi xã đạt đủ 19 tiêu chí thì được công nhận là xã NTM.

NTM về bản chất vẫn là nông thôn, là khu vực cộng đồng dân cư nông thôn sinh sống, nhưng phát triển ở mức cao hơn, với những đặc trưng cơ bản:

– Nông thôn được xây dựng và phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;

– Kinh tế phát triển, xã hội ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên;

– Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; dân trí được nâng lên;

– An ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo;

– Hệ thống chính trị vững mạnh, dân chủ.

Xây dựng NTM của Việt Nam hiện nay là chủ trương, quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm xây dựng nông thôn phát triển bền vững, có kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng lên, an ninh – chính trị được đảm bảo, các giá trị văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy… Cụ thể là xây dựng nông thôn đạt 19 tiêu chí trong Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM. Hay nói cách khác, xây dựng NTM là quá trình thực hiện chính sách NTM.

Đánh giá chính sách là xem xét nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách công được cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật, việc nhìn nhận và đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành như thế nào trên thực tế. Chính sách công không chỉ thể hiện trong các quy định pháp luật mà chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động của Nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công phải bao quát việc xem xét về tổng thể các quyết định của Nhà nước trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong quá trình quản lý nhà nước. Việc đánh giá chính sách không chỉ xem xét, nhận định về nội dung mà còn cả quá trình thực thi chính sách để trên cơ sở đó có giải pháp điều chỉnh cho phù hợp.

Có nhiều khái niệm về đánh giá chính sách công:

Đánh giá chính sách công là khách quan, hệ thống và kiểm tra thực nghiệm các kết quả và mục tiêu dự kiến đạt được đối với đối tượng của chính sách đang được thực thi [34].

Đánh giá chính sách là học hỏi về các kết quả của chính sách công [34].

Đánh giá chính sách công là việc xem xét trung thực kết quả đầu ra các hoạt động trong chu trình chính sách công, nhận định có hệ thống những tác động do việc thực hiện các giải pháp chính sách công mang lại và so sánh nó với mục tiêu ban đầu để xác định mức độ đạt được mục tiêu mong muốn về lượng và chất [14 tr.319].

Từ những lý luận nêu trên và các khái niệm về đánh giá chính sách công, bản thân tôi xin đưa ra khái niệm Đánh giá chính sách xây dựng NTM là: việc xem xét, đánh giá, nhìn nhận lại các giá trị, kết quả và hiệu quả đã đạt được trong quá trình triển khai thực thi chính sách xây dựng NTM trên địa bàn nông thôn.

Từ khái niệm về đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới có thể chỉ ra một số đặc điểm của đánh giá chính sách như sau:

Một là, đánh giá đầu vào của chính sách xây dựng NTM: Đánh giá đầu vào nhằm tổng hợp, đo lường số lượng chi phí đầu vào của các chương trình, nội dung, hoạt động, yêu cầu liên quan đến xây dựng NTM bao gồm tiền, của, công của Nhà nước và sự nổ lực của đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước các cấp, của người dân để hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM đề ra. Mục đích của đánh giá đầu vào là thiết lập một hệ thống cơ sở số liệu để sau này so sánh, đối chiếu với kết quả đạt được sau khi thực hiện chính sách xây dựng NTM.

Hai là, đánh giá đầu ra (hay còn gọi là đánh giá thực thi) của chính sách xây dựng NTM là xem xét kết quả đầu ra của chính sách xây dựng NTM. Mục đích chính của đánh giá này là xem chính sách NTM đã, đang đem lại kết quả như thế nào và dự báo sẽ tạo ra những giá trị, hiệu quả gì cho người dân, cho xã hội. Đồng thời nếu trong quá trình thực thi phát hiện những vấn đề bất cập hoặc không còn phù hợp với thực tiễn thì phải có giải pháp điều chỉnh, bổ sung, có thể cho dừng hoặc tiếp tục thực thi chính sách để đảm bảo mục tiêu đề ra, đảm bảo yêu cầu thực tiễn.

Ba là, đánh giá hiệu quả xã hội của chính sách xây dựng NTM mang lại đối với người dân, đối với xã hội và hiệu quả bền vững của chính sách xây dựng NTM khi mà Nhà nước không đầu tư nữa. Thông qua việc đánh giá này, nhìn nhận lại sự nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cán bộ, của người dân trong việc thực hiện chính sách xây dựng NTM. Đặc biệt là trách nhiệm của người dân với vai trò nòng cốt là “chủ thể” trong xây dựng NTM trên tất cả mọi mặt ở nông thôn như: trong việc xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh ở nông thôn, giữ gìn, bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống làng quê, dòng tộc; bảo vệ môi trường; giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương; tự nguyện đóng góp công, của xây dựng và duy trì NMT ở địa bàn; góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh…

Bốn là, đánh giá hiệu quả kinh tế của việc xây dựng chính sách nông thôn mới: Thông qua việc đánh giá này nhằm xem xét các chi phí của việc đầu tư xây dựng NTM như vậy là phù hợp với điều kiện ngân sách hiện có hay chưa. Các đánh giá đầu vào, đầu ra của chính sách xây dựng NTM là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế của nó. Khi thực hiện đánh giá này thì yêu cầu phải thực hiện tốt việc phân tích đầu vào, đầu ra để đạt kết quả tương đối chính xác. Người ta có thể dùng một trong hai cách sau:

Cách thứ nhất: lấy kết quả đầu ra chia cho chi phí đầu vào, nếu thương của phép chia này lớn hơn 1 thì có nghĩa là chính sách này thực hiện được; nếu bằng 1 thì có nghĩa là hòa vốn và nếu nhỏ hơn 1 thì không hiệu quả về phương diện kinh tế.

Cách tính thứ hai: Lấy kết quả đầu ra trừ chi phí đầu vào. Nếu hiệu số của phép trừ này lớn hơn 0 thì có nghĩa là chính sách này thực hiện có hiệu quả; nếu bằng không nghĩa là hòa vốn và nếu nhỏ hơn 0 thì chính sách không hiệu quả về phương diện kinh tế.

Tuy nhiên trong thực tế hiện nay đối với chính sách xây dựng NTM việc lượng hóa toàn bộ các tiêu chí để đánh giá cũng không phải là điều dễ dàng, bởi một số tiêu chí mang tính định tính, hoặc cả hai vừa định lượng, vừa định tính. Hoặc có thể đánh giá về hiệu quả kinh tế thì không đạt, nhưng về hiệu quả xã hội thì lại đạt khá cao.

Để đánh giá chính sách nói chung, chính sách xây dựng NTM nói riêng, thì vai trò của chủ thể đánh giá rất quan trọng. Có nhiều chủ thể để thực hiện việc đánh giá chính sách, nhưng chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất phải là cơ quan ban hành chính sách; tiếp theo đó là các cơ quan liên quan phối hợp trong việc hoạch định, thực hiện chính sách; các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và đặc biệt là vai trò của người dân với tư cách là người trực tiếp thực hiện cũng như trực tiếp hưởng lợi từ chính sách xây dựng NTM mang lại tham gia vào quá trình đánh giá chính sách.

1.2.2. Vai trò của đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới

Cùng với việc xây dựng và thực thi chính sách thì việc đánh giá chính sách là một khâu rất quan trọng của quy trình chính sách nói chung. Đối với chính sách xây dựng NTM là một chính sách tổng thể bao gồm nhiều nội dung, nhiều lĩnh vực trên các mặt liên quan của kinh tế – văn hóa – xã hội – quốc phòng an ninh ở nông thôn nên việc đánh giá quá trình hoạch định chính sách, thực thi chính sách cho đến kết quả, hiệu quả, tác động của chính sách xây dựng NTM ở từng nội dung, từng lĩnh vực là hết sức cần thiết. Do vậy việc đánh giá chính sách xây dựng NTM có các vai trò quan trọng sau:

Thứ nhất, qua việc đánh giá nhằm mục đích kiểm tra, rà soát lại chính sách đã ban hành và triển khai thực hiện có phù hợp với khu vực nông thôn của từng vùng trên cả nước hay chưa; chính sách đã đi vào thực tiễn cuộc sống và được người dân hưởng ứng tích cực hay chưa; sự phân công trách nhiệm của từng bộ, ngành, địa phương đối với các nội dung liên quan đến bộ tiêu chí xây dựng NTM do Chính phủ ban hành; sự phối hợp giữa các cơ quan với nhau trong việc hoạch định cũng như triển khai thực hiện chính sách xây dựng NTM. Để trên cơ sở đó có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tế.

Thứ hai, đối chiếu, so sánh, kiểm chứng lại mức độ, kết quả, hiệu quả cả kinh tế, lẫn xã hội trước và sau khi triển khai thực hiện chính sách xây dựng NTM ở các địa phương và cả kết quả đạt được so với chi phí đầu tư trên lĩnh vực này để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp và có biện pháp thực hiện hiệu quả hơn, cũng có thể tiếp tục cho triển khai thực hiện chính sách hay dừng việc thực hiện chính sách đó.

Thứ ba, qua đánh giá chính sách cũng đồng thời thấy được những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức trong việc thực hiện chính sách xây dựng NTM ở khu vực nông thôn để từ đó có những đề xuất, kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung kịp thời chính sách nhằm đạt được mục tiêu đề ra và có những dự báo, định hướng trong tương lai, yêu cầu của việc xây dựng NTM cần phải làm để đáp ứng yêu cầu phát triển, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu.

    1. 1.3. Tiêu chí đánh giá chính sách xây dựng Nông thôn mới

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 7\CHINH SACH CONG\LE THI MINH TAM\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *