Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh

Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh

Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh

1. Lí do chọn đề tài

1. Do những đặc điểm về địa lý và lịch sử, trong suốt thời gian hơn 40 năm và kéo dài đến tận bây giờ, Việt – Lào – Cam puchia luôn có mối quan hệ đặc biệt, có thể nói đó là mối quan hệ “môi hở răng lạnh” nên việc chúng ta giúp bạn cũng là giúp chính mình. Từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, kẻ thù chung của cả ba nước Đông Dương cho đến tận năm 1989, kết thúc chiến tranh với bọn diệt chủng Pol Pot ở Campuchia, hàng ngàn quân tình nguyện Việt Nam đã chiến đấu quả cảm và hy sinh anh dũng trên hai chiến trường này. Vết thương giờ đây vẫn chưa liền sẹo khi mà bao người lính trở về nhưng “đã để lại một phần thân thể/ Gửi cùng hoa lá cỏ cây/ Trên mảnh đất này” (Chính Hữu), và đau đớn hơn, còn bao liệt sĩ vĩnh viễn nằm lại nơi nào đó của núi rừng hoang lạnh trên hai chiến trường nước bạn chứ chưa tìm ra để được ấp ủ trong lòng đất Mẹ. Lịch sử chúng ta và hai nước bạn Lào, Campuchia mãi mãi không quên những chiến sĩ tình nguyện ngày ấy và bây giờ, chúng ta vẫn đang cùng hai nước tiếp tục tìm kiếm để đưa hơn 4000 liệt sĩ về nơi an nghỉ cuối cùng trên mảnh đất quê hương, gia đình.

2. Nhưng cái hiện thực bi tráng ấy chưa được nền văn học chúng ta phản ánh một cách đầy đủ và xứng đáng. Cho đến những thập niên đầu của thế kỷ XXI này, xét về tiểu thuyết – thể loại có dung lượng lớn nhất – thì, theo hiểu biết của chúng tôi, mới chỉ có 4 tác giả với 5 cuốn tiểu thuyết đề cập trực diện đến hiện thực nêu trên. Đó là Lê Khâm (bút danh là Phan Tứ) với 2 tiểu thuyết: Bên kia biên giới; Trước giờ nổ súng viết về các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; và Nguyễn Thành Nhân với tiểu thuyết Mùa xa nhà; Nguyễn Đình Tú với tiểu thuyết Hoang tâm; Sương Nguyệt Minh với tiểu thuyết Miền hoang, viết về cuộc chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc Khmer khỏi họa diệt chủng Pol Pot. Nói như nhà văn Lê Minh Quốc là “cuộc chiến này chưa kịp hình thành một lực lượng viết mới”. Rõ ràng, đây phải xem là món nợ lớn của văn chương và sứ mệnh của các nhà văn lúc này là phải sớm bù lấp khoảng trống ấy bằng những tác phẩm “có tầm” cả về số lượng lẫn chất lượng của những nhà văn từng trực tiếp chiến đấu cũng như các nhà văn trẻ.

3. Sương Nguyệt Minh là tác giả từng thành công trên địa hạt văn chương và đã khẳng định tên tuổi trên văn đàn Việt Nam hiện đại. Độc giả biết đến Sương Nguyệt Minh nhiều nhất trên lĩnh vực truyện ngắn với những tác phẩm tiêu biểu: Giếng cạn, Nỗi đau dòng họ, Bên dòng Tonle Sap, Dị hương, v.v. trong hai tập truyện Dị hươngChợ tình. Đến khi cuốn tiểu thuyết Miền hoang dày hơn 600 trang “đột ngột” xuất hiện, độc giả mới phát hiện ra: Sương Nguyệt Minh không chỉ là một “cây” truyện ngắn tên tuổi mà còn là nhà văn viết tiểu thuyết rất chững chạc, chắc tay. Nhất là khi Miền hoang, cuốn tiểu thuyết duy nhất đoạt giải Sách hay của năm 2015 của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (IRED) và Quỹ Phan Chu Trinh thì tên tuổi Sương Nguyệt Minh đã được khẳng đinh một cách vững chắc.

Thực hiện đề tài Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, chúng tôi muốn làm rõ những đặc điểm nghệ thuật của nó, tiến tới khẳng định thành tựu mới của anh trên thể loại mới. Qua đó nhìn nhận sự đóng góp của Sương Nguyệt Minh trong việc bù lấp khoảng trống hiện thực hùng vĩ, bi tráng của những chiến sĩ quân tình nguyện trên chiến trường Campuchia như một sự tri ân với những người lính đã trở về và nhất là những liệt sĩ đang còn nằm lại nơi ấy.

2. Lịch sử vấn đề

3. Đối tượng và phạm vi khảo sát

3.1. Đối tượng nghiên cứu: là tìm hiểu các đặc điểm nghệ thuật trong tiểu thuyết, cụ thể là Miền hoang của Sương Nguyệt Minh

3.2. Phạm vi khảo sát: là tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Nhà xuất bản Trẻ ấn hành, 2014.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Nhận diện các đặc điểm về nghệ thuật tiểu thuyết, về phản ánh hiện thực và con người, quan điểm đánh giá các vấn đề đời sống trong tiểu thuyết Miền hoang.

4.2. Khẳng định sự đóng góp của Sương Nguyệt Minh về đề tài người lính tình nguyện được biểu hiện trong tiểu thuyết này.

5. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp phân tích – tổng hợp

– Phương pháp so sánh đối chiếu

– Phương pháp thống kêphân loạ

– Phương pháp tiếp cận thi pháp học.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luậnTài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai qua 3 chương

Chương 1: Tiểu thuyết Việt Nam về đề tài Tình nguyện quân và sáng tác của Sương Nguyệt Minh

Chương 2: Đặc điểm về tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật và điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh

Chương 3: Đặc điểm về tổ chức không – thời gian nghệ thuật, tổ chức ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh

CHƯƠNG 1

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI QUÂN TÌNH NGUYỆN VÀ MIỀN HOANG CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH

1.1. ĐỀ TÀI NGƯỜI LÍNH TÌNH NGUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

1.1.1. Chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống Pháp

a. Tiểu thuyết Bên kia biên giới

Tiểu thuyết Bên kia biên giới viết về một trung đội độc lập gồm 40 người mới được ghép lại từ những bộ phận khác nhau để làm công tác dân vận, tạo cơ sở Cách mạng trong khu căn cứ Hạ-Lào.

Bên kia biên giới là tiểu thuyết đầu tiên của Lê Khâm (và của tiểu thuyết Việt Nam?) viết về các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào.

b. Tiểu thuyết Trước giờ nổ súng

Tiếp tục mạch truyện bộ đội tình nguyện Việt Nam sang giúp bạn Lào đánh Pháp nhưng bối cảnh bây giờ là để mở một chiến dịch quy mô thọc thẳng một nhát dao vào “rốn” kẻ thù, “nối liền hai khu du kích”, “đoạt lại vùng Pà-thạc hơn vạn dân” [26, tr.227].

Hai tiểu thuyết Bên kia biên giớiTrước giờ nổ súng, nhất là Trước giờ nổ súng, một thời đã làm nên tên tuổi Lê Khâm và là cuốn sách cực kỳ hấp dẫn, mê hoặc với sinh viên ngành Văn trong các trường chuyên nghiệp, không khác gì cuốn tiểu thuyết cũng làm mê mẩn người đọc –Mẫn và tôi– của Phan Tứ sau này.

1.1.2. Chiến trường Campuchia – cuộc chiến với bọn diệt chủngPol Pot

a.Tiểu thuyết Hoang tâm của Nguyễn Đình Tú

Hoang tâm không phải miêu tả trực tiếp về người chiến sĩ trên chiến trường Campuchia mà viết về nỗi đau người lính trên “mặt trận thứ hai”.Không gian, thời gian và các nhân vật trong tác phẩm đều được Nguyễn Đình Tú xây dựng mang tính chất phiếm chỉ. Tiểu thuyết Hoang tâm chính là cuốn sách kể về hành trình Anh tìm lại chính mình (trong biểu tượng tìm lại tình dục – sức sống con người) nhờ sự trợ giúp của nàng Son Phấn.Tiểu thuyết Hoang tâm, đúng như tên gọi của nó, dường như là sự hoang tưởng.

Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh
Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh

b. Tiểu thuyết Mùa xa nhà của Nguyễn Thành Nhân

Nguyễn Thành Nhân thực sự là nhà vănchiến sĩ (như Chu Lai và một số tác giả khác). Tiểu thuyết Mùa xa nhà kể về nhân vật Huy, cậu học sinh Sài Gòn và là tân binh trong trung đội 12 ly 7 được biên chế về bộ phận tải đạn, sau chút bỡ ngỡ ban đầu đã nhanh chóng hòa nhập các cựu binh bằng các tài lẻ, có tâm hồn văn chương và lối sống hòa nhập. Chiến trường Campuchia khắc nghiệt, giống như chiến trường Lào trong các tiểu thuyết của Lê Khâm trước đây và chiến trường K sau này trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Nhưng Mùa xa nhà của Nguyễn Thành Nhân không chỉ tập trung miêu tả cái ác liệt của những trận đánh mà còn phản ánh một hiện thực trần trụi khác: những người lính vì sống trong cảnh ác liệt đó đã phát điên, gây ra tội ác; tình yêu của người lính tình nguyện với cô gái Miên…Mùa xa nhà là một đóng góp lớn về đề tài quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia nhằm bổ sung cho sự thiếu hụt của lịch sử văn học, góp phần trả món nợ của văn chương và của cả lịch sử đất nước.

1.2. SƯƠNG NGUYỆT MINH VỚI TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG

1.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Sương Nguyệt Minh

a. Quan niệm về nhà văn

Hãy cứ khát khao! Hãy cứ dại dột!”

Với anh, anh luôn nghĩ mình phải cố gắng viết cái sau này hay hơn, độc đáo hơn, mới lạ hơn cái trước. Anh rất tâm đắc triết lý của doanh nhân Steve Jobs: “Hãy cứ khát khao! Hãy cứ dại dột!”.

Một điểm quan trọng khác, Sương Nguyệt Minh cho rằng: “tác phẩm bầu lên nhà văn.: để trở thành một nhà tiểu thuyết thì hầu như nhà văn nào cũng khao khát, còn có được là nhà tiểu thuyết hay không thì hãy/ phải để bạn đọc đánh giá. Tiểu thuyết Miền hoang đã thể hiện một cách rõ nét quan niệm về nhà văn: mục tiêu đầu tiên là đi đến sự thật chiến tranh thì người viết phải chân thật. Sương Nguyệt Minh đã gửi vào lời anh Du khi nói với Tùng về quan niệm viết văn: “sẽ viết những gì đã chứng kiến. Viết bằng tâm thế người can dự trong cuộc đi suốt cuộc chiến tranh (…)chứ không viết bằng thứ tình cảm đi xem người ta đánh nhau rồi sáng tác…” [40].

b. Quan niệm về nghề văn

Sương Nguyệt Minh cũng gửi quan niệm ấy trong nhân vật Du, người viết văn phải sống với nhiều cảm xúc và luôn ấp ủ sẽ “viết một cái gì đó” nên “ghi chép, nhặt nhạnh được rất nhiều chuyện” “bằng vô số dòng chữ tâm huyết thấm đẫm mồ hôi, thậm chí cả máu nữa”

Khám phá cho ra “hạt ngọc tâm hồn” của người phụ nữ

Sương Nguyệt Minh cho rằng:“Xét đến cùng, văn chương là thân phận con người”. Đi tìm cái đẹp, tìm hạt ngọc ẩn chứa trong tâm hồn con người để tôn vinh, ngợi ca nó, đấy là cái gốc của chủ nghĩa nhân văn, cũng là sứ mệnh của văn chương.

Đã lao vào nghệ thuật là phải hơn thua

Qua lời một nhân vật trong Đồi con gái rằng: “Đám nhà văn trẻ các chú viết nhạt hoét, toàn những điều sống sít (…). Đã lao vào nghệ thuật là phải hơn thua; nếu viết văn phải hay hơn; nếu chơi đàn thì thằng khác phải thua mình. [39] Sương Nguyệt Minh đã bộc lộ quan niệm sáng tác của ông.

1.2.2. Cuộc đời và các sáng tác của Sương Nguyệt Minh

a. Sương Nguyệt Minh với những khúc quanh trong cuộc đời

Sương Nguyệt Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, sinh năm 1958 tại Ninh Bình.Anh đến với sự nghiệp văn chương khá muộn, năm 1992, với truyện ngắn đầu tiên đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trước đó anh từng làm nhiều nghề chẳng liên quan đến “nghề văn”: từ buôn thuốc lá, trứng vịt, pháo, khoan giếng cho đến cắt dán phong bì.

Để có được thành quả như ngày hôm nay, Sương Nguyệt Minh đã phải vượt qua biết bao tai tiếng, chông gai và sóng gió.

b. Các thành tựu trong sáng tác của Sương Nguyệt Minh

Sau gần 1/4 thế kỷ miệt mài lao động nghệ thuật, Sương Nguyệt Minh đã cho ra đời 7 tập truyện ngắn và 2 bút ký-tạp văn. Giải thưởng văn chương đã đạt được:

+ Giải thưởng truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1996

+ Giải thưởng truyện ngắn mang tên Cây bút vàng của tạp chí Văn hóa Văn nghệ Công an năm 1998 – 2001

+ Giải thưởng bút ký – Đài Tiếng nói Việt Nam năm 2003

+ Giải thưởng truyện ngắn Nxb Thanh Niên 2004

+ Giải thưởng Văn học Bộ Quốc Phòng năm 2004.

Miền hoang được Nhà xuất bản Trẻ ra mắt bạn đọc tháng 8 năm 2014.

1.2.3. Tiểu thuyết Miền hoang – thành tựu lớn của Sương Nguyệt Minh

Miền hoang dựng lại cuộc sống, chiến đấu của lính tình nguyện Việt Nam ở chiến trường Campuchia vào thời kỳ những năm 1985-1989, thời kỳ quân PolPot đã bị đánh tan nhưng tàn quân của chúng vẫn chưa chết hẳn mà thỉnh thoảng vẫn bất thình lình “cắn” một miếng, gây biết bao tổn thất cho chúng ta.

Từ đây, cuốn tiểu thuyết tập trung miêu tả cảnh lạc rừng và hành trình tìm đường ra khỏi vùng rừng Đăng rếck mênh mông, vô định với bao khó khăn vất vả: đói, khát, lạnh, ác thú, cháy rừng.

Có thể nói: Đối với các dân tộc bị áp bức và xâm lược, đề tài chiến tranh không bao giờ vơi cạn, vấn đề là nhà văn tiếp cận nó ở phương diện nào và đạt cấp độ ra sao. Riêng đề tài quân tình nguyện Việt Nam thì, cho đến nay, nhìn chung vẫn chưa tương xứng với tầm vóc, vị trí của nó. Món nợ đó của lịch sử các nhà văn phải có sứ mệnh đáp ứng. Sương Nguyệt Minh là một trong số không nhiều người lính – nhà văn làm được điều ấy trong các truyện ngắn, và nhất là trong tiểu thuyết Miền hoang.

CHƯƠNG 2

ĐẶC ĐIỂM VỀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN, XÂY DỰNG NHÂN VẬT VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾTMIỀN HOANG CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH

2.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN

2.1.1. Cốt truyện trong tác phẩm văn học

a. Về khái niệm cốt truyện trong tác phẩm văn học

Luận văn nêu các quan niệm về khái niệm cốt truyện của Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học, của Lê Bá Hán- Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên trong Từ điển thuật ngữ văn học, của Trần Đình Sử trong sách Lý luận văn học và phê bình văn học. Cuối cùng, luận văn sử dụng kết hợp cách nêu khái niệm của các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn họcLý luận và phê bình văn học của Trần Đình Sử.

b. Những nội dung căn bản của cốt truyện

Thứ nhất, cốt truyện là các sự kiện được liên kết phải có quan hệ với nhau (quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc lộ ý nghĩa).

Thứ hai, cốt truyện phải có tính liên tục về thời gian (hiểu theo nghĩa tổng thể tác phẩm), còn giữa các sự kiện vẫn có các “khoảng trống” cho thành phần xen (miêu tả, phân tích, bình luận…) bộc lộ.

Cốt truyện phân thành cốt truyện đơn tuyến, cốt truyện đa tuyến

c. Những yếu tố khác của cốt truyện

Cốt truyện tuy đóng vai trò quan thiết trong truyện kể (hay kịch) nhưng tự thân nó không thể làm nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học nếu thiếu đi các yếu tố khác không phải là sự kiện, đó là thành phần xen gồm các yếu tố: Giới thiệu nhân vật, sự vật có trong tác phẩm; Những lời bình phẩm, lời trữ tình của người kể chuyện.

2.1.2. Cốt truyện trong tiểu thuyết Miền hoang

a. Cuộc chiến khốc liệt, lạc giữa rừng hoang – chuyện quen mà lạ

Miền hoang của Sương Nguyệt Minh viết về câu chuyện lạc rừng của một nhóm lính hỗn hợp (lính tình nguyện, lính Pol Pot; sĩ quan, lính trơn…) giữa miền hoang núi rừng Campuchia. Điểm khác:

Thứ nhất, nhóm lạc rừng có 4 người nhưng thuộc 2 quốc gia (Tùng người Việt, ba người còn lại người Miên); 2 giới tính (Tùng, Lục Thum, Rô đàn ông, Sa Ly đàn bà); 2 sắc tộc (Việt – Miên), 2 nền văn hóa (Việt Nam, Campuchia); 3 hoàn cảnh khác nhau.

Thứ hai, đặc điểm trên dẫn đến những tình huống truyện hết sức hấp dẫn. Chẳng hạn, do bất đồng ngôn ngữ (Tùng nói tiếng Việt, 2 tên lính Pol Pot nói tiếng Miên, Sa Ly biến mình thành con câm chỉ “bật thành lời ở những khoảnh khắc ú tim”) nên diễn ra tình trạng “ông nói gà bà nói vịt” dở khóc dở cười, khiến tác giả có thể sử dụng đủ mọi hình thức ngôn ngữ (nhất là lời đối thoại, độc thoại, lời gián tiếp…) cũng như đa sắc trong giọng điệu trong tác phẩm.

Thứ ba, cảnh lạc rừng tạo nên hiện thực phong phú cho Sương Nguyệt Minh vẫy vùng ngọn bút miêu tả sự phát triển từ một “cây” cốt truyện thành ra muôn vàn cành, nhánh của cả câu chuyện.

b. Miền hoang với những mạch truyện đan xen, chồng chéo

Miền hoang có rất nhiều mạch truyện và giữa chúng có mối liên hệ tương hỗ, nhân quả hoặc phụ thuộc. Điều này làm nên sự liền mạch của toàn bộ truyện. Có thể kể đến:

Một, chuyện của Tùng từ quá khứ của một cậu học sinh cấp III Hà Nội đã từng theo các anh lớn đi rình “xem các anh chị lớn hôn nhau ở góc công viên” rồi được anh lớn kể lại về các cảnh làm tình. Hai, chuyện của Sa Ly về những ngày còn bé được sống trong gia đình trí thức, chuyện chết đuối trên Biển Hồ được kon tóp (bộ đội) Việt Nam cứu, chuyện Sa Ly làm y tá trong căn cứ quân đội Cách mạng Campuchia và bị tàn quân Pol Pot bắt cóc về làm cứu thương cho chúng, chuyện cô bị những thằng lính của Lục Thum hãm hiếp ghê tởm, chuyện chúng bị chỉ huy của nó xử hết sức rùng rợn qua hồi ức Sa Ly…Ba, chuyện của Lục Thum khi ở trong các đơn vị Pol Pot được bộ đội Việt Nam đào tạo ở rừng Stung Treng.

Còn nhiều những câu chuyện khác như chuyện quân tình nguyện tiêu diệt Pol Pot, quân Pol Pot tàn sát dân ở biên giới, chuyện về anh Du, về Quân, v.v. Tất cả các câu chuyện trên đều được “bố trí” xen kẽ.

Ngay trong một chương, sự xen kẽ nhiều câu chuyện nhỏ cũng xuất hiện. Ví dụ ở chương 8, khi đang kể về cảnh bốn người bị lạc phải đối phó với lũ kên kên, tác giả dành một đoạn dài nói về loại chim chuyên ăn xác người chết này: “Kên kên thuộc họ Accipitridae (…) kên kên đứng im lìm như đụn rạ”, câu chuyện rẽ ngoặt sang nói về Ma Lai khi Lục Thum nhắc thằng Rô đi vệ sinh trong rừng đề phòng Ma Lai móc ruột, tác giả lại dành 2,5 trang từ “Ma Lai không chỉ người Miên bản địa (…) chẳng ra làm sao” để kể chuyện Ma Lai, cuối cùng câu chuyện lại dành kể về người đồng đội Cải “chéc” suýt bắn chết oan người đàn bà Khmer khi tưởng chị là Ma Lai [tr.64-65].

Kiểu mạch chuyện được kể đan xen này khiến tác phẩm tuy ngồn ngộn hiện thực nhưng được xử lý rất mềm mại khiến truyện không bị nhạt, người đọc không nhàm chán hoặc trong một dung lượng ngắn nhưng bao chứa được nhiều hiện thực.

c. Vấn đề tình huống truyện – nét đặc biệt của Miền hoang

Tình huống đầu tiên là trận đánh ác liệt khiến hai bên bị chết, bị thương rồi bị thằng Rô theo lệnh Ông Lớn Lục Thum dùng lưỡi lê, dao quắm, xẻng bộ binh đập chết, chỉ còn Tùng, Rô, Lục Thum, Sa Ly tạo thành một nhóm lạc rừng, lại mất hết bản đồ, la bàn nên “dường như đã đánh quỵ ý chí vên chỉ huy áo đen”, phải đối mặt với “mớ bòng bong không có lối ra trong khi trời sập tối. Tình huống thứ hai là tên chỉ huy Lục Thum bị thương cụt chân phải khiêng (lý do chúng không giết Tùng) khiến cả nhóm bỗng dưng phải gánh thêm nhiệm vụ. Tình huống thứ ba là khi thằng Rô đi tìm Tùng và Sa Ly bỏ trốn nên bị sụp bẫy kh’la (cọp) “không ai biết, chỉ rừng hoang biết”, tình cờ sau đó Sa Ly cũng chạy qua và cùng sụp hố. Các tình huống khác như đi kiếm thức ăn giành nhau miếng thịt nai cháy với chó sói, đi kiếm nước uống phải vũng nước đầy xác thú, Tùng và Sa Ly bỏ trốn gặp cơn mưa hai người trần truồng bên nhau, nhóm lạc rừng gặp các kẻ lạc rừng khác nay đã trở thành dã nhân, Sa Ly chữa vết thương cho Lục Thum, Sa Ly chữa cơn sốt cho Tùng khi hai người bỏ trốn sống với nhau…

Việc sử dụng các tình huống đặc biệt khiến nhân vật luôn bị đặt trước những khúc quanh đột ngột của hiện thực, từ đó buộc nhân vật phải huy động hết toàn bộ những gì mình có để đối phó.Tính cách nhân vật sẽ được bộc lộ rõ rệt và sắc nét, góp phần làm nên một phương diện trong thành công của Miền hoang.

2.2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG

2.2.1. Về nhân vật trong tác phẩm văn học

Nhân vật là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, chỉ để lại những dấu hiệu cho người đọc nhận ra (tên, tiểu sử, đặc điểm riêng, sâu hơn là đặc điểm tính cách…) nên trong tác phẩm văn học chúng thường được đúc kết thành các “công thức” giới thiệu nhân vật. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học còn chia nhân vật thành 10 loại: nhân vật chính diện, nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật phản diện, nhân vật phụ, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng, nhân vật trữ tình, nhân vật văn học.

2.2.2. Nhân vật trong tiểu thuyết Miền hoang

a. Gương mặt người chiến sĩ tình nguyện

Sương Nguyệt Minh đặt Tùng trong hệ thống nhân vật của nhóm bốn người lạc rừng, qua đó nhằm làm nổi bật hình tượng người chiến sĩ tình nguyện. Trước hết, Tùng là một trí thức, một người có học đi lính. Hình ảnh người chiến sĩ tình nguyện Tùng sống “trần trụi giữa bầy sói” mê muội, cuồng tín, đầy thù hận ngu dại, là những công cụ giết người tàn độc như bọn thằng Lục Thum, thằng Rô cũng như những thằng lính Pol Pot khác làm nên sự phân biệt căn bản trong khái niệm người lính.

Không chỉ là sự trẻ, đẹp, tâm hồn lãng mạn dù bất cứ hoàn cảnh nào, biết ý thức và có bản lĩnh trước cái tha hóa bản năng mà ở Tùng, hình ảnh người chiến sĩ tình nguyện còn bộc lộ một phẩm chất khác: sự thích ứng với hoàn cảnh và bản lĩnh trước sự tha hóa của mọi môi trường sống.

b. Lục Thum và Rô, “phiên bản gốc” của quân diệt chủng Pol Pot

Là tên chỉ huy, Lục Thum (còn được gọi là Ông Lớn), còn Rô (còn được gọi là “tên lính áo đen”), cả hai đều nằm trong đội quân Pol Pot. Chúng rất giống nhau về bản chất dã man, mọi rợ của quân Khmer Đỏ.

Thằng Rô cũng được Sương Nguyệt Minh “vẽ” qua ngoại hình là một con thú, một công cụ để chém giết, tàn phá và trả thù. Đồng thời, cũng như Lục Thum, tác giả đặt nó dưới các góc nhìn khác nhau: sự khinh bỉ của Tùng, sự sợ hãi nhưng căm ghét của Sa Ly, sự hài lòng nhưng cũng rất cảnh giác của Lục Thum.

c. Sa Ly – người đàn bà Khmer xinh đẹp và bất hạnh

Trong Miền hoang dường như Sương Nguyệt Minh chỉ tập trung xây dựng duy nhất một người đàn bà là Sa Ly, thành viên nữ của nhóm lạc rừng. Ở nhân vật Sa Ly hội đủ những nét tiêu biểu của người phụ nữ Khmer: đẹp đẽ, hiền lành đến cam chịu nhưng cũng quyết liệt đến bùng nổ,…như quan niệm sáng tác của nhà văn.

Sa Ly là hình tượng người đàn bà Khmer xinh đẹp, hiền dịu nhưng bị giày xéo trong chế độ diệt chủng Pol Pot Iêngsary. Trong hệ thống nhân vật của nhóm lạc rừng, Sa Ly cũng là nhân vật duy nhất có quan hệ hai chiều (Tùng <=> lính Pol Pot).

Nhân vật trong Miền hoang, nếu phân tích một cách đấy đủ thì còn phải kể đến các hình tượng: lũ kên kên chuyên moi thịt xác chết, con hổ vằn lông trắng, bầy sói hung dữ, Ma Lai, dã nhân, v.v. Mỗi nhân vật như thế góp phần tạo nên vẻ hoang dã, huyền bí của rừng Miên, tạo ra một không gian nghệ thuật mang ý nghĩa và góp phần “tham chiếu” bản chất các nhân vật.

2.3. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG

2.3.1. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài

Điểm nhìn trần thuật bên ngoài là khái niệm chỉ người kể chuyện trần thuật, miêu tả sự vật, hiện tượng, tâm hồn nhân vật từ phía bên ngoài nhân vật (theo G.Genette là người kể chuyện dị sự – narrateur hétérodiétique). Chúng ta thường gọi khái niệm này là người kể chuyện “ngôi thứ ba” (troisième personne). Ở Miền hoang, người kể chuyện đã thể hiện cái nhìn khái quát, bao quát về hiện thực, tổ chức và lắp ráp các sự kiện, biến cố; khắc họa chân dung, cuộc đời và số phận nhân vật; các nhân vật chủ yếu được nhận diện từ ngoại hình, ngôn ngữ, hành động qua ngôn ngữ của người kể; ngoài ra còn là những lời bình luận, đánh giá, thể hiện thái độ yêu ghét của mình.

Có một nét độc đáo trong tiểu thuyết Miền hoang là trên đầu mỗi chương Sương Nguyệt Minh đều có một đoạn trích như là “đề từ” của chương ấy. Những đoạn trích này đóng vai trò như người trần thuật ngôi thứ ba, thuộc điểm nhìn trần thuật bên ngoài. Các đoạn trích rất đa dạng: đa dạng vấn đề, đa dạng hình thức, đa dạng thể loại, v.v.

2.3.2. Điểm nhìn trần thuật bên trong

Sự xuất hiện của người kể chuyện ngôi thứ nhất: Tùng, Sa Ly, Lục Thum, Rô là một sự bổ sung cần thiết cho người kể chuyện ngôi thứ ba nhằm hoàn thiện bức tranh hiện thực và cũng tạo sự khách quan, tin cậy cho người đọc khi người kể, câu chuyện anh ta kể, đều là người trong cuộc.

Trong Miền hoang Sương Nguyệt Minh dành khá nhiều “đất” cho nhân vật kể chuyện từ điểm nhìn bên trong.Các chương được cấu trúc xen kẽ giữa các lối xưng tên tôi (Tùng), tui (Sa Ly), ta (Lục Thum), tao (Rô) xuất hiện với tần số dày đặc.Đặc biệt là hồi ức của các nhân vật.Cách lồng hồi ức nhân vật vào câu chuyện khiến ta vừa thấu rõ thế giới bên trong nhân vật vừa mở rông không gian, thời gian của hiện thực.

2.3.3. Sự luân phiên điểm nhìn trần thuật

Tác giả tránh việc xưng tôi đơn thuần bằng cách tạo ra một/ một số nhân vật có tên khác tôi song có rất nhiều chi tiết tương tự người kể chuyện mong muốn sắp xếp. Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã có sự luân phiên điểm nhìn bên trong các nhân vật, ngoài tôi ra còn là tui, ta, tao, mỗi định danh ấy “chết” (tương ứng) với tên một nhân vật: Sa Ly, Ông Lớn, Rô.Thậm chí tác giả dành hẳn từng chương để cho các nhân vật này đứng ra tự kể chuyện mình (chuyện đang xẩy ra, chuyện trong quá khứ). Các chương này về hình thức bên ngoài có vẻ tách rời nhau nhưng thực ra nó có sự liên kết chặt chẽ trong “chuỗi” hệ thống của toàn bộ tác phẩm.

Ngay trong một chương cũng diễn ra sự luân phiên điểm nhìn trần thuật. Sự luân phiên này diễn ra trong cái nhìn của ba, bốn nhân vật hay trong một nhân vật. Ví dụ, ở chương 6 (tr.32 đến trang 44) miêu tả sự kiện của bốn nhân vật lạc trong rừng Đăng rêck.

Có thể nói: Nhìn từ ba phương diện Tổ chức cốt truyện; Xây dựng nhân vật và Điểm nhìn trần thuật trong Miền hoang, điều có thể thấy rõ, ở phương diện nào, Sương Nguyệt Minh cũng có những phát hiện, đóng góp mới, thậm chí là chưa hề có, cho nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Đó là việc lựa chọn được tình huống truyện “đắt” đến mức hi hữu; là đặt nhân vật trước cảnh ngộ bất ngờ và không có sự lựa chọn khác để buộc nhân vật bộc lộ hết bản chất mình trở thành nhân vật– “con người bản năng”; đó cũng có thể là việc tổ chức điểm nhìn trần thuật lạ mả tiểu thuyết trước đó chưa có. Phải chăng đây là kết quả của một tài năng thật sự, lại có xuất phát điểm từ một quan niệm đúng đắn, nhân văn về con người, có ý thức nghề nghiệp rõ ràng và có trách nhiệm của Sương Nguyệt Minh?

CHƯƠNG 3

ĐẶC ĐIỂM VỀ TỔ CHỨC KHÔNG – THỜI GIAN

NGHỆ THUẬT, TỔ CHỨC NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU

TIỂU THUYẾT MIỀN HOANG CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH

3.1. TỔ CHỨC KHÔNG – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG MIỀN HOANG

3.1.1. Không gian nghệ thuật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Không gian nghệ thuật gắn với nghệ thuật về không gian nên mang tính chủ quan.Ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng”. Tìm hiểu về không gian nghệ thuật trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, chúng ta sẽ có điều kiện hiểu rõ hơn về đặc điểm không gian trong đó.

a. Không gian vật thể: Rừng Đăngrêck với cuộc lạc rừng hi hữu

Không gian vật thể (còn gọi là không gian hiện thực, không gian thực tế, không gian địa lý) là một phương diện của không gian nghệ thuật, bởi nếu không có không gian này thì cũng không có không gian nghệ thuật trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã xây dựng nên không gian vật thể là khu rừng Miên rộng lớn, hoang sơ, bí hiểm và đầy cạm bẫy với các loại mìn, thú dữ, khí hậu khắc nghiệt, bão lửa, các loại ma rừng, v.v. Trong không gian đó, tác giả dành khoảng 15 trang miêu tả một không gian đặc biệt: không gian chiến trận, viết về cuộc chiến đấu dữ dội giữa quân tình nguyện Việt Nam với quân Pol Pot.

Giữa không gian hoang hoải ấy là hình ảnh nhóm hỗn hợp bốn người đi lạc, mò mẫm vô định, bị vây hãm trong không gian rợn ngợp, đầy nỗi sợ hãi. Sương Nguyệt Minh “gộp chung” cả phía “bên mình” và phía “bên kia” vào một “lò bát quái” ném nhân vật vào, với dụng ý nghệ thuật nhằm tạo sự kịch tính đối kháng dữ dằn.

b. Không gian tâm tưởng: hiện thực muôn màu từ hồi ức nhân vật

Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh đã để cho nhân vật của mình nhớ lại, hồi tưởng lại những kí ức đã qua. Nhân vật được anh chăm chút, vun vén với nhiều hồi ức nhất là Tùng: chương 2 (nhớ lại trận quân Pol Pot tập kích), chương 6 (nhớ lại chuyện một năm sống trong quân ngũ), chương 8 (nhớ lại chuyện đồng đội Cải “chéc” liên quan đến Ma Lai), chương 10 (đang khiêng cáng, nhớ tuổi thơ ở Hà Nội), chương 11(đào công sự, nhớ đến ngày ở nhà với mẹ),…Cả bốn nhân vật trong nhóm lạc rừng đều được Sương Nguyệt Minh tạo không gian tâm tưởng. Dù “tỷ lệ” không gian không đều nhau nhưng việc tác giả đặt các nhân vật này trong không gian tâm tưởng sẽ góp phần bộc lộ thế giới bên trong của nhân vật, từ đó giải thích tính cách nhân vật trong tác phẩm.

3.1.2. Thời gian nghệ thuật

a. Thời gian khách quan

Thời gian khách quan (hay còn gọi là thời gian vật lý) trong Miền hoang chính là quãng thời gian hơn 1 tháng những ngày lạc lối giữa “ma trận” núi rừng Campuchia hoang dã của bốn con người.

b. Thời gian nghệ thuật

Điều làm nên tính đồ sộ và sức hấp dẫn của tiểu thuyết Miền hoang là Sương Nguyệt Minh đã tạo dựng một thời gian nghệ thuật hợp lý, gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật. Tác giả vận dụng đặc trưng thời gian nghệ thuật là “có thể đảo ngược, quy về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận”, loại thời gian này “được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác…tạo nên nhịp điệu tác phẩm” [19, tr.272-273]. Trừ chương 1 đến chương 7, các chương còn lại về sau cho đến chương 88 là sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ, thông qua đó, tác giả để cho từng nhân vật lần lượt kể về cuộc đời mình.

Không chỉ vậy, tác giả còn sử dụng kỹ thuật gia tăng thời gian các hồi ức của nhân vật một cách hợp lý. Trong Miền hoang, dung lượng các trang viết được dành tỷ lệ khá phù hợp giữa những lời kể, tả với hồi ức. Nếu tính về số chương viết về các hồi ức của nhân vật thì chỉ có khoảng hơn 30/ 88 chương của cuốn tiểu thuyết.Tuy nhiên, thực tế là những chương viết về hồi ức thường rất dài nên số lượng trang cũng chiếm vị trí xứng đáng (262/ 631). Nhưng điều quan trọng hơn là nhờ những trang hồi ức này mà chân dung nhân vật được hiện ra rõ nét và toàn diện bởi các hồi ức đều kéo ngược thời gian về quá khứ rất lâu.

Một đặc trưng nữa của thời gian nghệ thuật cũng được Sương Nguyệt Minh sử dụng đắc địa là tính chất mờ nhòe của thời gian. Đọc Miền hoang, người đọc rất khó xác định chính xác câu chuyện diễn ra trong thời gian cụ thể nào bằng cách dùng từ “có khi”, “hay là”, “không thể tin được”…hoặc các dấu chấm (?).

3.2. GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT

3.2.1. Giọng khách quan, tỉnh táo

Toàn bộ cuốn tiểu thuyết chỉ nói về chuyện đánh nhau, chết chóc, lạc đường, đói khát, sợ hãi, mê muội. Thảng hoặc có nói chuyện làm tình thì cũng chỉ là chuyện đực cái, bản năng. Nếu có những câu chuyện tốt đẹp về cuộc sống, tình người, hạnh phúc, v.v. thì đấy chỉ là qua là hồi ức, nỗi nhớ chứ không phải sự thật trong hiện tại. Vì thế, giọng trần thuật trong tác phẩm này chủ yếu phải là giọng khách quan, nhiều lúc tưởng như chai sạn, vô cảm. Trừ nhân vật Tùng thỉnh thoảng xen vào một vài hồi ức lãng mạn, vui tươi, ấm áp tình mẹ, tình yêu, tình đồng đội, các nhân vật còn lại, kể cả người phụ nữ duy nhất là Sa Ly, giọng chủ âm vẫn là giọng đau đớn nhưng bình thản, có phần lạnh lùng.

Chúng tôi cho rằng, một trong những đóng góp của Sương Nguyệt Minh trong Miền hoang là anh đã tạo được chất giọng phù hợp với tính cách nhân vật.

3.2.2. Giọng tự sự lãng mạn

Với quan niệm về “chiếu nghỉ cầu thang” như là một thủ pháp nghệ thuật của sáng tác nên trong Miền hoang giọng điệu tự sự lãng mạn cũng được dùng “đúng liều”, đủ giúp người đọc cảm nhận được những rung động và làm mềm mại đi, dịu dàng hơn những trang viết vốn đã thừa cái ngột ngạt, căng thẳng (những đoạn viết về Tùng, về mẹ, về sự lãng mạn của anh Du,…).

3.2.3. Giọng bỗ bã, thông tục

Bối cảnh và tình huống truyện của Miền hoang khắc nghiệt như thế, với những con người khốn khổ bị đẩy đến tận cùng giới hạn của bản năng như thế nên âm hưởng chung của tác phẩm là nặng nề, bức bối cũng là điều dễ hiểu. Trong không khí ấy, loại giọng bỗ bã, gắt gỏng, tục tĩu, lính tráng, v.v. cũng là điều tất nhiên. Chỉ một thằng Rô khi quát, khi đay nghiến, khi giận dữ, khi…điên thì loại giọng ấy cũng đã đủ tràn ngập tác phẩm.

3.3. NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT

3.3.1. Lời trực tiếp

Lời trực tiếp là các lời nói (đối thoại, độc thoại) do nhân vật hoặc do tác giả trực tiếp nói lên trong tác phẩm văn học.

Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh không xây dựng một sự thật nào về tư tưởng và nhân cách từ sau lưng nhân vật hoặc chỉ chạm vào bề nổi diện mạo nhân vật mà tác giả để nhân vật tự phát biểu, nhằm phát huy tất cả tính chủ quan và sự thực của phát ngôn nhân vật. Những lời thoại trong tiểu thuyết khá nhiều, nó có sức nặng bằng chính cuộc sống và hấp dẫn hơn cả bản thân cốt truyện.

Tiểu thuyết Miền hoang có vô số lời độc thoại, nhiều nhất là của Tùng, tiếp đến là Sa Ly, Lục Thum và cuối cùng là Rô do thằng này chỉ là một loại rô bốt, công cụ hơn là người nên chỉ là đối thoại.

3.3.2. Lời gián tiếp

Lời gián tiếp là tất cả những lời văn của tác giả, của người trần thuật hoặc người kể chuyện làm nhiệm vụ/ chức năng trình bày toàn bộ thế giới hình tượng. Lời gián tiếp có hai nhiệm vụ thống nhất nhau, nó tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc, con người, cảnh vật và tái hiện và phận tích, lý giải lời nói ý thức người khác [52].

Trong Miền hoang, Sương Nguyệt Minh cũng sử dụng rất nhiều (thậm chí có chỗ lạm dụng) loại lời gián tiếp. Chẳng hạn, nhắc đến cuộc viễn chinh, anh dừng lại một đoạn khá dài giải thích “hình thái chiến tranh” giai đoạn này hoặc các đoạn về Ma Lai, kên kên.

Tóm lại: Điều có thể thấy trong Miền hoang là ở góc độ nào Sương Nguyệt Minh cũng cố gắng “làm mới” mình: anh lựa chọn được một không gian nghệ thuật độc đáo; một thời gian nghệ thuật vừa cụ thể vừa mơ hồ, mờ nhòe, pha trộn lẫn nhau; một giọng điệu hết sức phù hợp với âm hưởng tiểu thuyết; và thế là, cũng sẽ khó có sự lựa chọn ngôn ngữ nào khác phù hợp hơn cho loại ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm Miền hoang. Tất cả đó khiến chúng tôi cho rằng, Sương Nguyệt Minh quả đã “đo ni” để chọn được chiếc áo mặc cho Miền hoang nhằm tôn vinh hết vẻ đẹp của nó.

KẾT LUẬN

1. Miền hoang, miền của vùng rừng Đăngrêck phía Tây Bắc Campuchia nhưng cũng là miền chung của chiến trường K giai đoạn cuối. Ở đây mọi thứ đều hoang sơ, hoang dã, hoang dại, hoang hóa, hoang tàn, v.v. của một thiên nhiên khắc nghiệt, đầy chết chóc mà hiếm sự sống sinh sôi nẩy nở; của những con thú thiếu vắng sự thân thiện nhưng lại thừa mứa sự dữ dằn. Đặc biệt, trong “miền hoang” ấy con người cũng không còn giữ được bản chất của tên loài: chủ yếu là các kiểu loại xác chết không tên, nếu còn sống thì cũng là dạng người-thú như dã nhân,…Sương Nguyệt Minh đã chọn được một góc độ của “vùng thẩm mỹ” khá đặc biệt làm bối cảnh hiện thực cho cuốn tiểu thuyết của mình.Đó là thành công bước đầu của anh.

2. Bằng việc lựa chọn độc đáo các phương diện thi pháp truyện, Sương Nguyệt Minh lại mang lại nhiều đóng góp khác giúp cuốn tiểu thuyết vừa ra đời đã nhận được sự tiếp đón nồng nhiệt và đánh giá cao của công chúng độc giả. Giữa cái “lò bát quái” Đăngrêck, anh ném vào 4 người lính của cả hai phía, tạo ra tình huống “độc nhất vô nhị” của nhóm “lạc rừng quốc tế”. Có lẽ đây là tình huống truyện xuất hiện đầu tiên trong tiểu thuyết thế giới tính đến hôm nay? Tình huống này cho phép đẩy nhân vật đến giới hạn cuối cùng của sự sống – chết, buộc chúng phải tự bộc lộ tất cả bản năng người “đều có thể xảy ra mọi chuyện” mà không còn sự lựa chọn nào khác, khiến tính cách nhân vật đạt đến độ căng nhất có thể. Cùng với đó là sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật, nhất là việc “đánh tráo” điểm nhìn mà Lã Nguyên từng đánh giá cao: “Tôi cho rằng điểm mới lạ, độc sáng trong thiên tiểu thuyết này là nghệ thuật chuyển đổi điểm nhìn trần thuật”. Cuối cùng là cái giọng điệu ngôn ngữ trần thuật trần trụi, trầm tĩnh, đầy chất hoang dại, đến mức có thể khẳng định mà không phải phân vân rằng: ở tiểu thuyết Miền hoang khó có thể lựa chọn một thứ giọng điệu hoặc thứ ngôn ngữ khác. Đây lại là thành công tiếp theo của Sương Nguyệt Minh trong cuốn tiểu thuyết này.

3. Chúng tôi cũng cho rằng, Miền hoang sẽ thành công nhiều hơn nữa nếu tác giả của nó bớt đi hoặc tiết chế hơn ở một vài điểm không cần thiết hoặc dễ gây tranh cãi. Chẳng hạn, một số chỗ tác giả thường hay “tạt ngang rẽ dọc” dễ làm loãng vấn đề chủ yếu mà chúng tôi đã có đề cập đến trong mục 3.3.2.Lời gián tiếp; một vài chỗ khác cũng gây cho người đọc cảm giác “bịa” quá đà (sự hiểu biết quá tầm của Tùng), hay chủ quan, khiên cưỡng (tr.87), hoặc việc anh lính Du giữa trận đánh “đang quần nhau tanh bành với tàn quân Pol Pot, giành giật nhau từng bức tường” mà bỗng “bần thần đến mê muội” ngắm và sờ cái Linga, Yoni bằng đá (tr.104),…

4. Qua 3 cuộc hội thảo, nếu Miền hoang nhận được ý kiến thống nhất cao trong việc khẳng định sự đóng góp của Sương Nguyệt Minh về thi pháp tiểu thuyết cũng như những tìm tòi, đổi mới về sáng tạo thì vẫn còn những ý kiến băn khoăn về tư tưởng tác phẩm. Từ nhân vật Tùng trong tác phẩm, phải chăng tác giả muốn nói đến “con người đi qua chiến tranh đều bị hoang hóa, thú vật hóa về tâm hồn”? Có phải việc Tùng lạc rừng cũng có nghĩa là lạc đường, lạc hướng. Vậy liệu có bị suy diễn đến cách hiểu khác: cuộc chiến tranh chúng ta tiến hành ở Campuchia phải chăng cũng là cuộc chiến lầm lạc, sai đường?!

Đây là vấn đề lớn cần có thời gian và nhiều công trình khác nữa mới có thể lý giải được. Nhưng chúng tôi cho rằng: một tác phẩm nghệ thuật hay, lớn thì bao giờ cũng có hình thức thể hiện tương ứng với nội dung và sự tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật là sự tiếp nhận “mở”, liên quan đến tầm đón (H. R. Jauss) của người đọc. Song khi đã khẳng định đóng góp lớn về nghệ thuật thì điều đó cũng đồng nghĩa với sự khẳng định về nội dung tư tưởng. Ba tiểu thuyết viết về cuộc chiến tranh ở Campuchia ít nhiều đã có đề cập đến vấn đề trên mà chưa có kiến giải cuối cùng. Có lẽ phải chờ “sự phán xử cuối cùng” của lịch sử?

5. Rõ ràng Miền hoang của Sương Nguyệt Minh là một tiểu thuyết lớn trên cả hai bình diện quy mô và tư tưởng, góp phần đắc lực nhất tính đến nay trong sứ mệnh trả món nợ lịch sử của văn chương. Tác giả là người lính trên chiến trường viết về cuộc sống người lính trong tư cách là người trong cuộc và có thái độ trách nhiệm, nghiêm túc với nghề nghiệp nên mới có được thành công ấy. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng, Miền hoang không chỉ là miền hoang của không gian núi rừng Đăngrêck mà là của bất cứ nơi đâu trên trái đất này, hễ ở đâu còn có sự hoang hóa về thiên nhiên, về con người, v.v. đẩy sự sống đến tận cùng của bản năng, trần trụi và tồi tệ thì đó sẽ là miền hoang. Cần phải làm gì để ngày càng xóa bớt, đẩy lùi những miền hoang hóa ấy, đưa lại sự phục sinh cuộc sống của tạo vật và con người? Đó phải chăng là thông điệp tác giả muốn gửi tới con người, dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời đại nào. Lại thêm một đóng góp lớn lao nữa của Sương Nguyệt Minh ở tác phẩm này trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\LUAN VAN KHOA HỌC XH&NV\TRUONG VAN CA\New folder

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *