Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất

Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là một yếu tố đầu vào quan trọng của bất kỳ một ngành sản xuất, dịch vụ nào.

Công tác bồi thường và tái định cư tuy được Chính phủ quan tâm và có nhiều chính sách bổ sung, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết; trong đó vấn đề tạo việc làm cho những người dân bị thu hồi đất thật sự chưa được thực hiện một cách hoàn chỉnh, đồng bộ và bền vững; nên phần lớn người lao động ở nông thôn, nhất là lao động nông nghiệp bị thu hồi đất sản xuất không có việc làm, thiếu việc làm ngày càng gia tăng theo quá trình thu hồi đất.

Huyện Bình Sơn, là địa bàn có Khu kinh tế Dung Quất, do đó nhu cầu thu hồi đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng lớn; những cộng đồng dân cư mất đất sản xuất và di dời, tái định cư ra khỏi vùng dự án ngày càng nhiều. Tuy nhiên, trong thời gian qua các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ngãi và huyện Bình Sơn chưa quan tâm đúng mức về chính sách tạo việc làm cho người bị thu hồi đất, nên hiện tượng tái nghèo và nguy cơ bần cùng hóa đang dần xảy ra. Do vậy, là để giảm thiểu tối đa những tác động không mong muốn đối với người dân bị thu hồi đất, thông qua việc đào tạo nghề, tạo lập việc làm ổn định, bền vững cho người dân bị thu hồi đất. Đó là lý do thúc đẩy tôi chọn đề tài: “Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành: Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

          Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn do bị Nhà nước thu hồi đất, luận văn phân tích việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện chính sách tạo việc làm cho người dân ở nông thôn thuộc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, qua đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách này trong thời gian đến.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách; Nghiên cứu vấn đề tạo việc làm qua thực tế tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; Nghiên cứu và đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách; Nghiên cứu đưa ra giải pháp nhằm đổi mới việc xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Giải pháp và công cụ chính sách tạo việc làm, đào tạo nghề, chuyển đổi nghề cho người nông dân khi bị Nhà nước thu hồi đất.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu chính sách và việc thực hiện chính sách tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn khi bị Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2010 đến nay và đề ra giải pháp hoàn thiện chính sách trong thời gian đến.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học. Luận văn triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách, từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích thực chứng, phân tích chuẩn tắc. Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập thông tin và phân tích, khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu. Phương pháp phân tích so sánh, tổng hợp…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết về chính sách công.

Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết liên quan đến chính sách công, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu khi đưa ra giải pháp chính sách phù hợp hơn, việc thực hiện các chính sách đem lại hiệu quả thiết thực, giúp người dân ở nông thôn khi bị Nhà nước thu hồi đất có khả năng tiếp cận chính sách và tham gia cùng với Nhà nước để đưa chính sách vào trong thực tiễn ngày càng đem lại hiệu quả.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách tạo việc làm cho lao động nông thôn khi bị Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.

Chương 2: Việc thực hiện chính sách tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn khi bị nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn khi bị nhà nước thu hồi đất.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH

TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM

1.1. Cơ sở lý luận của chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam

1.1.1. Khái niệm tạo việc làm

Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.

1.1.2. Bản chất của tạo việc làm

1.1.3. Cơ chế tạo việc làm

Về phía người lao động: Là phải tự mình, hoặc dựa vào các nguồn tài trợ từ gia đình, từ các tổ chức xã hội… để tham gia đào tạo, phát triển, nắm vững một nghề nghiệp nhất định.

Về phía Nhà nước: Ban hành các luật, cơ chế chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo ra môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất là một bộ phận cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.

Về phía người sử dụng lao động: Cần có thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra để không chỉ tạo ra chỗ làm việc mà còn phải duy trì và phát triển chỗ làm việc cho người lao động. Đó cũng chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Tóm lại, cơ chế tạo việc làm cho nguời lao động đòi hỏi có sự tham gia tích cực của ba phía: Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân những người lao động sao cho cơ hội việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị trường lao động đúng lúc, đúng chỗ.

1.1.4. Mục tiêu, nguyên tắc xây dựng chính sách tạo việc làm cho lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam

1.1.4.1. Mục tiêu của chính sách

a) Đối với xã hội: Khi đất nước ngày càng áp dụng nhiều công nghệ khoa học kỹ thuật mới nhằm tạo ra các hoạt động sản xuất mới, máy móc thay thế cho lao động, khi đó tình trạng thất nghiệp xảy ra. Việc tạo việc làm là một yếu tố cần thiết nhằm giảm tình trạng thất nghiệp, giúp giảm gánh nặng cho xã hội trong việc ổn định cuộc sống cho người lao động. Đồng thời tạo việc làm giúp cho cuộc sống của người dân được nâng cao, hạn chế được những vấn đề tiêu cực do những người lao động dư thừa trong xã hội gây nên, đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo và giúp giải quyết được các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.

b) Đối với các doanh nghiệ: Lao động là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất, càng nhiều lao động thì lượng sản phẩm tạo ra càng tăng, từ đó giúp các doanh nghiệp phát triển lớn mạnh. Đồng thời, dù công nghệ ngày càng tiến bộ nhưng máy móc cũng không thể tự hoạt động, mà phải dựa trên sự điều khiển của con người. Vì vậy, trên thực tế các doanh nghiệp luôn cần tuyển lao động có tay nghề, trình độ cao. Hiện nay số lao động tuy đông nhưng không đáp ứng được đủ yêu cầu do các nhà tuyển dụng đề ra. Do đó, vẩn còn tồn tại việc các doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu người, nhưng lượng lao động dư thừa vẫn tiếp tục tăng.

c) Đối với người lao động bị thu hồi đất: Cải thiện giúp người lao động sớm ổn định được đời sống, góp phần nâng cao thu nhập cho bản thân cũng như gia đình người lao động. Khi đó, ý thức của người lao động trong việc nâng cao trình độ, nhận thức tăng lên, biết đầu tư nhiều hơn vào đào tạo cho tầng lớp con em. Đồng thời cũng giúp giảm sự phân cấp giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội.

1.1.4.2. Nguyên tắc xây dựng chính sách

– Có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho người lao động nông thôn.

– Học nghề là quyền lợi, nghĩa vụ của lao động nhằm tạo việc làm, chuyển nghề, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.

– Gắn đào tạo nghề với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương.

– Đổi mới và phát triển đào tạo nghề, tạo việc làm theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để lao động nông thôn tham gia học nghề phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề của mình;

– Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, tạo sự chuyển biến sâu sắc về mặt chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng;

1.1.4.3. Nội dung chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam

a) Đào tạo nghề

b) Tạo việc làm trong nước

c) Hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

1.2. Cơ sở thực tiễn của chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi bị nhà nước thu hồi đất

1.2.1. Tác động của việc thu hồi đất đối với đời sống của người lao động ở nông thôn

Mất chỗ ở, mất tư liệu sản xuất, bức xúc vì phân chia lợi ích không công bằng.

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam

1.2.2.1. Cơ sở pháp lý có liên quan

Cơ chế chính sách của Chính phủ, chính quyền địa phương và việc áp dụng nó vào thực tiễn có tác động mạnh mẽ đến cầu lao động của doanh nghiệp, của thị trường lao động. Đến lược nó trực tiếp tác động đến thái độ, hành vi, cách ứng xử của chủ doanh nghiệp trong thu hút lao động.

1.2.2.2. Điều kiện tự nhiên, vốn và công nghệ

Điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một thành phố, một tỉnh được hình thành một cách tự nhiên, ngoài ý muốn chủ quan của con người. Do đó, điều quan trọng là làm thế nào để các điều kiện tự nhiên sẵn có của mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi tỉnh, thành phố đều trở thành các nguyên liệu, nhiên liệu… phục vụ cho sản xuất và đời sống. Để biến các điều kiện tự nhiên sẵn có thành có ích thì phải có vốn để mua công nghệ kỹ thuật hiện đại, dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến. Bên cạnh đó, sự đổi mới và nâng cao nhanh chóng tiến bộ khoa học và công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân tác động đến việc làm.

1.2.2.3. Chất lượng lao động

Trong bối cảnh của một nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là chất lượng sức lao động. Do đó, người lao động muốn kiếm được việc làm và nhất là việc làm có thu nhập cao, phù hợp với năng lực, trình độ, cần phải có thông tin thị trường lao động, biết các cơ hội việc làm và đặc biệt phải đầu tư cho sức lao động của mình, tức đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và trí tuệ.

1.2.2.4. Các nhân tố khác

1.2.3. Kinh nghiệm về tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở nước ngoài và một số địa phương trong nước

Chương 2

VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH SƠN,

TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội ảnh hưởng đến chính sách

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của huyện

Huyện Bình Sơn có lợi thế trong phát triển kinh tế biển với khu kinh tế tổng hợp Dung Quất có các ngành công nghiệp quy mô lớn, mang ý nghĩa vùng và toàn quốc có các ngành thủy sản, du lịch, giao thông vận tải biển. Đây là trọng điểm phát triển kinh tế của toàn bộ miền Trung, có thể có sức lan tỏa phát triển tới nhiều địa bàn khác trong mối liên kết liên tỉnh, liên vùng và quốc tế. Đây là lợi thế rất quan trọng, tạo điều kiện để tỉnh phát triển nhanh công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở huyện Bình Sơn

2.1.2.1. Thuận lợi

Có tiềm năng thế mạnh về phá triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và đặt biệt là lợi thế về công nghiệp biển, phát triển các khu công nghiệp gắn với đô thị… đã và đang được đầu tư rất lớn, là điểm đến của nhiều nhà đầu tư quốc tế với những dự án lớn triển vọng.

2.1.2.2. Khó khăn

– Một số cơ sở đào tạo nghề mở lớp tại địa phương theo chỉ tiêu cấp trên phân bổ, chưa quan tâm người lao động sau khi học nghề có được việc làm hay không hoặc sản phẩm làm ra từ ngành nghề đã học có được tiêu thụ hay không thì các cơ sở đào tạo cũng như các cấp chính quyền chưa quan tâm.

– Nhu cầu học nghề của người dân cao nhưng chỉ tiêu phân bổ cho các cơ sở dạy nghề để tiến hành tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện ít hơn so với nhu cầu.

– Người lao động sau khi học nghề, phần lớn tự tìm việc làm nên việc theo dõi lao động tìm được việc làm hay chưa tìm được việc làm hoặc làm việc đúng hay không đúng ngành nghề được đào tạo huyện không theo dõi được.

– Nguồn vốn vay ưu đãi để tạo việc làm, phát triển sản xuất quá ít, đối tượng cho vay còn hạn chế nên nguồn vốn vay chưa đến được với người lao động nông thôn tham gia học nghề.

– Đời sống của người dân trong huyện còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập thấp. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn khá cao. Chưa có giải pháp căn cơ trong công tác đào tạo nghề và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.

2.2. Thực trạng triển khai chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

2.2.1. Việc ban hành văn bản cụ thể hóa chính sách

Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ về ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 377/QĐ-UBND ngày 14/3/2011 của UBND tỉnh Quảng Ngãi, Quyết định số 1662/QĐ-UBND ngày 11/11/2011 của UBND tỉnh Quảng Ngãi; UBND huyện Bình Sơn đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo thực hiện đề án của Chính phủ, của tỉnh và đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa.

Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

2.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

2.2.2.1. Thực trạng bộ máy thực hiện chính sách

Cơ cấu tổ chức bộ máy được tổ chức theo mô hình có Ban chỉ đạo để thực hiện. Ban chỉ đạo huyện xây dựng Quy chế làm việc và phân công nhiệm vụ cho từng thành viên; có trách nhiệm điều tra, khảo sát, lập dữ liệu về lao động, việc làm, nhu cầu học nghề, nhu cầu sử dụng lao động của địa phương; phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn của địa phương.

2.2.2.2. Thực trạng chất lượng lao động và tình hình việc làm của người bị thu hồi đất

Chất lượng lao động ở huyện Bình Sơn nói chung và người bị thu hồi đất nói riêng đều rất thấp; không đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi nghề và tuyển dụng của các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư tại huyện và đặc biệt là ở Khu kinh tế Dung Quất. Do vậy, đòi hỏi người lao động phải tham gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động của mình nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng để duy trì việc làm, chuyển đổi nghề, tạo cơ hội làm việc có thu nhập cao và nâng cao vị thế của bản thân trong xã hội không chỉ cần thiết mà là vấn đề cấp bách hiện nay ở huyện Bình Sơn.

2.2.2.3. Thực trạng về đào tạo nghề, học nghề của người bị thu hồi đất

a) Lao động phân theo trình độ chuyên môn, theo nhóm tuổi:

Tỷ lệ lao động qua đào tạo của người lao động chiếm tỷ lệ rất thấp 17,68%, còn lại 82,32% lao động chưa qua đào tạo, nên vấn đề tạo việc làm, chuyển đổi nghề phi nông nghiệp gặp khó khăn đối với người lao động ở huyện Bình Sơn nói chung và người bị thu hồi đất nói riêng;

Kết quả công tác đào tạo nghề cho người bị thu hồi đất

Trong tổng số 9.446 lao động đã qua đào tạo chỉ có 1.080 lao động bị thu hồi đất đã qua đào tạo, chiếm 11,43% so với lao động đã qua đào tạo trong vùng. Tuy nhiên, trình độ lao động qua đào tạo ở bậc đại học, cao đẵng chỉ có 324 người, chiếm 30%; còn lại trung cấp, công nhân kỹ thuật và nghề truyền thống chiếm đến 70% lao động (756 người); do vậy cơ hội tìm việc làm của các đối tượng này thấp; điều đó được minh chứng rõ về số lao động qua đào tạo, nhưng chưa có việc làm hoặc việc làm không ổn định trong thời gian qua tại huyện Bình Sơn.

Người lao động bị thu hồi đất đã chủ động tham gia đào tạo nghề 1.080 lao động/8.358 lao động bị thu hồi đất; chiếm 7,74% trong số lao động bị thu hồi đất, và chiếm 11,43% số lao động qua đào tạo trong khu kinh tế; Dù chiếm tỷ lệ nhỏ, nhưng đã thể hiện bước đầu về nhận thức trong đào tạo nghề để tạo cơ hội tìm việc làm và chuyển đổi nghề từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo có được việc làm còn thấp, chỉ 41,4%; còn lại 58,6% lao động việc làm không ổn định và chưa có việc làm, đặc biệt đối với trình độ trung cấp, công nhân kỹ thuật, tỷ lệ không có việc làm và việc làm không ổn định đến 80,4%; sơ cấp chiếm đến 76%. Nguyên nhân là do các trường trung cấp nghề của tỉnh và trường Cao đẵng kỹ thuật công nghệ Dung Quất đào tạo nghề theo diện rộng, đại trà không bám theo nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp ở Khu kinh tế Dung Quất, huyện Bình Sơn; hơn nữa chất lượng sau đào tạo thấp, không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.

Trong số 1.080 lao động bị thu hồi đất đã qua đào tạo, chỉ có 307 lao động được tuyển dụng vào làm việc ở các doanh nghiệp tại Khu kinh tế Dung Quất, Cụm công nghiệp; làm việc ở nơi khác là 170 lao động; còn lại là chưa có việc làm hoặc việc làm không ổn định có đến 603 người, chiếm 55,8% số lao động bị thu hồi đất đã qua đào tạo.

2.2.2.4. Chính sách tạo việc làm của tỉnh Quảng Ngãi đối với người lao động ở nông thôn khi bị thu hồi đất

UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 08/2013/QĐ-UBND ngày 28/01/2013; theo đó, tại Khoản 1, Điều 21 của Quyết định trên quy định mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm bằng 2,5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất bị thu hồi, nhưng không vượt định mức giao đất nông nghiệp tại địa phương; Trường hợp người được hỗ trợ chuyển đổi nghề nêu trên, nếu có nhu cầu được đào tạo, học nghề thì được hỗ trợ chi phí đào tạo gồm: Học phí, tiền ăn, tiền nội trú, hỗ trợ chi phí đi lại và chi phí liên quan đến đào tạo, thời gian đào tạo tối đa không quá 12 tháng.

Thực tế cho thấy nhiều năm nay Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường chưa từng có phương án đào tạo nghề cho người bị thu hồi đất, chưa có một hợp đồng đào tạo nào với cơ sở đào tạo, vì vậy chi phí hỗ trợ đào tạo theo quy định trên hầu như không được thực hiện; đồng thời cũng chưa thấy thông báo cụ thể ngành nghề cần tuyển dụng, điều kiện tuyển dụng và chính sách ưu tiên tiếp nhận của Doanh nghiệp, tổ chức sử dụng đất thu hồi.

2.2.2.5. Chất lượng tổ chức thực hiện chính sách ở huyện

Cán bộ làm công tác tạo việc làm ở các cấp, đặc biệt là cấp huyện hầu hết là kiêm nhiệm và được trưng dụng từ nhiều ban, ngành khác nhau. Do đó, nhân lực trực tiếp thực hiện chính sách vừa thiếu, vừa yếu, vừa không ổn định. Việc truyền đạt chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân chưa được thông suốt, chưa thuyết phục được nhân dân. Điều kiện và phương tiện làm việc của các Ban Chỉ đạo thiếu thốn, thù lao cho người làm chưa hợp lý, nên chưa động viên được cán bộ tâm huyết với công việc, dẫn đến hiệu quả thấp.

Công tác tạo việc làm hiện nay chủ yếu là do chính quyền thực hiện. Cơ chế phối hợp với các tổ chức đoàn thể đã có nhưng chưa được thực hiện tốt. Công tác vận động, thuyết phục, tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước chưa thường xuyên. Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công khai quy hoạch, phân khu chức năng thực hiện chưa đầy đủ. Vì thế, khi thực hiện giải phóng mặt bằng người dân mới biết nên việc định hướng việc làm sau khi bị thu hồi đất còn mơ hồ, chưa có kế hoạch cụ thể cho cuộc sống sau khi thu hồi đất.

2.3. Đánh giá chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất ở huyện Bình Sơn

2.3.1. Thành công của chính sách trên địa bàn huyện

– Tạo việc làm mới cho 11.943 lao động, từng bước giải quyết việc làm cho người lao động ở các xã trong Khu kinh tế Dung Quất 1.320 lao động, trong đó có 307 lao động bị thu hồi đất.

– Hạ tầng kỹ thuật và xã hội ngày càng được đầu tư phát triển.

– Một số ngành nghề nông nghiệp được đào tạo như: Chăn nuôi gia súc, gia cầm, phòng chống dịch cho gia súc, gia cầm, trồng và nhân giống nấm… mang lại hiệu quả thiết thực. Đặc biệt nghề thuyền trưởng, máy trưởng được ngư dân hưởng ứng và tích cực tham gia đăng ký học nghề.

2.3.2. Những hạn chế trong thực hiện chính sách trên địa bàn huyện Bình Sơn thời gian qua

Thứ nhất, số người được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số lao động mất việc làm

Thứ hai, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm chiếm tỷ lệ cao.

Thứ ba, số lượng nông dân chuyển sang ngành nghề mới còn thấp; chất lượng, tính ổn định và tính bền vững của việc làm cho nông dân sau khi thu hồi đất chưa cao.

Thứ tư, kết quả xuất khẩu lao động đạt thấp.

Thứ năm, hoạt động của các Trung tâm Dịch vụ Việc làm chưa thực sự hiệu quả.

Thứ sáu, việc tổ chức đào tạo nghề cho nông dân không được nghiên cứu một cách chu đáo, dẫn đến nghề nghiệp được đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, cho nên người lao động mặt dàu đã được đào tạo nhưng vẫn không tìm được việc làm.

Thứ bảy, các doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi của người lao động nông thôn chưa thực hiện tốt cam kết ưu tiên tiếp nhận lao động địa phương bị thu hồi đất.

Thứ tám, sự chuẩn bị của các địa phương và người dân trong giải quyết việc làm sau khi thu hồi đất chưa thật sự thống nhất, nhất là người dân nông thôn trong việc ổn định cuộc sống.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Hiện tượng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động bị thu hồi đất ngày càng gia tăng; Sử dụng tiền bồi thường cho cuộc sống hàng ngày, dần dần dẫn đến nguy cơ bần cùng hóa và vô sản hóa, do không có việc làm; Kéo theo tệ nạn xã hội gia tăng, giá trị truyền thống văn hoá cộng đồng, làng quê gần như bị mai một.

Hạn chế và hiện tượng xã hội trên bắt nguồn từ các nguyên nhân cơ bản của nó. Theo chúng tôi, cần sớm có giải pháp tích cực, để khắc phục có hiệu quả vấn đề này, đó là:

a) Do cán bộ quản lý chưa quan tâm

b) Do cơ chế, chính sách chưa khoa học, chưa sát với yêu cầu thực tiễn: Việc thu hồi đất của người dân chưa gắn liền với chuyển đổi nghề, tạo việc làm; Chính sách thu hồi đất và bố trí tái định cư ở huyện Bình Sơn không gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Chưa kết hợp hài hoà giữa các lợi ích. Chưa có cơ chế tạo quỹ đất kinh doanh thương mại, dịch vụ để giao đất hoặc cho thuê suất đất kinh doanh cho người bị thu hồi đất. Thiếu cơ chế phối hợp giải quyết những vấn đề bức xúc xã hội ở huyện, tách rời giữa trách nhiệm quản lý kinh tế với quản lý xã hội; giữa quản lý với chế tài.

c) Do năng lực tài chính.

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM

CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN KHI NHÀ NƯỚC

THU HỒI ĐẤT

3.1. Quan điểm tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn khi nhà nước thu hồi đất

3.1.1. Tuân theo nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội

Người nông dân mất tư liệu sản xuất và đất đai thì họ cần phải được tạo điều kiện để họ có việc làm từ lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, giúp họ được phân phối lại thu nhập từ kết quả sản xuất kinh doanh công nghiệp và dịch vụ.

3.1.2. Kết hợp hài hòa giữa các lợi ích

– Về phía Nhà nước: Thu hồi đất để đầu tư vào lĩnh vực nhằm đem lại lợi ích quốc gia là tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường.

– Về phía người dân bị thu hồi đất: Bị mất việc làm, không có thu nhập, đời sống có nguy cơ đói nghèo; do vậy lợi ích của người dân là có việc làm ổn định, có thu nhập đảm bảo đời sống của họ tốt hơn;

– Về phía doanh nghiệp: Thu lợi nhuận cao nhất. Doanh nghiệp không chỉ tạo ra việc làm mà còn duy trì và phát triển việc làm cho người lao động.

Tóm lại, kết hợp hài hoà giữa các lợi ích: lợi ích của Nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của người lao động là sự kết hợp hài hoà giữa cơ chế tạo việc làm cho người lao động. Đòi hỏi có sự điều tiết, tham gia tích cực từ cả ba phía: Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động (người có đất bị thu hồi) sao cho cơ hội việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị trường lao động đúng lúc, đúng chỗ.

3.1.3. Tuân theo nguyên tắc thị trường

Giải quyết việc làm, tạo thu nhập naang cao đời sống cho người dân có đất bị thu hồi, phục vụ quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá cũng cần thực hiện theo cơ chế thị trường, nguyên tắc pháp luật và chính sách phù hợp.

3.1.4. Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước

Thông qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế, tạo nên sự đồng bộ, hợp lý của hệ thống chính sách giải quyết quyền lợi của người bị thu hồi đất và các doanh nghiệp có liên quan trong quá trình thực hiện thu hồi đất.

3.1.5. Thu hồi đất phải đảm bảo hiệu quả tạo việc làm

– Hiệu quả kinh tế: có việc làm sẽ tạo ra thu nhập cho cá nhân và xã hội;

– Hiệu quả xã hội: góp phần hạn chế và giảm các tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội;

– Hiệu quả về tinh thần: người có việc làm có thu nhập sẽ thoải mái, không bị lo âu, có niềm tin với xã hội, tin tưởng vào chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3.1.6. Các phương án để giải quyết việc làm có thể người bị thu hồi đất lựa chọn

3.1.6.1. Đối với nhóm những hộ bị thu hồi hết đất sản xuất

– Tiếp tục sản xuất nông nghiệp.

– Chấm dứt làm nông nghiệp, chuyển sang ngành nghề phi nông nghiệp.

3.1.6.2. Đối với nhóm những người bị thu hồi một phần diện tích đất nông nghiệp:

Một bộ phận nhân lực trong gia đình tiếp tục làm nông nghiệp, số còn lại chuyển sang ngành nghề phi nông nghiệp; Mua thêm đất sản xuất nông nghiệp để cả gia đình làm nông nghiệp; Chuyển nhượng phần diện tích còn lại (chưa bị nhà nước thu hồi) để chuyển sang ngành nghề phi nông nghiệp.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn khi nhà nước thu hồi đất

3.2.1. Đào tạo nghề theo từng nhóm tuổi và theo hướng đa dạng hóa ngành nghề

Đối với hộ chọn phương án tiếp tục sản xuất nông nghiệp

Đòi hỏi phải trang bị cho người nông dân kiến thức mới trong sản xuất là sản xuất hàng hoá, với năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi cao, định hướng sản xuất theo nhu cầu thị trường tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Có thể theo mô hình hội sinh vật cảnh, hoặc mô hình trồng hoa,… trên cơ sở chuyển giao kỹ thuật công nghệ và bao tiêu sản phẩm đầu ra để ổn định lâu dài, mô hình này đã được các tỉnh thực hiện có hiệu quả, như Đà Lạt, Nha Trang, Bình Định.

Đối với những hộ lựa chọn phương án chuyển sang ngành nghề phi nông nghiệp

+ Đối với người lao động ở lứa tuổi trung niên, họ không dễ dàng để học một nghề mới, yêu cầu tương đối cao về trí tuệ và sự năng động. Do vậy, giải pháp khả thi nhất là sắp xếp bố trí cho họ những công việc thuộc loại hình dịch vụ giản đơn mang tính chất định hướng thị trường, hướng dẫn nghề, kinh nghiệm quản lý…

+ Với đối tượng thanh niên (dưới 35 tuổi), cần được đào tạo nghề cơ bản, lâu dài, phù hợp với đối tượng tuyển dụng của các doanh nghiệp để thu hút họ vào làm việc tại các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp. Do vậy, giải pháp khả thi nhất là Nhà nước phải thể chế hoá cam kết ưu tiên đào tạo, tuyển dụng lao động của người sử dụng đất.

– Để thực hiện điều đó, theo chúng tôi cần phải thực hiện Hoàn chỉnh cơ chế kết hợp giữa Nhà nước – cơ sở đào tạo – người sử dụng lao động – người lao động trong chính sách đào tạo nghề

3.2.2. Hỗ trợ vốn cho người lao động

Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ vốn cho người bị thu hồi đất thông qua các quỹ tín dụng từ các chương trình vay vốn ưu đãi. Có chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề thích đáng và đơn giản về thủ tục. Hỗ trợ khám sức khoẻ, làm hộ chiếu cho lao động và cho vay tín dụng ưu đãi đối với các khoản kinh phí đóng góp, tiền đặt cọc trước khi đi lao động ở nước ngoài.

3.2.3. Nâng cao tính chủ động của người dân về tự tạo, tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập sau khi thu hồi đất

– Các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể thường xuyên vận động, giáo dục lao động bị thu hồi đất thấy được tính đúng đắn trong các chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng các công trình công cộng…

– Các cơ quan, tổ chức như Sở LĐ – TB&XH, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ… cần có các giải pháp có tính định hướng để hướng dẫn các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ đúng mục đích như học nghề, đầu tư kinh doanh…

– Người dân cần tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang phát triển sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng tiến bộ khoa học tăng giá trị sản xuất.

– Đối với những lao động không còn đất sản xuất để chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp: Cần nâng cao ý thức đào tạo, hướng nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ.

3.2.4. Đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển các ngành nghề thích hợp

Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nhằm thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng phát triển mạnh kinh tế công nghiệp, dịch vụ để tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; nhằm tạo được nhiều việc làm, do mối liên hệ chặt chẽ giữa vốn và nhân lực, nhất là công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu và hàng công nghiệp thực phẩm xuất khẩu, sử dụng ít vốn, nhiều lao động.

Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
Chính sách tạo việc làm cho người lao động nông thôn khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

3.2.5. Hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, tạo việc làm

a) Hoàn thiện chính sách thị trường quyền sử dụng đất

Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất lớn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khuyến khích hộ gia đình “dồn điền, đổi thửa”, góp đất làm vốn, làm cổ phần để tham gia các hợp tác xã, trở thành cổ đông của các công ty chế biến tiêu thụ nông lâm sản do họ sản xuất ra, gắn nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ.

b) Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

Chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình thực hiện CCH, đô thi hoá hiện nay, xét về mặt chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo, tạo việc làm cho người lao động thuộc diện bị thu hồi đất đang rất cần được hoàn thiện về mặt quan điểm và việc xác định chi phí bồi thường.

Về quan điểm: cần phân biệt việc bồi thường giá trị quyền sử dụng đất với bồi thường thiệt hại chuyển đổi ngành nghề, đào tạo, tìm việc làm mới trong một thời gian phù hợp là hai nội dung riêng biệt.

3.2.6. Nhà nước tạo điều kiện cho người lao động nông thôn có đất bị thu hồi

– Lập vườn ươm cho sự khởi nghiệp

– Bổ sung đối tượng thụ hưởng các chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi đối với người bị thu hồi đất nông nghiệp

3.2.7. Thực hiện liên kết kinh tế để phát triển sản xuất, thu hút lao động

Nước ta trong những năm gần đây xuất hiện một số mô hình liên kết kinh tế có hiệu quả giữa công ty, doanh nhiệp với nông dân trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Chúng ta thường nói đến liên kết 4 nhà “Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp”, có ý kiến thêm ngân hàng, tư thương… Liên kết này cho phép phối hợp giữa nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế với các ngành sản xuất khác có năng suất, công nghệ cao hơn để khai thác nguồn lực về nguyên liệu, lao động nhờ đó mà việc làm được tạo ra.

3.2.8. Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, tăng cơ hội việc làm ở nước ngoài

Các cơ quan chức năng cần có sự liên kết với nhau trong tổ chức, sao cho những người bị thu hồi đất sẽ được ưu tiên đi trước. Có chính sách khuyến khích gián tiếp qua hỗ trợ người lao động để các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh tuyển chọn lao động thuộc diện thu hồi đất như: chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo, hỗ trợ khám sức khoẻ, làm hộ chiếu cho lao động nghèo, chính sách thưởng khuyến khích đối với các doanh nghiệp đưa được nhiều lao động của địa phương đi lao động ở nước ngoài.

3.2.9. Phát triển thông tin thị trường lao động, tổ chức có hiệu quả sàn giao dịch việc làm

– Đẩy mạnh công tác tổ chức thu thập thông tin về nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp để thông báo thường xuyên tới các xã, thị trấn, thông qua nhiều kênh tuyên truyền nhằm giúp người lao động biết đăng ký lựa chọn việc làm phù hợp. Cung cấp các thông tin về cơ hội đào tạo, các chương trình đào tạo, hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp. Tổ chức sàn giao dịch việc làm tại các địa phương có đất thu hồi thường xuyên, nhằm cung cấp mọi thông tin cung – cầu lao động trên thị trường cho người sử dụng lao động có nhu cầu tuyển dụng, người lao động có nhu cầu tìm việc làm.

3.2.10. Cải tiến phương thức tổ chức thực hiện chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong công tác tạo việc làm cho người bị thu hồi đất

– Nâng cao năng lực, vai trò lãnh đạo, quản lý Nhà nước đối với việc thực hiện mục tiệu GQVL.

– Thường xuyên tổ chức đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội của các chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, GQVL cho nông dân khi thu hồi đất để không ngừng hoàn thiện chính sách.

– Nâng cao hiệu quả quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.

– Đối với đất chưa bị thu hồi cần các giải pháp: Quy hoạch phân vùng, định hướng sản xuất những vùng ổn định với các loại cây, con phù hợp; Đào tạo người dân có kiến thức sản xuất theo hướng thâm canh hiện đại, mang lại thu nhập từ thuần nông có chất lượng và giá trị; Phát triển nông nghiệp sạch với công nghệ cao, ứng dựng công nghệ hiện đại, sinh học vào sản xuất nông phẩm sạch; Tăng mức đầu tư cho nông nghiệp; Khuyến khích nông dân mạnh dạn đầu tư áp dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nhằm tăng hàm lượng khoa học trong kết cấu sản phẩm, giảm dần đầu tư vào vật tư nông nghiệp, góp phần giảm giá thành sản xuất.

– Gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với kế hoạch đào tạo nghề và sử dụng lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đồng bộ với quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào khu công nghiệp, hạ tầng xã hội (y tế, văn hóa, giáo dục…), quy hoạch xây dựng đô thị và khu dân cư nông thôn.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\CHINH SACH CONG\NGUYEN CHI CUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *