Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày truyền thống văn hóa lịch sử, có nhiều DSVH có giá trị. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, cùng với quá trình công tác nhiều năm trong lĩnh vực quản lý DSVH, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm đối tượng nghiên cứu nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi các CSBT, phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi theo hướng bền vững.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn sẽ nghiên cứu thực trạng ban hành chính sách và việc thực hiện CSBT, phát huy giá trị DSVH tại tỉnh Quảng Ngãi. Từ đó đề xuất hoàn thiện, bổ sung chính sách về phương hướng và các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu cơ sở lý luận về CSBT, phát huy giá trị DSVH của Việt Nam; nghiên cứu thực trạng và công cụ thực hiện CSBT, phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi. Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện, bổ sung CSBT, phát huy giá trị DSVH phù hợp với điều kiện thực tế tại tỉnh Quảng Ngãi.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Dưới góc độ khoa học CSC, đề tài luận văn tập trung nghiên cứu việc ban hành và thực hiện CSBT, phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi không gian: CSBT và phát huy giá trị DSVH trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

– Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2003-2017.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách văn hóa , DSVH, về khoa học CSC, khoa học quản lý công.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:

Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích các nguồn tư liệu có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu.

Phương pháp điền dã, thực địa: Tiến hành đi cơ sở khảo sát, phỏng vấn, tìm hiểu thực tế các DSVH ở tỉnh Quảng Ngãi.

Phương pháp phân tích: Phân tích, suy luận, lôgic, luận văn sẽ đi đến các nhận định và kết luận.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Làm sáng tỏ, minh chứng cho các lý thuyết liên quan đến CSC, từ đó đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả chính sách được ban hành.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Việc vận dụng các lý thuyết về CSC để xem xét giữa lý thuyết về chính sách và thực tiễn CSBT và phát huy giá trị DSVH ở tỉnh Quảng Ngãi.

Cung cấp thêm những cơ sở khoa học, nhằm tổ chức thực hiện cũng như hoạch định các chính sách về DSVH.

7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn được chia làm 3 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận về CSBT và phát huy giá trị DSVH.

Chương 2: Thực trạng thực hiện CSBT và phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Hoàn thiện CSBT và phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ

PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Di sản văn hóa

Luật DSVH số 28/2001/QH10, Điều 1 ghi rõ: “DSVH quy định tại luật này bao gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”.

1.1.2. Chính sách, CSC và chính sách văn hóa

– Chính sách: Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống xã hội. Ngày nay, khoa học chính sách đã có những phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những nội dung trọng tâm của khoa học xã hội.

– Chính sách công: CSC là chính sách của nhà nước, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nhà nước. Đối với CSBT và phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi là chính sách công, lĩnh vực văn hóa, bao gồm các chính sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.

1.1.3. Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH

Bảo tồn DSVH là không để DSVH bị mai một, “không để di sản bị thay đổi, biến hóa hay biến thái”.

1.2 Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH

1.2.1. Nội dung CSBT và phát huy giá trị DSVH

Nội dung của chính sách này bao gồm: Thể chế về pháp luật bảo tồn và phát huy DSVH; Thể chế về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn phát huy DSVH; Thể chế về ngân sách; Thể chế về xây dựng các thiết chế, cơ sở vật chất.

1.2.2. Chu trình CSBT và phát huy giá trị DSVH

Chu trình CSBT và phát huy DSVH gồm: Hoạch định và ban hành chính sách; tổ chức thực thi chính sách; đánh giá kết quả thực thi chính sách.

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện CSBT và phát huy giá trị DSVH

Bộ máy tổ chức thực thi chính sách; nhận thức của cộng đồng trong việc thực hiện các chính sách; điều kiện KTXH thực thi chính sách

1.3. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của Việt Nam

1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về CSBT và phát huy giá trị DSVH

Việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH đã được các thế hệ ông cha quan tâm trong suốt chiều dài của lịch sử. Đề cương Văn hoá Việt Nam ra đời năm 1943, với một quan niệm rất rõ là có cứu được dân tộc thì mới cứu được văn hóa dân tộc. Qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, vấn đề xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá ngày càng được quan tâm.

1.3.2. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị DSVH

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam ngày 23/11/1945. Luật DSVH đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 14/6/2001, là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy giá trị DSVH ở Việt Nam. Để quy định chi tiết thi hành Luật DSVH, một hệ thống văn bản dưới Luật đã được ban hành.

1.3.3. Kết quả thực hiện CSBT và phát huy DSVH

Hệ thống các chính sách về bảo tồn, phát huy DSVH đã được ban hành phù hợp với tình hình thực tiễn, đạt được kết quả bước đầu. Song, vẫn còn những hạn chế về nhiều mặt.

Những tồn tại, vướng mắc trong quá trình triển khai do những nguyên nhân chính là:

Về nhận thức vai trò, ý nghĩa của DSVH của cấp ủy, chính quyền và toàn xã hội chưa sâu sắc, toàn diện; chưa xây dựng được những chính sách đồng bộ, đặc biệt là cơ chế, nguồn lực; còn lúng túng trong việc ban hành các chính sách; nguồn kinh phí dành cho các hoạt động về DSVH còn thấp so với yêu cầu; lực lượng cán bộ chuyên ngành DSVH còn thiếu về số lượng và hạn chế về năng lực, nhất là đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật am hiểu chuyên sâu về DSVH.

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Khái quát về DSVH tỉnh Quảng Ngãi

2.1.1. Giới thiệu chung về tỉnh Quảng Ngãi

Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, có diện tích tự nhiên 5.131,5km2, bao gồm 14 huyện, thành phố, trong đó có 1 thành phố, 6 huyện đồng bằng ven biển, 6 huyện miền núi và 1 huyện đảo. Tổng dân số tính sơ bộ đến cuối năm 2014 là 1.241.400 người, gồm 4 dân tộc chính: Kinh, Hrê, Cor, Cadong. Quảng Ngãi có lịch sử văn hóa lâu đời với nhiều nét văn hóa độc đáo.

2.1.2. Hệ thống các DSVH tỉnh Quảng Ngãi

– Hệ thống di tích LSVH và danh lam thắng cảnh

Quảng Ngãi được biết đến là vùng đất có nhiều DSVH và danh thắng nổi tiếng. Toàn tỉnh có 208 di tích được công nhận, trong đó có 29 di tích lịch sử văn hóa Quốc gia, có 51 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh, 121 di tích được UBND tỉnh ra quyết định bảo vệ, 7 di tích được đăng ký.

– Hệ thống bảo tàng

Cùng với bảo tàng tỉnh tổng hợp tỉnh với hơn 4000 tư liệu, hình ảnh, hiện vật, ở Quảng Ngãi có một số nhà trưng bày ở các huyện, như: Nhà trưng bày bảo tàng hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải thuộc huyện đảo Lý Sơn; Nhà trưng bày thuộc Khu chứng tích Sơn Mỹ; Khu lưu niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở huyện Mộ Đức; Nhà trưng bày văn hóa Sa Huỳnh; ngoài ra còn có hệ thống bảo tàng chuyên đề như Bảo tàng Khởi nghĩa Ba tơ, Bảo tàng chiến thắng Vạn Tường, Bảo tàng Khởi nghĩa Trà Bồng…

– Hệ thống DSVH phi vật thể

Ngoài các di tích, danh lam thắng cảnh, Quảng Ngãi còn có những DSVH phi vật thể đặc sắc như: Về phong tục tập quán, về lễ hội, về nghề và làng nghề truyền thống, về ẩm thực…

– DSVH tư liệu

Quảng Ngãi là nơi còn lưu giữ nhiều tài liệu Hán Nôm liên quan đến chủ quyền biển đảo Việt Nam và nhiều tư liệu khác đã được tìm thấy như sắc phong, gia phả, văn từ, văn chỉ, trường biên, phổ ý…

2.2. Thực trạng thực hiện CSBT, phát huy DSVH tỉnh

2.2.1. Hệ thống các văn bản, chính sách về bảo tồn, phát huy DSVH của tỉnh

Tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều chính sách nhằm bảo tồn, phát huy giá trị DSVH vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu, như: Các chỉ thị, NQ của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh; các chỉ thị, văn bản của UBND tỉnh; nhiều văn bản của ngành văn hóa, Thể thao và Du lịch và của các huyện, thành phố.

2.2.2. Thực trạng thực hiện các chính sách về DSVH

– Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Tỉnh Quảng Ngãi đã từng bước xây dựng các kế hoạch triển khai. Sở VHTTDL tỉnh Quảng Ngãi cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn các địa phương thực hiện các chính sách về bảo tồn, phát huy DSVH.

– Phổ biến tuyên truyền chính sách

Công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức của cộng đồng xã hội tham gia thực hiện các CSBT, phát huy DSVH được quan tâm chú trọng trong những năm gần đây. Các cấp, các ngành trong tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về pháp luật DSVH, về lịch sử của địa phương đến cán bộ và nhân dân.

– Phân công phối hợp thực hiện chính sách

HĐND tỉnh Quảng Ngãi vừa là chủ thể ban hành một số chính sách cấp địa phương, đồng thời là chủ thể giám sát việc thực thi chính sách. UBND tỉnh chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thi hành các chính sách. Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch, chủ trì, phối hợp với các sở, ban ngành, địa phương tham mưu về các CSBT, phát huy DSVH;

Ở cấp huyện: tiến hành xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện.

– Duy trì chính sách

Để duy trì thực hiện CSBT và phát huy DSVH, tỉnh Quảng Ngãi đã chú trọng đến các chính sách phát triển nguồn nhân lực, tài chính và cơ sở vật chất.

+ Về nguồn tài chính: Từ chương trình mục tiêu quốc gia về chống xuống cấp di tích do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp, kinh phí của tỉnh và xã hội hóa…

+ Cơ sở vật chất kỹ thuật: đã có sự đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật.

+ Ứng dụng khoa học công nghệ: Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ việc thực hiện các chính sách về DSVH được quan tâm.

+ Về nguồn nhân lực: Đã thực hiện nhiều chính sách về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực về DSVH; cử cán bộ đi tập huấn nâng cao nghiệp vụ về văn hóa. Trong ngành văn hóa hiện nay có 2 tiến sĩ, khoảng 10 thạc sĩ chuyên ngành văn hóa.

– Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo tỉnh cùng các cơ quan chức năng thường xuyên tổ chức đi kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc triển khai thực hiện các chính sách về DSVH.

2.2.3. Đánh giá việc thực hiện các chính sách về DSVH

2.2.3.1. Những kết quả đạt được

– Chính sách đối với di sản văn hóa

Trong quá trình triển khai chính sách, đã đạt được những kết quả tích cực như:

+ Công tác đánh giá, xếp hạng di tích, xác lập cơ sở khoa học và pháp lý, kiểm kê di tích được triển khai thực hiện.

+ Một số quy hoạch, đề án, kế hoạch, dự án đã được xây dựng, phê duyệt; đã bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng được 19/29 di tích cấp quốc gia; 74/172 di tích cấp tỉnh.

+ Nhiều địa phương đã quan tâm và có đề án thực hiện các chính sách để tôn tạo DSVH.

+ Chính sách về bảo tồn, phát huy DSVH của các dân tộc thiểu số miền núi và cư dân vùng biển Quảng Ngãi đã được quan tâm thực hiện; những nét đẹp văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, miền biển được phát huy như lễ hội ăn trâu, lễ Ngã rạ, múa đấu chiêng, hát ca lêu, ca chòi, lễ hội cầu ngư, Lễ hội Điện Trường Bà (Trà Bồng)…

+ Một số di tích, khu di tích đã gắn kết được với chính sách phát triển của ngành du lịch.

– Chính sách đối với di sản phi vật thể

Công tác thực hiện các chính sách về tổ chức, quản lý di sản phi vật thể được tiến hành hàng năm và đang dần phát huy được hiệu quả, đã góp phần quảng bá, giới thiệu hình ảnh, lịch sử văn hóa đến du khách.

Chính sách đối với hệ thống bảo tàng

Đã tập trung đầu tư hệ thống bảo tàng tổng hợp tỉnh và các bảo tàng chuyên đề; nhà lưu niệm và đền thờ được đầu tư và đưa vào khai thác nhằm góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng. Có Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, nhiều bảo tàng chuyên đề, Nhà lưu niệm và đền thờ. Các Bảo tàng đã sưu tầm, lưu giữ, từng bước phát huy giá trị được hàng nghìn tài liệu, hiện vật.

2.2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân

– Những tồn tại

Việc tổ chức thực hiện các chính sách về DSVH còn chậm, nhiều địa phương chưa có kế hoạch và lộ trình thực hiện cụ thể. Một số di tích mới chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý, nhưng ngoài thực địa còn rất khiêm tốn, chưa được đầu tư, đang trong tình trạng xuống cấp, mai một.

Sự phối hợp giữa địa phương với Bộ VHTTDL trong việc nghiên cứu ban hành tiêu chí, cơ chế, chính sách, xây dựng kế hoạch, chỉ đạo điều hành và đánh giá một số chương trình về DSVH còn thiếu chặt chẽ.

Công tác theo dõi, giám sát việc triển khai thực hiện chính sách còn chưa được tổ chức một cách có hệ thống và đồng bộ; đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực chuyên môn; công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích còn hạn chế.

Ngân sách đầu tư của Nhà nước, của tỉnh cho việc thực hiện các CSBT và phát huy giá trị DSVH còn quá thấp.

Việc trưng bày giới thiệu còn theo mô típ cũ, chưa hiện đại, thiếu sự sáng tạo, tương tác đối với người xem. Lượng khách đến tham quan DSVH, hệ thống bảo tàng, nhà trưng bày ít.

Tóm lại: Tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức triển khai thực hiện được một số chính sách liên quan đến DSVH, bước đầu đã thu được những kết quả, tuy nhiên bên cạnh đó những tồn tại, hạn chế trong việc ban hành, đặc biệt tổ chức thực thi chính sách về DSVH còn nhiều hạn chế như:

Tổ chức thực hiện chính sách còn chậm, chưa kịp thời, hầu hết là bị chậm so với yêu cầu (cả về thời điểm bắt đầu thực hiện cũng như thời gian thực hiện chính sách); gặp nhiều khó khăn về kinh phí; tình trạng xâm hại, lấn chiếm các di tích ở một số địa phương còn xảy ra; chưa hệ thống hóa được một số vấn đề cơ bản như:nội dung, yếu tố gốc, yếu tố khoa học, lịch sử, cơ sở dữ liệu cấu thành di tích, điều kiện cần có cơ bản để được công nhận di tích. Nhiều di tích sau khi được công nhận thì không đầu tư, tôn tạo và phát huy, bị xuống cấp, mai một; một số địa phương chưa thực hiện tốt quy định về UBND tỉnh về phân cấp quản lý di tích, còn ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư của cấp trên.

– Nguyên nhân:

Về nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng địa phương chưa cao; sự quan tâm đến các lĩnh vực liên quan đến DSVH của các cấp, các ngành của tỉnh còn nhiều hạn chế.

Nguồn lực tài chính của tỉnh Quảng Ngãi để thực thi chính sách còn hạn chế, chưa chú trọng đúng mức đến đầu tư cho văn hóa nói chung, DSVH nói riêng.

Các chính sách chưa thực sự bám sát thực tiễn; tốc độ đô thị hóa nhanh, có nhiều tranh chấp, mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển; cơ chế xin cho, nhất là trong đầu tư còn diễn ra.

Sự phối hợp trong thực thi CSBT, phát huy DSVH tại Quảng Ngãi còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ quản lý trên lĩnh vực DSVH các cấp trong tỉnh, nhất là cấp cơ sở còn thiếu và yếu.

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

CHƯƠNG 3

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TỈNH QUẢNG NGÃI

3.1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng chính sách bảo tồn và phát triển DSVH của tỉnh Quảng Ngãi

3.1.1. Quan điểm

Quan điểm bảo tồn phát huy giá trị DSVH dựa trên những quan điểm cơ bản của Đảng về sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam đã được xác định rõ trong NQ Trung ương 5 (khóa VIII) và Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của BCH Trung ương Đảng, trong đó xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KTXH; văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị.

Văn hóa nói chung, DSVH nói riêng, là bộ phận hữu cơ trong quá trình phát triển KTXH. DSVH có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam và là nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển với quan điểm bảo tồn là nền tảng, khi triển khai các dự án kinh tế phải chủ động xử lý các vấn đề liên quan đến bảo tồn DSVH ngay từ đầu.

DSVH cần được bảo vệ và phát huy giá trị với tư cách là một bộ phận cấu thành môi trường sống của nhân loại, DSVH còn được coi trọng và tôn vinh vì đó là loại tài sản quý giá không thể thay thế, không thể tái sinh, nhưng lại rất dễ bị biến dạng và tổn thương trước tác động của các yếu tố tự nhiên và cách hành xử thiếu văn hóa do chính con người gây ra.

Bảo vệ và phát huy giá trị DSVH trước hết cần giữ gìn, bảo vệ các yếu tố nguyên gốc làm nên giá trị đặc biệt của DSVH. Cần làm rõ mối quan hệ giữa DSVH với các giai đoạn lịch sử mà nó đã được sáng tạo để tìm thấy những thông tin, những kinh nghiệm và cả các bài học lịch sử, trong đó quan trọng nhất là tính nguyên gốc và tính chân xác lịch sử của DSVH.

Tại Đề án Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững đã nêu rõ quan điểm “Phát triển văn hóa nhằm hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa; bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp”.

3.2.2. Mục tiêu

Trên cơ sở quan điểm về xây dựng và phát triển văn hóa tỉnh Quảng Ngãi nói chung, DSVH tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, mục tiêu hoàn thiện các chính sách về bảo tồn và phát huy DSVH hướng tới các nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất, việc ban hành các cơ chế, CSBT và phát huy giá trị DSVH của tỉnh Quảng Ngãi đảm bảo thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về DSVH.

Thứ hai, việc thực thi các chính sách về bảo tồn và phát huy DSVH là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cấp ủy Đảng, trong đó chính quyền thực hiện vai trò chủ đạo (chủ thể), phải tạo điều kiện cần và đủ trong việc huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong việc thực hiện các chính sách.

Thứ ba, các NQ, chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch của Đảng bộ, chính quyền tỉnh về bảo tồn, phát huy DSVH cần phải được tuyên truyền, tạo lập sự đồng thuận cao trong nhân dân và tổ chức thực hiện có lộ trình, kế hoạch và kiên quyết theo đuổi, tránh việc dỡ dang.

Thứ tư, việc hoàn thiện các chính sách về bảo tồn, phát huy DSVH phải đảm bảo tính kế thừa nhằm phát huy các ưu điểm của các chính sách trước đây, đồng thời có chọn lọc những rào cản, thiếu tính khả thi của chính sách để điều chỉnh, bổ sung.

Thứ năm, các chính sách về DSVH được triển khai trên 4 lĩnh vực chính là di tích, DSVH phi vật thể, bảo tàng, di sản tư liệu. Do đó, cần ban hành các cơ chế hoặc chính sách riêng cho từng lĩnh vực là điều cần thiết.

Thứ sáu, các chính sách về DSVH của tỉnh Quảng Ngãi phải hướng mục tiêu vì sự phát triển bền vững, gắn kết chặt chẽ với phát triển du lịch.

3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện CSBT và phát huy DSVH tỉnh Quảng Ngãi

Thứ nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực thi các CSBT và phát huy giá trị DSVH của địa phương.

Tiếp tục hoàn thiện về thể chế, chính sách, cụ thể hóa các quy định của Luật DSVH, các quy định, chương trình kế hoạch, đề án NQ của Bộ VHTTDL, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh. Đồng thời, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách; xây dựng các đề án, quy hoạch, dự án bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phù hợp với thực tiễn của địa phương.

Cần tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, có phân kỳ phù hợp, phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; hạn chế tình trạng trùng chéo nhiệm vụ, không rõ trách nhiệm.

Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành để thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân vi phạm.

Thứ hai, giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về DSVH, nhất là vai trò của cơ quan chuyên môn như: Sở VHTTDL, phòng quản lý di sản, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh; đặc biệt các cấp chính quyền địa phương, UBND các huyện, thành phố, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn tỉnh.

Cần cụ thể hóa việc phân cấp tổ chức thực hiện công tác quản lý DSVH giữa các cơ quan Sở VHTTDL tỉnh Quảng Ngãi, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, UUBND phường, xã nơi có di tích và cơ sở thờ tự, Ban quản lý di tích và người trông coi cơ sở thờ tự trong việc quản lý, triển khai thực hiện các chính sách về DSVH

Thứ ba, giải pháp về đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện các chính sách giữ gìn và phát huy DSVH ở tỉnh Quảng Ngãi.

Một là, cần có nhiều các ấn phẩm, sách báo viết về DSVH của Quảng Ngãi.

Hai là, thường xuyên thực hiện gắn kết hoạt động giữ gìn và phát huy giá trị DSVH với giáo dục học đường; định kỳ tổ chức cho các em tham quan, hoạt động ngoại khóa tại các DSVH, các Bảo tàng.

Ba là, chú ý đến việc tuyên truyền nhận thức của nhân dân về DSVH thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Hàng năm, hoặc các dịp lễ hội, tổ chức sự kiện về DSVH nên có họp báo để cung cấp thông tin cho các cơ quan truyền thông đăng tải, tuyên truyền, quảng bá.

Thứ tư, tăng cường đầu tư kinh phí cho hoạt động thực hiện CSBT, tôn tạo di tích, những quy hoạch, đề án, dự án được phê duyệt phải được bố trí kinh phí đầy đủ (như đã phê duyệt) để triển khai thực hiện.

Đây có lẽ là vấn đề thực sự ngành văn hóa tỉnh Quảng Ngãi cần quan tâm, chủ động tham mưu, đề xuất cơ quan chức năng, cương quyết bảo vệ trước Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, UBND tỉnh, HDND tỉnh trên cơ sở các chính sách, quy định, quy hoạch, đề án đã được ban hành cũng như phê duyệt, nhằm đảm bảo nguồn lực đầu tư cho DSVH.

Thứ năm, giải pháp về chính sách xã hội hóa hoạt động bảo tồn, tôn tạo DSVH để huy động mọi nguồn lực từ người dân, để họ có thể tham gia vào công tác này dưới nhiều hình thức khác nhau.

Ban hành các chính sách quản lý, sử dụng các nguồn tài chính của các di tích như tiền công đức, tiền bán vé, tiền tài trợ… theo hướng ưu tiên sử dụng các nguồn thu của di tích cho việc quản lý, tu bổ, tôn tạo di tích. Mở rộng mối quan hệ hợp tác với các tổ chức, đối tác, doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ và khai thác di sản để tranh thủ sự trợ giúp về vật chất và tinh thần; kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.

Thứ sáu, giải pháp về các chương trình hành động đối với từng loại hình DSVH ở Quảng Ngãi.

Thể hiện tầm chiến lược và nhận thức đúng đắn, khoa học mang tính chuyên ngành hẹp của tỉnh đối với công tác này.

* Đối với các di tích LSVH và danh lam thắng cảnh

– Xây dựng các chính sách, kế hoạch nhằm tổ chức khoanh vùng bảo vệ, cắm mốc các di tích, kiểm kê di tích, hoàn chỉnh hồ sơ khoa học cho từng di tích; từng bước thực hiện công tác đền bù giải phóng mặt bằng, lập thủ tục thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích để tăng tính pháp lý cho di tích, thuận tiện trong công tác quản lý, không để tình trạng tranh chấp, chồng lấn các chủ sở hữu khác về đất đai trên khuôn viên của di tích.

– Tăng cường công tác thanh tra thực hiện chính sách, xử phạt nghiêm các trường hợp lấn chiếm di tích, xâm hại, phá hoại di tích. Không để tình trạng tái lấn chiếm khuôn viên di tích sau khi đã đền bù, thu hồi đất.

– Tổ chức lập, trình phê duyệt và thực hiện các qui hoạch, đề án liên quan đến DSVH như: Quy hoạch khảo cổ ( hiện Sở VHTTDL đang lập), quy hoạch hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh, đề án Tu bổ, tôn tạo di tích trên địa bàn tỉnh…

– Có chính sách phát huy các DSVH nổi bật của tỉnh nhằm quảng bá, giới thiệu đến du khách và phát triển du lịch như: Quần thể di tích trên đảo Lý Sơn, khu di chỉ khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh, khu chứng tích Sơn Mỹ….

* Đối với các DSVH phi vật thể

– Nâng cao vai trò quản lý, định hướng của nhà nước, đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chính sách, vận động nhân dân tham gia bảo vệ DSVH phi vật thể của địa phương, gắn việc tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống với công tác xây dựng đời sống văn hóa.

– Xây dựng chương trình cụ thể lựa chọn một vài hình thức văn hóa phi vật thể tiêu biểu để xây dựng hồ sơ DSVH phi vật thể hoặc DSVH có nguy cơ khẩn cấp, trình Bộ VHTTDL công nhận là di sản phi vật thể cấp Quốc gia như: Lễ hội đua thuyền Lý Sơn, Hát Bài chòi, hát Sắc bùa, lễ hội trình diễn cồng chiêng của người Cor – Trà Bồng, nghề dệt thổ cẩm của người Hre – Ba Tơ…

* Đối với hệ thống bảo tàng:

– Thực hiện các chính sách quy hoạch, đầu tư nâng cấp lại Bảo tàng tỉnh và các Bảo tàng chuyên đề. Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động bảo tàng và công tác bảo tồn, từng bước phân cấp các bảo tàng chuyên đề cho các huyện quản lý như Bảo tàng Vạn Tường, bảo tàng Ba Tơ.

* Đối với các di sản tư liệu

Trên cơ sở sưu tầm, nghiên cứu, cơ quan quản lý cần có sự tổng hợp về hiện trạng và giá trị của từng di sản tư liệu, từ đó có những định hướng cơ bản về chính sách, kế hoạch, giải pháp cụ thể để bảo vệ và phát huy giá trị các di sản trong mối quan hệ với quy hoạch phát triển của địa phương. Cần có kế hoạch xây dựng các chính sách hỗ trợ, nghiên cứu biên soạn, biên dịch nội dung di sản tư liệu sang chữ quốc ngữ hay các ngôn ngữ thông dụng khác một cách phổ cập, khoa học, dễ tiếp thu.

Thứ bảy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm bảo tồn, phát huy giá trị DSVH các dân tộc ở Quảng Ngãi.

Công tác này hiện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải có những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao tính hiệu quả. Trước mắt cần thực hiện các CSBT và phát huy DSVH các dân tộc thiểu số của tỉnh, nhất là các dân tộc Hre, Cor, Cadong.

Thứ tám, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ thực hiện các chính sách về DSVH.

Tỉnh Quảng Ngãi cần có chính sách tập trung củng cố, nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành về bảo tồn di tích, bảo tàng, mở hệ đào tạo về chuyên ngành về DSVH phi vật thể. Cần có chính sách thu hút, cơ chế hỗ trợ về kinh phí, về nơi ở, điều kiện làm việc đối với nguồn nhân lực có trình độ cao về quản lý DSVH, về TBDT, cũng như nghệ nhân… về công tác trong ngành văn hóa ở tỉnh.

Thứ chín, cần ban hành ngay một số chính sách về DSVH trong giai đoạn từ nay đến năm 2020:

– Chính sách đào tạo, thu hút, sử dụng đội ngũ cán bộ, người có chuyên môn về văn hóa (trong đó chú trọng đến lĩnh vực DSVH) về công tác trong tỉnh.

– Chính sách đãi ngộ, tôn vinh các nghệ nhân, tổ chức, cá nhân có công gìn giữ, trao truyền và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

– Chính sách khuyến khích, ưu đãi các tổ chức, cá nhân đầu tư, xây dựng, tu bổ di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.

– Chính sách khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh đóng góp tinh thần và vật chất về tài liệu, hiện vật (nên chọn ngày Di sản Việt Nam 23/11 hàng năm làm ngày tôn vinh).

– Xây dựng đề án trình UNESCO công nhận Lý Sơn và vùng phụ cận là công viên địa chất toàn cầu. Trong đề án này cần xác định lộ trình, cơ chế đặc thù, nguồn lực, đặc biệt khâu tổ chức thực hiện… để đề án sớm thành hiện thực theo như Nghị Quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng Bộ tỉnh đã ban hành, đảm bảo được UNESCO công nhận trước năm 2020.

KẾT LUẬN

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, bất kỳ dân tộc nào cũng có quá trình lịch sử phát triển riêng của mình, đồng thời sản sinh ra giá trị văn hóa dân tộc và chính giá trị văn hóa đó đã làm nên diện mạo, cốt cách riêng của mỗi dân tộc để tạo nên sự phong phú đa dạng của nền văn hóa chung của nhân loại. Một quốc gia không thể phát triển bền vững nếu thiếu một nền tảng văn hóa nội sinh, nếu các giá trị DSVH bị mai một hoặc không được giữ gìn, phát huy đúng đắn, có hiệu quả.

Quảng Ngãi được biết đến là vùng đất có nhiều DSVH và danh thắng nổi tiếng. Các DSVH ở Quảng Ngãi có vai trò rất quan trọng, là điểm hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc, là nơi gặp gỡ giao lưu các luồng văn minh nhân loại. Vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị DSVH ở Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu khách quan, cấp thiết.

Công tác thực hiện CSBT và phát huy DSVH ở Quảng Ngãi trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhiều DSVH vẫn còn trong tình trạng hư hỏng nặng nề, nhiều lễ hội, ngành nghề truyền thống trong quá trình khôi phục chưa đáp ứng yêu cầu và còn nhiều hạn chế, bất cập. Những nguyên nhân được rút ra từ thực tiễn và những vấn đề đặt ra cần phải được nhận thức đúng để nâng cao hơn nữa chất lượng của việc giữ gìn và phát huy DSVH ở Quảng Ngãi trong thời gian tới.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện CSBT và phát huy DSVH ở Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay cần quán triệt quan điểm của Đảng về DSVH, phải đảm bảo tính kế thừa, đổi mới và nhìn nhận sự cần thiết phải bảo vệ DSVH trong điều kiện kinh tế thị trường. Trên cơ sở dựa vào đặc điểm riêng của tỉnh Quảng Ngãi mà các chủ thể Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh, ngành văn hóa, chính quyền địa phương cần vận dụng thực hiện cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giữ gìn và phát huy DSVH ở Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong những giai đoạn tiếp theo.

Thực hiện các chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi cần đảm bảo tính hài hòa giữa các giá trị truyền thống với quá trình hiện đại hóa, giữa bảo tồn với phát triển. Để bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, góp phần phát triển KTXH tỉnh Quảng Ngãi cần giải quyết đồng bộ, kịp thời, chất lượng, hiệu quả các chính sách trước mắt cũng như lâu dài; đặc biệt là cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, các cấp chính quyền, các tổ chức, đoàn thể để huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cho việc thực hiện, cũng như kiện toàn, bổ sung các CSBT và phát huy giá trị DSVH góp phần xây dựng và phát triển quê hương Quảng Ngãi ngày càng giàu mạnh./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 6\CHINH SACH CONG\NGUYEN PHUC NHAN\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *