Chênh lệch lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Khê Thành phố Đà Nẵng

Chênh lệch lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Khê Thành phố Đà Nẵng

Chênh lệch lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Khê Thành phố Đà Nẵng

1. Sự cần thiết của đề tài

Trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, một quy trình quan trọng mà chủ đầu tư không thể bỏ qua đó là tính lợi nhuận, trong đó có LNKT. Đây được xem là chỉ số đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý mô hình và nắm bắt nguồn lợi của các công ty. Hơn nữa, loại thu nhập này còn giúp các chủ đầu tư đánh giá các rủi ro tín dụng và phân tích việc đầu tư vào các dự án hiệu quả nhất. Quản trị thuế cũng là một mục tiêu khác của doanh nghiệp. Để tối đa hóa lợi nhuận của DN, các chủ DN phải có được sự toàn vẹn trong chiến lược kinh doanh và cả hệ thống quản trị thuế của mình để tối thiểu hóa sự truy thu của cơ quan thuế. Chính vì vậy mà quản trị thuế đã trở thành một trong những nhân tố quyết định sự phát triển và trường tồn của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, thuế và LNKT lại có sự khác biệt lớn. Cụ thể, LNKT được xác định theo quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán. Trong khi đó, TNCT được xác định theo qui định của Luật thuế, nghị định và thông tư về thuế. Mặt khác, lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế cũng được đo lường bởi các chỉ tiêu khác nhau từ thông tin kinh tế tài chính của DN. Điều này tạo nên khoảng cách giữa LNKT và TNCT.

Một số nghiên cứu trước đây về mối liên hệ giữa kế toán và thuế như các nghiên cứu của Nguyễn Công Phương (2010), Trương Thùy Vân (2017) đều cho thấy có chênh lệch đáng kể giữa LNKT và TNCT ở một số ngành nghề nhất định. Tuy vậy, các nghiên cứu này thực hiện cách đây một số năm, trong khi gần đây có những thay đổi về đo lường LNKT (theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC) và đo lường TNCT. Mặt khác, các nghiên cứu trước đây tập trung vào các công ty niêm yết, trong khi DN vừa và nhỏ thường tập trung mục tiêu thuế, ít chú trọng đến thông tin kế toán nói chung và xác định lợi nhuận kế toán đúng thực tế nói riêng. Nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm trong bối cảnh có sự thay đổi về đo lường LNKT và TNCT, xem xét ở các DN vừa và nhỏ ở một khu vực quản lý của cơ quan thuế, em lựa chọn chủ đề “Chênh lệch lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài là đánh giá chênh lệch giữa LNKT và TNCT của các DN trên địa bàn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng; qua đó, đưa ra được những hàm ý từ kết quả nghiên cứu của mối liên hệ này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu được xác định trong đề tài là chênh lệch giữa LNKT và TNCT của DN. Cụ thể, đề tài xem xét, đánh giá mối quan hệ, mức độ chênh lệch giữa LNKT và TNCT trên phương diện lý thuyết thông qua phân tích chênh lệch tạm thời; và trên phương diện thực tế thông qua đánh giá tỷ suất thuế thực tế của các DN trên địa bàn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn phân tích các thông tin về báo cáo thuế thu nhập doanh nghiệp thông qua tờ khai quyết toán thuế TNDN và BCTC trong 3 năm 2016, 2017, 2018 của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phân tích định tính được sử dụng để phân tích nguyên tắc đo lường LNKT, TNCT; và phân tích thông tin cung cấp trong thuyết minh về chi phí thuế TNDN của các công ty nghiên cứu.

Phân tích định lượng được vận dụng thông qua tính toán tỷ suất thuế TNDN thực tế dựa vào số liệu báo cáo về lợi nhuận và chi phí thuế TNDN, số liệu thu thập từ tờ khai quyết toán thuế TNDN và BCTC của các công ty mẫu.

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 4 chương. Chương 1trình bày cơ sở lý thuyết về chênh lệch giữa LNKT và TNCT. Trên cơ sở đó, chương 2 trình bày thiết kế nghiên cứu để đánh giá chênh lệch giữa LNKT và TNCT của DN. Kết quả của nghiên cứu được trình bày ở chương 3. Chương 4 là những đánh giá tổng hợp và hàm ý rút ra từ kết quả nghiên cứu.

6. Tổng quan về tài liệu nghiên cứu

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHÊNH LỆCH GIỮA LỢI NHUẬN KẾ TOÁN VÀ THU NHẬP CHỊU THUẾ

1.1. MỤC TIÊU, YÊU CẦU CỦA KẾ TOÁN VÀ THUẾ

1.1.1. Mục tiêu, yêu cầu của kế toán

a. Mục tiêu của kế toán

Mục tiêu ưu tiên của kế toán là cung cấp thông tin về tình hình tài chính của DN một cách trung thực, khách quan, hợp lý, chính xác, đầy đủ và kịp thời cho các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng sử dụng khác nhau ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư, nhà cung cấp, nhà tín dụng, các chủ nợ; cơ quan thuế, các cơ quan quản lý nhà nước,… và là cơ sở để giúp những người sử dụng thông tin trong việc ra những quyết định kinh tế có liên quan đến doanh nghiệp. Các nhóm người sử dụng này luôn quan tâm đến tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp như: tổng tài sản, khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp, khả năng thanh toán và mức độ sinh lời của doanh nghiệp để đưa ra quyết định có đầu tư hay không đầu tư, có cho vay hay không cho vay. Đồng thời, các cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan thuế cũng quan tâm đến tình hình hoạt động, tình hình tài chính của doanh nghiệp để xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp với nhà nước và kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.

Hệ thống kế toán, thông qua các chuẩn mực và chế độ kế toán, nhằm mục đích thiết lập báo cáo tài chính, phản ánh hợp lý và trung thực kết quả kinh doanh, doanh thu và chi phí phát sinh trong kỳ.

Kế toán là công cụ quản lý quan trọng, cung cấp thông tin, kiểm tra tình hình và sự biến động tài sản trong các doanh nghiệp. Kế toán có luật kế toán, các chuẩn mực kế toán, thông qua các khái niệm và các nguyên tắc áp dụng nhằm xác định lợi nhuận kế toán và cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời về tình hình tài chính của các doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính.

Chênh lệch lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Khê Thành phố Đà Nẵng
Chênh lệch lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn quận Thanh Khê Thành phố Đà Nẵng

 

Nghiên cứu của Nguyễn Công Phương (2010) đã đề cập: “Mục tiêu của kế toán có thể thay đổi và sự thay đổi này chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường kinh tế – xã hội của kế toán” (Mueller 1967; Choi and Muller 1992). “Kế toán trong hệ thống kinh tế kế hoạch hóa chủ yếu nhằm cung cấp thông tin cho công tác kế hoạch hóa và kiểm soát vĩ mô nền kinh tế” (Nguyen 2008, p.101). “Kế toán trong nền kinh tế thị trường nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho Nhà Nước và các nhóm người sử dụng khác nhằm đánh giá hiệu quả và tình trạng tài chính của doanh nghiệp” (Nguyen 2008, p.162). Nghiên cứu đưa ra sáu mục tiêu chủ yếu sau: cung cấp bằng chứng về giao dịch kinh tế tài chính phát sinh; cho phép kiểm soát (phân chia tài sản, lợi nhuận, căn cứ tính thuế thu nhập, giám sát và chế tài hoạt động của DN); giúp cho việc đưa ra quyết định; đánh giá tình trạng kinh tế, tài chính của DN; cung cấp số liệu cho thống kê và kế toán quốc gia; tạo niềm tin và hỗ trợ cho việc đánh giá xã hội.

b. Yêu cầu của thông tin kế toán

Kế toán thu thập và cung cấp thông tin về tình hình tài chính, về kết quả sản xuất kinh doanh của DN giúp người sử dụng thông tin trong việc ra quyết định. Để có được những quyết định chính xác, thông tin kế toán cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cơ bản là: trung thực, khách quan, kịp thời, đầy đủ, dễ hiểu và có thể so sánh được.

Những yêu cầu này được cụ thể trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 – Chuẩn mực chung như sau:

  • Yêu cầu trung thực đã bao hàm yêu cầu khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép, báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung cũng như giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo. Cần xem hạch toán kế toán như kim chỉ nam của nhà quản lý trong mọi hoạt động của đơn vị chứ không nên quan niệm việc ghi sổ kế toán chỉ để đối phó với những yêu cầu của nhà nước. Từ đó, đơn vị khắc phục những tồn tại, phát huy những thế mạnh để dạt được mục đích với hiệu quả cao.
  • Yêu cầu kịp thời nhưng phải đầy đủ, dễ hiểu và có thể so sánh được: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh, bảo đảm đúng thời hạn quy định, không được chậm trễ nhằm giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định, lựa chọn đúng đắn và các cơ quan nhà nước nhận biết kịp thời hoạt động của mình. Tuy thông tin kế toán cần đáp ứng tính kịp thời nhưng phải ghi chép và báo cáo đầy đủ các hoạt động kinh tế tài chính xảy ra liên quan đến kỳ kế toán, không bị bỏ sót. Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng, đảm bảo các đối tượng sử dụng thông tin kế toán nhìn nhận đúng thực trạng hoạt động của đơn vị. Các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một DN và giữa các DN phải được tính toán và trình bày nhất quán thì mới có thể so sánh được. Phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các DN hoặc giữa thông tin thực hiện với thông tin dự toán, kế hoạch nếu trong trường hợp tính toán và trình bày không được nhất quán. Nhằm đảm bảo việc so sánh, phân tích và nhận biết xu thế biến động của các chỉ tiêu kinh tế; đảm bảo thống nhất về số liệu giữa thực hiện với kế hoạch, thuận tiện cho việc giám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch; thống nhất tài liệu thực tế của đơn vị với tài liệu của các đơn vị cùng ngành, cùng lĩnh vực hoạt động, đảm bảo tổng hợp số liệu theo từng ngành và toàn bộ nền kinh tế.

Theo Điều 5 Luật kế toán số 88/2015/QH13 ngày 20/11/2015, kế toán phải đáp ứng những yêu cầu sau:

– Phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào chứng từ kế toán, sổ kế toán và BCTC; phản ánh kịp thời, đúng thời gian quy định thông tin, số liệu kế toán;

– Phản ánh rõ ràng, dễ hiểu và chính xác thông tin, số liệu kế toán;

– Phản ánh trung thực, khách quan hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế, tài chính;

– Thông tin, số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục từ khi phát sinh đến khi kết thúc hoạt động kinh tế, tài chính, từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động của đơn vị kế toán;

– Số liệu kế toán kỳ này phải kế tiếp số liệu kế toán của kỳ trước;

– Phân loại, sắp xếp thông tin, số liệu kế toán theo trình tự, có hệ thống và có thể so sánh, kiểm chứng được.

1.1.2. Mục tiêu, yêu cầu của thuế

a. Mục tiêu của thuế

Mục tiêu ưu tiên của thuế là nhằm tạo ra nguồn thu cho quốc gia và điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh theo định hướng của nhà nước. Để có thể kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, đạt được mục tiêu xã hội và trong một số trường hợp, khích lệ hay hạn chế một số hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thì nhà nước cần sử dụng hệ thống thuế. Việc hạch toán chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận của DN sao cho đảm bảo nhà nước thu đủ, thu đúng số thuế để nhà nước có đủ nguồn thu trang trải cho các hoạt động thường xuyên của nhà nước.

Thuế là công cụ quan trọng của nhà nước trong việc tạo ra nguồn thu cho ngân sách cũng như đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ, phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập, điều tiết các quan hệ kinh tế và là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, công cụ của chính sách tài khóa. Do vậy các Luật thuế tác động trực tiếp đến các nội dung cấu thành hệ thống kế toán tài chính. Nói cách khác, chính sách thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên tính chất pháp lý của các hoạt động kinh tế tài chính của các doanh nghiệp mà các nội dung kinh tế pháp lý này sẽ được kế toán thực hiện, thu thập, xử lý, tổng hợp để cung cấp thông tin cho những đối tượng khác nhau.

Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.

b. Yêu cầu của thuế

Mối quan tâm của bất kỳ hệ thống thuế nào cũng là cân bằng các mục tiêu nói trên, điều này đòi hỏi hệ thống thuế phải đạt được một số tiêu chuẩn. “Một hệ thống thuế phải công bằng, hiệu quả, lâu dài, đáng tin cậy, thuận lợi và kinh tế” (James and Nobes 1978).

– Tính công bằng: Tất cả các đạo luật đều đưa ra điều kiện đối với đối tượng nộp thuế, bất kỳ tổ chức, công dân nào đáp ứng các điều kiện này thì phải nộp thuế, không phân biệt thành phần kinh tế, hình thức sở hữu, tuổi tác, nghề nghiệp…

– Tính hiệu quả: Hiệu quả của pháp luật thuế được hiểu là những kết quả đạt được sau khi áp dụng luật thuế đó vào nền kinh tế xã hội. Tính hiệu quả liên quan đến chi phí phải trả cho quá trình hành thu và kết quả thu được từ thuế và các kết quả gián tiếp khác từ nền kinh tế xã hội.

– Tính trung lập: Khi nói tới yêu cầu thuế là phải đảm bảo hiệu quả, công bằng cho các đối tượng. Một luật thuế chỉ đảm bảo tính hiệu quả khi có tính khả thi, có nghĩa là là luật thuế đó được xây dựng theo điều kiện kinh tế xã hội, cơ chế đảm bảo thực hiện và khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế. Khi luật thuế xây dựng có tính tới khả năng đóng góp của người nộp thuế có nghĩa là đã liên quan tới tính trung lập của thuế.

– Tính thuận lợi và kinh tế: một hệ thống thuế phải tiện lợi cho người nộp thuế, dựa vào đó, chi phí vận dụng mà đối tượng nộp thuế gánh chịu sẽ được tối thiểu hóa. Một khi việc xác định thuế, thu thuế và quản lý thuế dễ dàng, thuận lợi thì chi phí quản lý thuế sẽ giảm.

Thông qua phân tích mục tiêu, yêu cầu của kế toán và thuế cho thấy luôn tồn tại những mục tiêu khác nhau giữa kế toán và thuế. Từ khác biệt về mục tiêu dẫn đến khác biệt về đo lường. Mục tiêu đầu tiên của kế toán tài chính là cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định của nhà nước và nhà đầu tư, cho vay, chủ nợ…và trách nhiệm chính của kế toán và kiểm toán là làm sao cho thông tin kế toán không bị lệch lạc làm ảnh hưởng đến các nhóm lợi ích này. Trong khi đó, mục tiêu ưu tiên hàng đầu của thuế là tạo nguồn thu một cách công bằng cho ngân sách nhà nước. Một khi có sự khác biệt về mục tiêu, những nhà quản trị, những nhà hoạch định chính sách xây dựng những nguyên tắc phản ánh mục tiêu đo lường, yêu cầu, hạch toán, chứng từ, sổ sách, báo cáo khác nhau, và chính điều đó tạo nên sự khác biệt giữa kế toán và thuế; giữa đo lường LNKT và TNCT. Nhà hoạch định chính sách thuế thiết lập những khái niệm, nguyên tắc phản ánh mục tiêu của thuế. Những nhà hoạch định chính sách kế toán thiết lập những khái niệm, nguyên tắc phản ánh mục tiêu của kế toán. Từ đó, một số nguyên tắc kế toán cơ bản được áp dụng trong thuế gắn với những ràng buộc theo quy định của thuế.

Sự khác biệt về nguyên tắc dẫn đến hệ quả: chênh lệch vĩnh viễn và chênh lệch tạm thời. Chênh lệch vĩnh viễn sinh ra do có những khoản thu nhập và chi phí được hạch toán khi xác định LNKT nhưng lại không được đưa vào khi tính toán TNCT theo quy định của thuế. Chênh lệch tạm thời sinh ra do có các khoản thu nhập và chi phí được đưa vào để tính toán LNKT trong một kỳ kế toán nhưng lại được sử dụng cho tính toán TNCT trong một kỳ kế toán khác.

1.2. ĐO LƯỜNG LỢI NHUẬN KẾ TOÁN VÀ THU NHẬP CHỊU THUẾ

1.2.1. Đo lường lợi nhuận kế toán

Lợi nhuận kế toán có thể được hiểu đơn thuần là phần doanh nghiệp thu được về sau một quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và đã được trừ đi những khoản chi phí phát sinh đã bỏ ra để đạt được khoản thu đó.

Theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp, “LNKT là lợi nhuận thực hiện trong năm báo cáo của DN trước khi trừ chi phí thuế TNDN từ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác phát sinh trong kỳ báo cáo”.

Theo VAS 17, “LNKT là lợi nhuận hoặc lỗ của một kỳ, trước khi trừ thuế thu nhập DN, được xác định theo quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán”.

Công thức đo lường LNKT:

LNKT = Doanh thu/thu nhập kế toán – Chi phí kế toán

Từ công thức đo lường LNKT, có thể thấy đo lường LNKT phụ thuộc vào nguyên tắc ghi nhận doanh thu và nguyên tắc ghi nhận chi phí kế toán. Việc DN lựa chọn các chính sách kế toán phù hợp với những quy định của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán áp dụng như chính sách khấu hao, chính sách phân bổ tài sản đã xuất dùng, chính sách ghi nhận doanh thu, chính sách tập hợp chi phí… sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến đo lường LNKT.

1.2.2. Các nguyên tắc kế toán chi phối đo lường lợi nhuận kế toán

a. Nguyên tắc ghi nhận doanh thu

Ghi nhận doanh thu kế toán là một trong những vấn đề quan trọng của quá trình xác định kết quả kinh doanh. Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về ghi nhận doanh thu. Với nguyên tắc ghi nhận doanh thu khác nhau sẽ dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh khác nhau.

Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế DN thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Chỉ khi thu được lợi ích kinh tế trong tương lai có liên quan đến việc gia tăng về tài sản, vốn chủ sở hữu hoặc là làm giảm bớt nợ phải trả thì doanh thu đó mới được ghi nhận (trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh).

Theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp, “Doanh thu là lợi ích kinh tế thu được làm tăng vốn chủ sở hữu của DN ngoại trừ phần đóng góp thêm của các cổ đông. Doanh thu được ghi nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh, khi chắc chắn thu được lợi ích kinh tế, được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản được quyền nhận, không phân biệt đã thu tiền hay sẽ thu được tiền”.

Điều kiện ghi nhận doanh thu được trình bày đầy đủ tại đoạn 10 và đoạn 16 chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14:

– Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn tất cả năm điều kiện sau:

+ DN đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua;

+ DN không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa;

+ Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

+ DN đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;

+ Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.

– Doanh thu của giao dịch về cung cấp dịch vụ được ghi nhận khi kết quả của giao dịch đó được xác định một cách đáng tin cậy. Trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ thì doanh thu được ghi nhận trong kỳ theo kết quả phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng cân đối kế toán của kỳ đó. Kết quả của giao dịch cung cấp dịch vụ được xác định khi thỏa mãn tất cả bốn điều kiện sau:

+ Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

+ Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó;

+ Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng Cân đối kế toán;

+ Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó.

Theo đó, doanh thu chỉ được ghi nhận khi thoả mãn đủ các điều kiện quy định trên, tối thiểu là khi xác định dịch vụ đã được hoàn thành, khi xác định hàng hóa đã được tiêu thụ, người bán đã chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát đối với hàng hoá, dịch vụ đó.

Nguyên tắc ghi nhận doanh thu còn được làm rõ trong quy định tại Điều 78 Thông tư số 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính:

  • Doanh thu và chi phí tạo ra các khoản doanh thu phải tuân theo nguyên tắc phù hợp. Nhưng đôi khi nguyên tắc phù hợp trong kế toán sẽ bị trái ngược với nguyên tắc thận trọng. Lúc này kế toán cần phải căn cứ vào bản chất để có thể xác định được các giao dịch một cách chính xác và hợp lý nhất.
  • Doanh thu lãi hoặc lỗ chỉ chưa xác định được. Khi doanh nghiệp còn có trách nghiệm thực hiện các nghĩa vụ trong tương lai. (Trừ các nghĩa vụ bảo hành cơ bản nhất). Và chắc chắn chưa thu được lợi ích kinh tế. Việc phân loại các khoản lỗ hoặc lãi không phụ thuộc vào việc dòng tiền đã phát sinh hay chưa.
  • Doanh thu không bao gồm các khoản thu hộ bên thứ 3: Các loại thế gián thu (thuế GTGT, thuế bảo vệ môi trường, thuế xuất khẩu, thuế tiệu thụ đặc biệt); Số tiền người bán hàng đại lý thu hộ cho bên chủ hàng chính; Các khoản thụ phu bên ngoài giá bán đơn vị không được hưởng hoặc các trường hợp khác.
  • Thời điểm để ghi nhận doanh thu kế toán và doanh thu thuế có thể khác nhau tuỳ vào trường hợp. Doanh thu thuế dùng để xác định số thuế phải nộp theo quy định. Còn doanh thu kế toán dùng để lập Báo cáo tài chính phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy định. Và tuỳ trường hợp không cần phải giống với số đã ghi trên hoá đơn bán hàng.
  • Khi luân chuyển các hàng hoá hay dịch vụ giữa các đơn vị hạch toán nội bộ. Tuỳ theo các địa điểm và đặc điểm hoạt động, doanh nghiệp có thể quyết định việc ghi nhận doanh thu tại các đơn vị. Nếu có sự gia tăng trong giá trị sản phẩm mà không cần phải theo các chứng từ đi kèm. Khi lập báo cáo tài chính, tất cả các khoản doanh thu giữa các đơn vị nội bộ phải được loại trừ.
  • Doanh thu được ghi nhận là khi doanh thu của kỳ được báo cáo. Những tài khoản nào không có số dư, đến cuối kỳ kế toàn bắt buộc phải chuyển doanh thu để có được kết quả kinh doanh chính xác nhất.

b. Nguyên tắc ghi nhận chi phí

Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán của DN, bao gồm những chi phí tạo ra doanh thu và những chi phí không tạo ra doanh thu nhưng lại làm giảm lợi ích kinh tế của DN trong kỳ kế toán. Chỉ khi những khoản chi phí này làm giảm bớt lợi ích kinh tế trong tương lai có liên quan đến việc giảm bớt tài sản, vốn chủ sở hữu hoặc tăng nợ phải trả thì những khoản chi phí này mới được ghi nhận. Chi phí được ghi nhận phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.

Theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp, “Chi phí là những khoản làm giảm lợi ích kinh tế, được ghi nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh hoặc khi có khả năng tương đối chắc chắn sẽ phát sinh trong tương lai không phân biệt đã chi tiền hay chưa”.

Để có được kết quả từ những hoạt động kinh doanh, đơn vị kế toán phải tiêu hao một nguồn lực kinh tế nhất định. Ví dụ, để có thể thu được thu nhập từ hoạt động bán hàng, đơn vị kế toán phải chi tiền trả lương cho nhân viên bán hàng, chi cho quảng cáo, giá trị hàng hóa trao cho khách hàng… giá trị của những khoản này được hiểu là khoản tiêu hao giá trị nguồn lực kinh tế.

Chi phí của đơn vị kế toán phải được xác định cho từng kỳ kế toán cụ thể. Biểu hiện của chi phí phát sinh là giá trị tài sản giảm xuống hoặc nợ phải trả tăng lên. Nếu thanh toán ngay dịch vụ quảng cáo được đơn vị kế toán khác cung cấp bằng tiền mặt thì tiền mặt của đơn vị kế toán giảm xuống, nếu chưa thanh toán thì sẽ phát sinh khoản chi phí chưa thanh toán, làm phát sinh khoản nợ phải trả. Do tài sản của đơn vị kế toán rất đa dạng và phong phú, sự giảm lợi ích kinh tế của chúng trong từng kỳ kế toán không giống nhau. Có những tài sản mà giá trị của nó giảm toàn bộ trong một kỳ kế toán, do đó toàn bộ giá trị của nó được tính vào chi phí của kỳ kế toán đó. Nguyên vật liệu, hàng hóa…là những ví dụ minh họa cho loại tài sản này. Mặt khác, có những tài sản mà giá trị của nó giảm dần dần qua nhiều kỳ kế toán khác nhau, do đó toàn bộ giá trị của nó được xác định, tính chuyền dần dần vào chi phí trong từng kỳ kế toán một cách phù hợp. Tài sản cố định là một ví dụ minh họa cho loại tài sản này.

Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 – Chuẩn mực chung, nguyên tắc phù hợp và nguyên tắc thận trọng trong đo lường kế toán yêu cầu:

  • Nguyên tắc phù hợp: Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó. Mỗi khoản doanh thu được tạo ra, đều xuất phát từ những khoản chi phí, vì vậy khi xác định doanh thu ở kỳ nào, thì cũng phải xác định những chi phí để tạo doanh thu đó ở kỳ ấy.
  • Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:

+ Phải lập các khoản dự phòng đúng nguyên tắc quy định;

+ Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí;

+ Chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.

Nguyên tắc kế toán các khoản chi phí được quy định tại điều 82 Thông tư số 200/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính:

  • Việc ghi nhận chi phí ngay cả khi chưa đến kỳ hạn thanh toán nhưng có khả năng chắc chắn sẽ phát sinh nhằm đảm bảo nguyên tắc thận trọng và bảo toàn vốn. Chi phí và khoản doanh thu do nó tạo ra phải được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nguyên tắc phù hợp có thể xung đột với nguyên tắc thận trọng trong kế toán, thì kế toán phải căn cứ vào bản chất và các Chuẩn mực kế toán để phản ánh giao dịch một cách trung thực, hợp lý.
  • Các khoản chi phí không được coi là chi phí tính thuế TNDN theo quy định của Luật thuế nhưng có đầy đủ hóa đơn chứng từ và đã hạch toán đúng theo Chế độ kế toán thì không được ghi giảm chi phí kế toán mà chỉ điều chỉnh trong quyết toán thuế TNDN để làm tăng số thuế TNDN phải nộp.

Luôn tồn tại sự khác biệt trong việc ghi chép sổ sách, chứng từ, BCTC kế toán và báo cáo thuế của DN giữa việc đo lường LNKT (theo nguyên tắc kế toán) và đo lường TNCT (theo quy định thuế) do xuất phát từ những mục tiêu không giống nhau.

1.2.3. Đo lường thu nhập chịu thuế

“TNCT là TNCT thu nhập doanh nghiệp của một kỳ, được xác định theo qui định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành và là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (hoặc thu hồi được)” (Bộ Tài chính, 2005, VAS 17, đoạn 03).

TNCT =Doanh thu tính thuếChi phí được trừ+Các khoản thu nhập khác

Thu nhập chịu thuế trong kỳ được xác định thông qua doanh thu tính thuế và chi phí được trừ, các khoản thu nhập khác. Đo lường TNCT áp dụng phần lớn các nguyên tắc đo lường trong kế toán (cơ sở dồn tích, nguyên tắc phù hợp, nguyên tắc thận trọng). Ngoài ra, đo lường TNCT còn có những nguyên tắc riêng nhấn mạnh tính hợp lý, nhấn mạnh tính khách quan (phải có hồ sơ, chứng từ,…), nhấn mạnh tính thận trọng thu (trường hợp dịch vụ chưa cung cấp/hoàn thành nhưng đã lập hóa đơn) và ràng buộc gắn với mục tiêu điều tiết khác của thuế (trách nhiệm xã hội, thanh toán không dùng tiền mặt). Điều kiện ràng buộc về mặt pháp lý và hợp lý của doanh thu tính thuế và chi phí được trừ nhằm ngăn ngừa gian lận thuế, tuy nhiên trong nhiều trường hợp không phản ánh đúng thực chất lợi nhuận kinh tế của DN. Chính điều này là nguyên nhân của chênh lệch giữa LNKT và TNCT.

a. Đo lường doanh thu tính thuế

Thời điểm xác định doanh thu để tính TNCT được xác định căn cứ theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 96/2015/TT-BTC cụ thể như sau: Đối với hoạt động bán hàng hóa là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng hóa cho người mua. Đối với hoạt động cung ứng dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ hoặc hoàn thành từng phần việc cung ứng dịch vụ cho người mua. Đối với hoạt động vận tải hàng không là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ vận chuyển cho người mua.

Doanh thu tính thuế vẫn dựa vào cơ sở dồn tích nhưng chịu sự chi phối mạnh mẽ của bằng chứng pháp lý (hóa đơn, chứng từ) để minh chứng cho doanh thu phát sinh.

Ví dụ trong những công ty xây dựng, sau khi công trình đã hoàn thành nghiệm thu thì kế toán đơn vị chỉ ghi nhận doanh thu trong khoảng từ 70% đến 90% giá trị hợp đồng vì 10% giá trị còn lại chỉ được nhận khi nào công trình quyết toán xong. Dựa theo nguyên tắc kế toán, kế toán công ty xây dựng xem đây là một khoản doanh thu chưa chắc thu được trong tương lai. Còn theo quy định của thuế, kế toán đơn vị phải hạch toán toàn bộ giá trị doanh thu công trình sau khi công trình được hoàn thành, đã nghiệm thu xong.

b. Đo lường chi phí được trừ thuế

Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 96/2015/TT-BTC, DN được trừ mọi khoản chi nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:

  • Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.
  • Khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp luật.
  • Khoản chi nếu có hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên (giá đã bao gồm thuế GTGT) khi thanh toán phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.

Một số khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế như: Chi khấu hao đối với tài sản cố định không sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Phần trích khấu hao vượt mức quy định hiện hành của Bộ Tài chính về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định; Chi tiền lương, tiền công và các khoản phải trả khác cho người lao động DN nhưng thực tế không chi trả hoặc không có chứng từ thanh toán theo quy định của pháp luật; Phần chi phí trả lãi tiền vay vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay;…

Theo chuẩn mực kế toán thì có một số trường hợp được hạch toán vào chi phí còn theo luật thuế TNDN thi không được đưa vào chi phí được trừ thuế, cụ thể như sau:

– Một là, chi phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): Đối với xe ô tô chở người từ 9 chỗ ngồi trở xuống thì phần trích khấu hao tương ứng với phần nguyên giá vượt trên 1,6 tỷ đồng không được hạch toán vào chi phí theo quy định của luật thuế TNDN . Tuy nhiên, nếu theo chuẩn mực kế toán thì xe ô tô này lại được trích khấu hao đưa vào chi phí dựa theo nguyên giá TSCĐ.

– Hai là, chi phí trả lãi tiền vay: Nếu đối tượng không phải là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế thì phần chi phí trả lãi tiền vay vốn sản xuất kinh doanh không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay. Nhưng trong thực tế các DN chỉ vay ở các tổ chức tín dụng, còn nếu vay ngoài hệ thống tổ chức tín dụng với mức lãi suất trên 150% lãi suất cơ bản thì lãi tiền vay này vẫn được hạch toán theo chuẩn mực kế toán.

– Ba là, các khoản chi phí phát sinh nhưng không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp để chứng minh: Theo quy định của luật thuế TNDN, những khoản chi phí thực tế phát sinh nhưng không có hóa đơn hợp pháp không được trừ khi xác định TNCT. Tuy nhiên, theo chuẩn mực kế toán nếu những chi phí này liên quan đến việc tạo ra doanh thu tính thuế trong năm thì vẫn được hạch toán vào chi phí.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\KE TOAN\NGUYEN THI THANH PHUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *