Cảm hứng trào lộng trong truyện ngắn Bích Ngân

Cảm hứng trào lộng trong truyện ngắn Bích Ngân

Cảm hứng trào lộng trong truyện ngắn Bích Ngân

1. Lý do chọn đề tài

Cười là một món ăn tinh thần, một nhu cầu giải trí không thể thiếu trong đời sống con người. Nói như Rabelais: “Cười là đặc tính của con người”. Nhưng cười cũng có nhiều loại, thể hiện nhiều cung bậc tình cảm khác nhau. Có tiếng cười lạc quan, có tiếng cười trào tiếu, mai mỉa, đả kích…Sự sâu sắc ẩn đằng sau tiếng cười chính là trào lộng, một cảm hứng độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật.

Có nhiều phương thức gây cười mà văn học là một trong những loại hình nghệ thuật làm tốt vai trò mang lại tiếng cười bằng những câu chuyện khôi hài. Viết chỉ để cười đơn thuần đã khó, dùng tiếng cười để phê phán, chế giễu những thói hư, tật xấu về con người và sự việc tiêu cực lại càng khó bội phần. Trong văn học hiện đại, theo tiến trình đổi mới, văn chương mang yếu tố trào lộng ngày càng phong phú về thể loại cũng như nghệ thuật biểu hiện. Từ sau 1986, một số tác giả có nhiều đóng góp trong việc mở rộng các phạm trù thẩm mỹ, trong đó có cái hài, phải kể đến Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Khắc Trường, Vũ Bão, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà…Nhìn trên mặt bằng chung ta dễ dàng nhận thấy đa số các các cây bút đều là nam giới. Cảm hứng trào lộng không đậm đặc trong tác phẩm của các nhà văn nữ. Vì thế, với trường hợp của Bích Ngân, một cây bút nữ trào lộng có thể xem là một hiện tượng đáng chú ý.

Trưởng thành trong thời kỳ đổi mới, Bích Ngân là một trong số ít những nhà văn nữ viết truyện hài hước và rất thành công trên lĩnh vực này. Có người từng ví von “Bích Ngân như một bông hoa giữa rừng gươm” [37], mà bông hoa ấy đã có sắc lại còn có hương, bởi những sáng tác của Bích Ngân không chỉ khơi sâu vào những mặt trái, thói đời vẫn đang tồn tại giữa xã hội xô bồ, mà cách thể hiện cũng hết sức khéo léo bằng ngòi bút hóm hỉnh nhưng sâu sắc.

Nói về những trang văn trào lộng của Bích Ngân, nhà thơ Lê Minh Quốc đánh giá: “…. Thì ra, ở thế kỷ này, đã có một nhà văn nữ “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”…. Khác với Kiều, Bích Ngân “băng lối” ở thể loại trào phúng cũng chỉ một ngả rẽ của một nhà văn trữ tình chuyên nghiệp. Nhưng xem ra, ở ngả rẽ này, chị cũng đã tạo cho mình một dấu ấn riêng.” …”.[50].

Bích Ngân có sức viết bền bỉ và đa dạng thể loại, tuy nhiên yếu tố trào lộng tập trung hơn cả vẫn là ở truyện ngắn. Một điểm nhấn đặc biệt trong truyện ngắn của Bích Ngân là tiếng cười trào lộng. Đây là mảnh đất chông gai cho nhiều cây bút, nhất là cây bút nữ, thế nhưng Bích Ngân đã rất thành công và để lại dấu ấn khá đậm nét qua nhiều tập truyện ngắn, tiêu biểu là Trăng mật ở đảoCái đầu siêu định vị.

Có lẽ, sinh ra và lớn lên ở quê hương Bác Ba Phi nên từ lâu chất hài hước đã ngấm sâu vào con người Bích Ngân, cộng với óc quan sát nhạy bén và đánh giá tinh tế về cuộc sống mà nhà văn đã cho ra đời rất nhiều truyện ngắn hay mang cảm hứng trào lộng. Kế thừa văn học truyền thống, Bích Ngân đã viết tiếp dòng trào lộng với một cảm quan, một phong cách rất riêng. Nghiên cứu “Cảm hứng trào lộng trong truyện ngắn Bích Ngân” luận văn nhằm khẳng định những đóng góp tích cực của nhà văn trong việc làm đa dạng hóa truyện ngắn đương đại, đồng thời xác định vai trò của nữ nhà văn đối với sự phát triển của nền văn học hiện đại Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyện ngắn Bích Ngân nhìn từ cảm hứng trào lộng.

Đối tượng khảo sát chủ yếu là hai tập truyện ngắn:

Trăng mật ở đảo, Nxb Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2009

Cái đầu siêu định vị, tập truyện hài hước, Nxb Trẻ, 2013.

Ngoài ra, luận văn còn tham khảo các tập truyện ngắn khác của Bích Ngân như Phía mặt trời, Ngôi nhà trên cây, Đêm biên giới, Say sóng, Những chiếc lá thu, Làn gió hôm qua….

3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là cảm hứng trào lộng trong truyện ngắn Bích Ngân từ phương diện nội dung như hiện thực đời sống xã hội, con người trong truyện ngắn của Bích Ngân dưới lăng kính của tiếng cười. Luận văn cũng tập trung đánh giá những nét đặc sắc trong nghệ thuật trào lộng Bích Ngân từ phương thức biểu hiện: kết cấu, nghệ thuật tạo tình huống, ngôn ngữ, giọng điệu.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp hệ thống- cấu trúc, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phân loại.

Cơ sở lí thuyết của luận văn là mỹ học về cái hài, một phạm trù thẩm mỹ cơ bản.

5. Đóng góp của luận văn

5.1. Luận văn cung cấp một cái nhìn khái quát nhưng khá toàn diện và khoa học về những đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn trào lộng của Bích Ngân, từ đó nhận diện phong cách và vị trí của nhà văn trong nền văn học đương đại Việt Nam.

5.2. Luận văn gợi mở một hướng nghiên cứu về văn chương trào lộng thời hiện đại, đồng thời ghi nhận đóng góp của nhà văn trào lộng trong quá trình làm phong phú nền văn học Việt Nam đương đại.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: TRUYỆN NGẮN BÍCH NGÂN TRONG DÒNG VĂN HỌC MANG CẢM HỨNG TRÀO LỘNG

Chương 2: HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN BÍCH NGÂN NHÌN TỪ CẢM HỨNG TRÀO LỘNG

Chương 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TRONG TRUYỆN NGẮN BÍCH NGÂN NHÌN TỪ CẢM HỨNG TRÀO LỘNG

CHƯƠNG 1

TRUYỆN NGẮN BÍCH NGÂN TRONG

DÒNG VĂN HỌC MANG CẢM HỨNG TRÀO LỘNG

1.1. GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM

1.1.1. Trào lộng

Trào lộng nằm trong cái hài, là nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán, mỉa mai, chế giễu con người và xã hội bằng cách tạo nên những tình huống gây cười thông qua việc xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu. Sắc thái trào lộng nằm trên ý nghĩa của sự bỡn cợt.

Cảm hứng trào lộng trong truyện ngắn Bích Ngân
Cảm hứng trào lộng trong truyện ngắn Bích Ngân

1.1.2. Những thuật ngữ tương đồng

Cái hài: Theo cuốn 150 thuật ngữ văn học, “Cái hài là một trong những phạm trù mỹ học căn bản, xác định giá trị thẩm mỹ thông qua việc xác định tính mâu thuẫn có ý nghĩa xã hội thực tại và thông qua thái độ phê phán đối với tính mâu thuẫn ấy xuất phát từ lý tưởng thẩm mỹ”.

Hài hước: Trong Từ điển tiếng Việt, hài hước được định nghĩa là một tính từ, chỉ sự vui đùa nhằm mục đích gây cười (thường nói về hình thức văn nghệ). Hài hước là cái cười xuất phát từ sự mâu thuẫn bề ngoài, nhằm chỉ ra những thói tật, khiếm khuyết của đối tượng nhưng chỉ mang tính chất nhẹ nhàng, thoải mái.

Trào phúng: Nhiều quan niệm thống nhất ở cách hiểu: trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội. Như vậy có thể thấy, trào phúng là phương pháp tích cực và hữu hiệu để con người có thể phản ánh một cách toàn diện nhất về những mặt tiêu cực đã và đang diễn ra quanh thế giới con người.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học khái niệm về văn học trào phúng là “một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật. Trong đó, các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng… những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời độc ác trong xã hội.

1.1.3. Cảm hứng trào lộng

Theo Từ điển thuật ngữ văn học cảm hứng (còn gọi là cảm hứng chủ đạo) là: “Trạng thái tình cảm mãnh liệt, đắm say xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm” và “cảm hứng chủ đạo thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm”, “đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định.

Trong sáng tác văn học, cảm hứng trào lộng là yếu tố thiết yếu để tạo nên một tác phẩm hài hước xuất sắc, có cảm hứng thì người nghệ sĩ mới thăng hoa cảm xúc và thỏa sức sáng tạo.

1.2. VÀI NÉT VỀ CẢM HỨNG TRÀO LỘNG TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI

1.2.1. Văn học giai đoạn 1900- 1945

Đây là giai đoạn tiếp nối với tính chất như một bước nhảy vượt bậc của văn học nước nhà. Sự chuyển biến mạnh mẽ của xã hội thời đại mới đã tác động trực tiếp đến quan niệm thẩm mĩ và thị hiếu của người đọc. Dưới sự tác động mạnh mẽ của tư tưởng phương Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp, văn chương trào phúng theo đó có sự cách tân không chỉ trong thể loại mà cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ban đầu phần lớn các sáng tác tồn tại dưới dạng thơ trào phúng với các tên tuổi lớn như Tú Mỡ, Đồ Phồn….

Những năm 1930 – 1945, văn chương trào phúng mở rộng với những truyện ngắn, ký sự, phóng sự. Giai đoạn này, do sự tác động mạnh mẽ của phong trào văn hóa mới đang phát triển rầm rộ trong cả nước, văn học phân chia thành hai bộ phận, nhiều khuynh hướng, chủ yếu là khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng hiện thực, góp phần quan trọng làm phong phú thêm đời sống văn học, có tác dụng tích cực trong việc phản ánh chân thực và đa dạng cuộc sống lúc bấy giờ. Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao được xem là ba phong cách trào phúng tiêu biểu nhất giai đoạn 1930-1945 vì đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của dòng văn học hiện thực Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX với tiếng cười như một thứ vũ khí đấu tranh sắc bén.

1.2.2. Văn học giai đoạn 1945 – 1975

Đây là giai đoạn tạm lắng, thậm chí thiếu vắng tiếng cười trào lộng bởi ảnh hưởng của điều kiện lịch sử nhất định. Trong bối cảnh toàn dân tộc đoàn kết đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, văn học vận động dưới sự lãnh đạo của Đảng với khuynh hướng chủ đạo là phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến, mang đậm cảm hứng sử thi, ngợi ca. Tiếng cười trào lộng xuất hiện có chăng chỉ là những góc cá nhân nhỏ chứ không mang tính phổ quát, và có lúc không thuận chiều trong tâm lí tiếp nhận của cộng đồng người đọc. Cái hài với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ chưa được thể hiện trong văn học giai đoạn này. Văn học trào lộng đến giai đoạn này chững lại, đó là một sự tạm hoãn cần thiết.

1.2.3. Văn học giai đoạn từ sau 1975

Giai đoạn đầu sau hòa bình, trong khoảng 10 năm, văn chương vẫn nặng cảm hứng sử thi theo lộ trình cũ nhưng về sau đã có sự vượt thoát theo một hướng đi mới. Trong sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật; chuyển đổi trong cái nhìn về hiện thực, con người, tiếng cười trào lộng phục sinh, mới hơn, đa dạng hơn, trở thành một đặc điểm nổi bật của văn xuôi nước ta những năm sau 1975, với các cây bút đặc sắc như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Vũ Bão, Tô Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Ma Văn Kháng, Hồ Anh Thái…Tiếng cười giai đoạn này mang đậm ý nghĩa tích cực và nhân văn. Nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu, đó là những tiếng cười “cảnh tỉnh nhân loại và báo hiệu trước những tai họa”.

Với hàng loạt tên tuổi và tác phẩm nổi tiếng, văn chương mang cảm hứng trào lộng giai đoạn sau 1975 đã góp phần quan trọng trong việc thay đổi diện mạo và làm nên sức hấp dẫn của nền văn học nước nhà nói chung.

1.3. ĐÓNG GÓP CỦA BÍCH NGÂN TRONG DÒNG VĂN HỌC MANG CẢM HỨNG TRÀO LỘNG

1.3.1. Hành trình sáng tạo

Có mặt trên văn đàn sau đổi mới 1986, Bích Ngân liên tục cho ra đời nhiều tác phẩm in sách và đăng trên các tạp chí uy tín.

Nếu cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết của Bích Ngân là cảm hứng bi kịch thì trong nhiều truyện ngắn của nhà văn, cảm hứng trào lộng là chủ đạo. Những lố bịch từ xã hội được Bích Ngân nắm bắt một cách nhanh nhạy và sắc sảo với vô vàn tình huống dở cười, dở khóc.

1.3.2. Quan điểm nghệ thuật

Là nhà văn chuyên viết truyện hài hước, Bích Ngân có quan điểm riêng. “Viết theo phong thái hài hước không dễ chút nào, nếu không nói là quá khó. Một gương mặt có một nụ cười duyên nhưng vẫn cứ nụ cười đó, đôi môi đó, ánh mắt đó vẫn gắn lên khuôn mặt quen thuộc đó thì dễ làm người ngắm nhìn đâm chán. Tôi sẽ không xăm xăm đi theo mà cũng không quay mặt rẽ lối. Tôi vẫn sẽ viết thể loại này khi nắm bắt được tình tiết hay tình huống có thể viết nên truyện hài hước hay vở kịch chứa nhiều trữ lượng hài hước”.

Những năm gần đây, Bích Ngân vẫn kiên trì viết, “đều đều cho ra lò” sản phẩm mới, thậm chí nhiều tác phẩm được dịch sang tiếng nước ngoài như Anh, Pháp. Điều đáng nói ở mỗi tác phẩm là một kiểu nhân vật khác nhau, không có sự trùng lặp, nhàm chán mà luôn luôn sáng tạo, đổi mới như quan niệm nghệ thuật chị đã đặt ra cho mình. Có thể khẳng định, Bích Ngân là nhà văn sống để sáng tạo và cống hiến, đặc biệt là với mảng truyện ngắn hài hước.

CHƯƠNG 2

HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN

NGẮN BÍCH NGÂN NHÌN TỪ CẢM HỨNG TRÀO LỘNG

2.1. BỨC BIẾM HỌA VỀ HIỆN THỰC CUỘC SỐNG

2.1.1. Sự lố lăng trong đời sống công sở

Xoay quanh đề tài thế sự, với cảm hứng trào lộng, mỗi truyện ngắn của Bích Ngân là một bức biếm họa về cuộc sống với những mặt tốt – xấu, trắng – đen lẫn lộn.

Đời sống công sở là đề tài không mới trong các sáng tác văn học những năm gần đây. Có khác chăng, mỗi tác giả khai thác ở một khía cạnh khác nhau. Với chủ đề này, riêng với các nhà văn nữ trên văn đàn Việt có không ít tên tuổi như Nguyễn Thị Thu Huệ, Phong Điệp….

Bích Ngân lại chọn cho mình một hướng đi mới, có phần khác biệt, đó là dùng tiếng cười như là phương tiện để phản ánh những trái chướng của cuộc đời. Đây là một hướng đi cũng đồng thời là điểm nhấn trong văn phong Bích Ngân, tạo cho tác giả một vị trí rất riêng, khó trùng lẫn với những tác giả nữ khác.

Từ góc nhìn trào lộng, Bích Ngân không chú trọng miêu tả đời sống công sở ở bình diện tốt đẹp dễ dàng nhìn thấy, mà đó là một bức tranh hỗn tạp của những kệch cỡm, lố lăng, là cái tiêu cực không phải ai cũng nhìn thấy được. Chỉ bằng vài câu chuyện ngắn ngủi chứa đựng những yếu tố gây cười, Bích Ngân đã gói gọn cái xã hội thu nhỏ ấy trên vài trang giấy khiến ta không khỏi phải ngẫm nghĩ mà chua xót.

2.1.2. Sự vênh lệch, đảo lộn trong gia đình, tình yêu

Đời sống gia đình, hôn nhân là chủ đề phổ biến trong truyện ngắn của một số tác giả hiện đại, tiêu biểu như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Tư,… Nhưng, phần lớn các tác giả tập trung làm nổi bật yếu tố bản năng, tính dục thái quá mà đầy đọa con người vào vũng bùn tội lỗi, biến tình yêu ra hận thù, gia đình hóa địa ngục, thì Bích Ngân với cái nhìn của phái nữ lại khắc họa những sinh hoạt đời thường của gia đình, những cặp đôi yêu nhau với nhiều tình huống đáng cười bằng vô số câu chuyện hài hước (Đàn ông nông nổi, Kế hoạch không hoàn hảo…). Không gay gắt, lên giọng, nhẹ nhàng, dí dỏm, nhiều câu chuyện gia đình, tình yêu được nhà văn vẽ lên sinh động với những sắc màu “ngược ngạo”.

Bằng tiếng cười lúc nhẹ nhàng, hài hước, lúc giễu nhại sâu cay…truyện ngắn Bích Ngân góp phần đánh động, cảnh tỉnh con người trước sự chao đảo của giá trị truyền thống.

2.1.3. Bức biếm họa về xã hội vì đồng tiền

Trong tác phẩm của Bích Ngân, đồng tiền tha hồ thể hiện “uy lực” của nó, những con người vì tiền đánh mất bản chất, trở thành kẻ xấu xa, con cái vì tiền bán đứng cha mẹ, đồng nghiệp vì tiền mà dẫm đạp nhau, anh em vì tiền mà trở nên thân thiết giả tạo… Đồng tiền như cơn bão càn quét, đi đến đâu nỗi buồn theo đó bởi đâu đâu cũng có những con người tham lam, ích kỷ. Cũng do đó mà quan hệ giữa người với người càng ngày càng xa, càng rệu rã bởi phải đặt trên bàn cân tính toán của quyền lợi (Có hiếu đột xuất, Tình trạng khẩn cấp…)

2.2. BỨC BIẾM HỌA VỀ CON NGƯỜI

2.2.1. Con người thực dụng

Trong nền kinh tế thị trường phát triển chóng mặt như hiện nay, giá trị vật chất đang ngày một “phình to”, thể hiện sức mạnh bao trùm của mình khi chi phối nhiều giá trị tinh thần và làm cho truyền thống đạo đức từ bao đời nay dần lung lay và chao đảo. Những quan niệm sống không lành mạnh đang trở nên quen thuộc và tràn lan trong xã hội, len lỏi trong mọi tầng lớp. Một trong số đó là lối sống thực dụng, đề cao vật chất, coi nhẹ tình người. Bích Ngân đã nhìn thấu được điều đó nên trong những câu chuyện của nhà văn, mẫu người thực dụng xuất hiện khá dày, biểu hiện dưới nhiều hoàn cảnh và góc độ khác nhau như tư tưởng “sính ngoại”, lòng tham vô đáy với vật chất, công danh (Ba trong một, Một cuộc chạm trán…).

2.2.2. Con người tha hóa

Từ lối sống thực dụng, nhiều nhân vật của Bích Ngân trượt dài trên con đường tha hóa. Con người tha hóa là một quá trình đồng thời cũng là thực trạng trong thực tế xã hội hiện nay. Rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, do giáo dục của gia đình và nhà trường, do pháp luật không nghiêm, do phim ảnh bạo lực, do bản tính ích kỷ của con người, do lối sống thích hưởng thụ, do mặt trái của kinh tế thị trường, do tham nhũng và tiêu cực xã hội (Bỗng dưng hạnh phúc, Có thể và không thể…).

Kiểu con người tha hóa trong truyện ngắn Bích Ngân đa dạng và cũng khá phổ biến trong xã hội hiện nay. Từ gia đình bước ra xã hội và từ xã hội tác động ngược lại gia đình, dưới ngòi bút Bích Ngân, tha hóa thật sự đã trở thành căn bệnh trầm kha khiến con người dần đánh mất đi những nét đẹp truyền thống của gia đình Việt, dân tộc Việt.

2.2.3. Con người nghịch dị

Những con người thực dụng, tha hóa biến chất thành nghịch dị qua cảm quan trào lộng của Bích Ngân.

Tinh tế quan sát và bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật nghịch dị bước vào trang văn của Bích Ngân được xoay chiều dưới một góc nhìn khác khác với tiếng cười trào lộng sâu sắc. Đó là bức biếm họa sâu cay về sự hoán vị chó – người, người – chó (Con vật trung thành). Đó còn là những kẻ với vẻ ngoài tốt đẹp nhưng bên trong thì méo mó, bệnh hoạn, là kẻ có chức có quyền mà suy đồi đạo đức, kiểu lúc nào cũng đạo mạo giảng bài đạo đức nhưng bản thân lại gây ra không biết bao nhiêu những chuyện nhơ bẩn…”(Tại bọn hắc cơ)….

CHƯƠNG 3

NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TRONG TRUYỆN NGẮN

BÍCH NGÂN TỪ CẢM HỨNG TRÀO LỘNG

3.1. KẾT CẤU

3.1.1. Kết cấu tuyến tính

Phần lớn truyện Bích Ngân viết theo kiểu kết cấu tuyến tính, theo đó, tác giả đan lồng vào trong các chi tiết, hình ảnh gây cười tạo nên câu chuyện hài hước mà đoạn đầu – cuối rất dễ phân biệt, theo dõi (Lời cầu hôn, Ngưng thở, Trái đất ngừng quay).

Như một sự việc có nguyên nhân và kết quả, câu chuyện Bích Ngân kể luôn có đầu, có cuối, trình tự như những nấc thang, người đọc theo đó có thể tưởng tượng được xu hướng câu chuyện sẽ tiến hay lùi. Nhưng, điểm khác biệt cũng là nét đặc sắc của Bích Ngân ở chỗ biết cách xử lý sự việc theo một lối đi riêng mình, gây nhiều bất ngờ, thú vị cho người đọc mà vẫn đảm bảo được quy trình tịnh tiến của tác phẩm. Đây là nét mới trong phương pháp cũ mà tác giả Bích Ngân sử dụng rất nhiều lần nhưng không hề tạo nên cảm giác nhàm chán, đơn điệu.

3.1.2. Kết cấu lắp ghép

Nhờ lắp ghép những mảng truyện một cách tự do Bích Ngân dễ dàng dẫn chuyện và triển khai vấn đề. Mỗi câu chuyện là một mảnh ghép hoàn hảo với nhiều chi tiết hài hước, gây cười, Bích Ngân đã khéo léo lắp thành câu chuyện logic và trọn vẹn Nhìn thấu lỗ kim, Thình lình giàu…).

Bản vẽ kiểu mẫu chung về những con người tham lam, thủ đoạn trên chính trường được Bích Ngân lắp ghép từ những mảnh nhỏ rời rạc mô tả tư tưởng, hành động của riêng cá nhân của một con người. Từ những mảnh ghép tưởng không đâu vào đâu, câu chuyện được tạo dựng, chân dung nhân vật dần định hình, ý nghĩa phê phán càng bộc lộ rõ.

3.2. NGHỆ THUẬT TẠO TÌNH HUỐNG

3.2.1. Tình huống bất ngờ

Việc sử dụng các yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên theo hướng đảo ngược tình huống là một trong những thủ pháp nghệ thuật độc đáo của truyện ngắn Bích Ngân, đặc biệt là cách tạo nên những kết thúc “không tưởng”, “không lường” trước được đối với người đọc.

Bích Ngân còn biết cách gây bất ngờ theo kiểu đánh đố nhân vật và người đọc, khiến người đọc vô tình bị cuốn vào từng trang sách của tác giả lúc nào không hay, để sống và chứng kiến những sự việc diễn ra như một người trong cuộc thực sự.

Ngoài ra, việc mở đầu và kết thúc bất ngờ được Bích Ngân lựa chọn như là kỹ thuật có tính “chiến lược” với ý đồ thẩm mỹ riêng. Thông qua những tình huống bất ngờ, Bích Ngân đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, mà mỗi tình huống đều khiến ta phải bật cười. Tình huống của từng nhân vật hầu hết nằm trong bối cảnh, không gian chật hẹp là gia đình hay văn phòng công sở nhưng vấn đề thể hiện được mang tính phổ quát, rộng lớn ngoài xã hội.

3.2.2. Tình huống ngược đời

Tình huống ngược đời phản ánh những nghịch lý, không thống nhất trong đời sống cũng như trong cá nhân một con người. Đáng nói là trong nhiều truyện của Bích Ngân, tình huống ngược đời nhưng thực ra lại không “ngược đời” vì những điều Bích Ngân phản ánh là rất “đời”, xét về bản chất đó là những câu chuyện được hình thành từ chính chất liệu là những việc có thật trong cuộc sống nhưng nhờ cách tổ chức sắp xếp, nhà văn đã tạo tình huống ngược đời để gây cười, qua tiếng cười là ý nghĩa châm biếm sâu xa.

Phóng đại tình huống là một đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong truyện ngắn Bích Ngân. Nhưng trái với kiểu thường thấy ở các tác giả khác là phóng đại trong ngôn từ, Bích Ngân lại tập trung vào tình huống, chi tiết truyện, bằng cách phóng đại mức độ, tính chất của sự việc được miêu tả và pha vào đó một chút hư cấu, tạo ra điểm nhấn gây ấn tượng, tăng tính biểu cảm cho tác phẩm.

3.3. NGÔN NGỮ

3.3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện

Sự kết hợp linh hoạt lời kể, lời tả và lời bình

Truyện ngắn Bích Ngân đa phần đều được trần thuật từ ngôi thứ nhất- nhân vật người kể chuyện xưng tôi. Về danh nghĩa, nhân vật tôi được chứng kiến, kể cả tham gia vào các sự kiện, hành động truyện, là nhân vật chính yếu và có mối quan hệ quen biết nhân vật khác trong truyện, do đó giọng kể luôn có sự tự do, thoải mái mà vẫn tạo nên tính xác thực nhất định.

Ngôn ngữ người kể chuyện cũng luôn biến hóa, linh hoạt, phù hợp với từng kiểu nhân vật khác nhau và luôn có sự đan xen, kết hợp linh hoạt giữa lời kể, tả và bình mang tiếng cười trào lộng.

Trong truyện ngắn Bích Ngân không có quá nhiều lời tả, song sự đan xen đúng chỗ của lời tả trong lời kể khiến ý nghĩa hài hước, châm biếm càng tăng.

Cách sử dụng ngôn ngữ hiện đại

Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn Bích Ngân mang tính chất chung của ngôn ngữ hiện đại, không có tính dài dòng mà gãy gọn, súc tích nhưng cũng gần gũi, chân thực. Nhờ đó, những mặt trái của cuộc sống đời thường được tái hiện một cách cụ thể, giúp độc giả có cái nhìn rõ ràng, chân xác hơn về hiện thực xã hội thời kỳ công nghệ mới.

3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật

Phần lớn ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Bích Ngân là độc thoại theo dòng ký ức, nhưng điểm nhấn gây chú ý đặc biệt lại từ những mẩu đối thoại ngắn súc tích của nhân vật. Qua đó, Bích Ngân đã dễ dàng “nêu” và “chốt” vấn đề, và quan trọng hơn cả là những mẩu đối thoại ấy luôn đậm chất hài. Từ đối thoại, tính cách hay vấn đề đều được bộc lộ một cách rõ nét.

Qua ngôn ngữ nhân vật, Bích Ngân giúp cho người đọc có được định hình ban đầu về tính cách và hành động của từng nhân vật. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Bích Ngân khá phong phú, mặc dầu giữa họ đôi khi có một số nét chung như tham tiền, hám gái,…. nhưng căn bản đều có bản sắc riêng thông qua cách phát ngôn của mỗi người. Điều đáng nói, ở từng đoạn thoại của từng kiểu nhân vật, Bích Ngân đều khéo léo đan cài vào những chi tiết gây cười. Có thể nói, đây là một trong những điểm nhấn ấn tượng tạo nên thành công trong truyện ngắn Bích Ngân.

3.4. GIỌNG ĐIỆU

3.4.1. Giọng điệu hài hước

Đây là giọng điệu chủ đạo, đóng vai trò quyết định mang lại tiếng cười cho người đọc.

Với sự đa dạng trong đề tài, có thể thấy Bích Ngân khá linh hoạt trong việc nắm bắt được những chi tiết hay để kết hợp với giọng điệu hài hước tạo nên những truyện cười giá trị về nghệ thuật lẫn ý nghĩa. Giọng điệu hài hước thông qua xây dựng các nhân vật với những nét buồn cười, mâu thuẫn, lố bịch, giảo hoạt…, Bích Ngân đã chỉ ra được nhiều vấn đề đáng báo động trong xã hội hiện đại một cách ấn tượng và dễ nhớ.

Giọng điệu hài hước trong văn Bích Ngân nhằm mục đích gây cười nhưng thường không sâu cay, chua chát mà thiên về tính nhẹ nhàng, qua đó giúp người đọc nhận diện đối tượng và cảm nhận những điều nhà văn muốn nói một cách gần gũi, thu hút.

3.4.2. Giọng điệu giễu nhại

Trong tác phẩm của mình, giọng điệu giễu nhại, bỡn cợt được Bích Ngân sử dụng thường xuyên và khai thác khá thành công. Không giới hạn ở đối tượng, Bích Ngân “vô tư” giễu nhại, bỡn cợt xã hội đương đại với biết bao sự lố lăng của con người.

Qua những câu chuyện khôi hài về những mặt trái của xã hội, bằng chất giọng giễu nhại, lối kể chuyện trào tiếu đặc trưng riêng mình, tác giả Bích Ngân đã khắc họa một cách sâu sắc những chân dung biếm họa trào lộng về thế giới vênh lệch, vạch trần những cái lố lăng trong xã hội hiện đại, sự đồi bại, xuống cấp của đạo đức…buộc con người phải giật mình nhìn lại mà cảnh tỉnh.

3.4.3. Giọng điệu triết lý

Bước chân vào đời sống hiện thực, Bích Ngân đã vỡ lẽ được nhiều điều, để từ những hoàn cảnh trái khoáy, những con người tha hóa biến chất, những lối sống thực dụng, những nhiễu nhương xã hội…. Bích Ngân lại đúc kết thành những triết lý đầy trăn trở, suy ngẫm. Bích Ngân không ngừng suy tư, chiêm nghiệm bằng chính thái độ sống nghiêm túc và trải nghiệm chân thực, sinh động của cá nhân mình về cuộc đời.

Những triết luận về đạo đức, nhân sinh của Bích Ngân chính là những suy tư, khắc khoải của nhà văn về sự đổi thay, tha hoá đến chóng mặt về nhân cách con người trong thời hiện đại. Nhà văn không lên tiếng trực tiếp mà nói lại thông qua nhân vật

Bích Ngân có khá nhiều câu nói chiêm nghiệm rất hay và thực tế về cuộc sống và số phận con người. Đôi khi giọng điệu suy tư lại ẩn mình trong giọng hài hước, cợt nhã, bởi sau những tiếng cười Bích Ngân lại khiến cho ta phải “ngậm ngùi” về những hiện thực vẫn đang tồn tại sờ sờ quanh ta.

Bên cạnh tiếng cười hoạt kê, trào lộng, giọng điệu triết lý đã giúp truyện ngắn Bích Ngân thêm phần sâu sắc, lắng đọng. Đó là những khoảng lặng trên một bản nhạc rộn rã, buộc độc giả phải dừng lại để cảm nhận bằng những trăn trở, suy tư rồi thấm thía về những mặt trái, chua chát của cuộc sống hiện đại vẫn đang tồn tại và tác động tiêu cực đến cuộc sống của mỗi người mà đôi khi vì vội vã, hoặc vô tâm ta không nhận ra, hoặc chỉ là sự cảm nhận hời hợt, qua đường.

KẾT LUẬN

Trong tiến trình phát triển, văn xuôi hiện đại Việt Nam đã có những đổi mới mạnh mẽ về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện. Đây là sự vận động cần thiết cũng là thách thức, cơ hội để người cầm bút trải nghiệm, thể hiện trách nhiệm, bản lĩnh của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Trong đó, việc khám phá bức tranh toàn cảnh về đời sống và con người thời đại mới trên nhiều bình diện khác nhau bằng truyện hài là lựa chọn phiêu lưu, một hướng đi khó nhưng đúng đắn, thể hiện tư duy nghệ thuật khá nhạy bén của nhiều nhà văn, mà với Bích Ngân, một cây bút nữ có thể xem là trường hợp tiêu biểu đáng ghi nhận.

Để không lặp lại người và không đi trên lối mòn chính mình, Bích Ngân đã không ngừng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo trên con đường đi tìm bản ngã và phát huy năng lực của mình, viết nên những tác phẩm hay, giàu chất nhân sinh. Đời văn của Bích Ngân là quá trình lao động, cống hiến không mệt mỏi, mà xét về sự ổn định trong số lượng cũng như chất lượng tác phẩm không phải tác giả nào cũng làm được.

Từ sự quan sát, thẩm thấu, tư duy tươi mới về tính đa chiều cuộc sống, đồng thời với cái nhìn nhạy bén trước nhu cầu tiếp nhận, thị hiếu người đọc, cùng với sự linh hoạt trong nghệ thuật như cách tân lối kể chuyện theo trật tự tuyến tính của nền văn học cũ, thay đổi điểm nhìn trần thuật, uyển chuyển trong ngôn ngữ nhân vật, khả năng phân mảnh câu chuyện thành những mảng khác nhau mà vẫn đảm bảo tính tổng thể hài hòa,…, đặc biệt với giọng điệu hài hước, trào tiếu nhưng cũng đậm chất triết lý, Bích Ngân đã rất tinh tế trong việc miêu tả, phản ánh những cắc cớ, trớ trêu, vô nghĩa, phức tạp… của cuộc đời, sự bê tha, nhếch nhác thảm hại của con người, những thế giới vô hồn, vô tâm ở cõi người, sự đổ vỡ, hỗn loạn của trật tự xã hội và gia đình, sự tha hóa đạo đức, đánh mất bản ngã, phương hướng của con người, sự bơ vơ, tan vỡ niềm tin của muôn vàn số phận, hay những cái nhìn hoang mang về cuộc đời….

Bích Ngân thực sự là một người kể chuyện hài hước thành công, đã góp phần xây dựng nên “thương hiệu” của thể loại truyện hài hước hiện đại đầy sức hút. Dưới cái nhìn sâu sắc, hài hước của nhà văn, cuộc sống, con người và xã hội được hiện lên chân thực nhất như nó vốn có. Những nhân vật được khắc họa rất đời thường, không mang một cái tên cụ thể, một công việc cụ thể nhưng chính là những bản sao, kiểu mẫu điển hình tiêu biểu, gần gũi đời thực với đầy đủ biểu hiện của sự tha hóa, ham muốn, dục vọng bản năng.

Bằng sự khắc họa sâu sắc về con người cá nhân phức tạp, đa dạng với nhiều cung bậc cảm xúc, những mặt trái, góc khuất đã và đang tồn tại trong xã hội mà ta khó nhìn thấy hoặc chưa được nhìn nhận một cách thấu đáo, khách quan nay được công nhiên mổ xẻ, đào xới, phơi bày, buộc con người phải có cái nhìn toàn diện, chân thực hơn về thực tế, từ đó cỗ vũ tinh thần phản kháng, đấu tranh mạnh mẽ với cái tiêu cực, cái xấu, hình thành thái độ sống tích cực hơn. Bởi, điều quan trọng hơn hết là đằng sau những tiếng cười trào lộng, châm biếm xã hội, mỗi người biết nhìn nhận lại chính mình, biết ngờ vực, phán xét những điều sai trái, kệch cỡm để thay đổi và tìm lại về với bản nguyên, đạo đức làm người.

Với những thành công và sự đóng góp tích cực trong dòng văn học hiện đại, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn hài hước, có thể nói Bích Ngân là làn gió mới, lạ trên văn đàn, sẵn sàng xông pha trên con đường đi tìm, khám phá xã hội và tái hiện cuộc sống, con người đương đại trên từng trang viết. Đồng thời, đặt cho mình một chỗ đứng với dấu ấn rất riêng trong số những nhà văn nữ tiêu biểu trong thời kỳ văn học hiện đại Việt Nam nói riêng và trên diễn đàn văn học nước nhà nói chung.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\LUAN VAN KHOA HỌC XH&NV\TRAN THI VAN HUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *