Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa từ thực tiễn

Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa từ thực tiễn

Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa từ thực tiễn huyện An Lão, tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, cải cách nền hành chính nhà nước đã được đề cập nhiều trong các văn kiện của Ðảng và Nhà nước ta. Theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 của Chính phủ, đã đề ra sáu nhiệm vụ trọng tâm, đó là: cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC, cải cách tài chính công, hiện đại hóa hành chính. Như vậy, CCTTHC được Chính phủ xác định là nội dung trọng tâm của CCHC.

Việc Chính phủ chọn CCTTHC là khâu đột phá của CCHC xuất phát từ sự nhận thức từ các lý do sau đây:

  • Thứ nhất, CCTTHC là một nội dung của CCHC, nhưng là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời là nội dung có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp, cũng như có nhiều yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế.

– Thứ hai, trong điều kiện nguồn lực còn nhiều khó khăn nên chưa thể cùng một lúc thực hiện được nhiều nội dung cải cách như: cải cách tài chính công, cải cách tiền lương, cải cách tổ chức bộ máy… thì việc lựa chọn khâu CCTTHC sẽ mang lại hiệu quả thiết thực nhất.

  • Thứ ba, thông qua CCTTHC, chúng ta có thể xác định căn bản các công việc của cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp; qua đó chúng ta có thể xây dựng bộ máy phù hợp và từ đó có thể lựa chọn đội ngũ CBCC hợp lý, đáp ứng được yêu cầu công việc.

– Thứ tư, CCTTHC là tiền đề để thực hiện các nội dung cải cách khác như: nâng cao chất lượng thể chế; nâng cao trình độ, thay đổi thói quen, cách làm, nếp nghĩ của CBCC; phân công, phân cấp thực hiện nhiệm vụ giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp của bộ máy hành chính; thực hiện chính phủ điện tử.

– Thứ năm, CCTTHC có tác động to lớn đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

– Thứ sáu, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam nói chung và các bộ, ngành, địa phương nói riêng trước cộng đồng trong nước và quốc tế, nâng cao vị trí xếp hạng của Việt Nam cũng như của các địa phương về tính minh bạch, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đây là những giá trị vô hình nhưng có tác động to lớn đến việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, cụ thể là có ảnh hưởng tích cực đến việc đầu tư trong và ngoài nước, xuất nhập khẩu, việc làm, an sinh xã hội,…

Nhận thức rõ tính cấp thiết cũng như tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề CCTTHC đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nói chung và huyện nói riêng, UBND huyện An Lão đã tiến hành triển khai và nghiêm túc thực hiện công tác CCTTHC theo cơ chế “một cửa, một cửa liên thông”. UBND huyện đã có những chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này và công tác CCTTHC bước đầu đã tạo những bước chuyển biến tích cực trong hoạt động của cơ quan nhà nước, được đông đảo nhân dân đồng thuận và ủng hộ. Tuy nhiên, hình hình giải quyết như vậy không những đã làm mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc của nhân dân, của nhà nước; mà còn là nguyên nhân chính làm tệ quan liêu, tham nhũng phát triển, gây mất lòng tin với nhân dân. Chính vì vậy, CCTTHC là yêu cầu chính đáng của nhân dân, doanh nghiệp, của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của tiến trình CCHCNN.

Rõ ràng, CCHC nói chung và CCTTHC nói riêng là vấn đề đang cần được nghiên cứu, tổng kết và rút kinh nghiệm thật sự nghiêm túc. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề, tôi chọn đề tài “Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa từ thực tiễn huyện An Lão, tỉnh Bình Định” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

  1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Khẳng định sự cần thiết CCTTHC theo cơ chế “một cửa” tại UBND huyện An Lão.

– Đánh giá kết quả, hạn chế, ý nghĩa và kinh nghiệm của CCTTHC theo cơ chế “một cửa” tại UBND huyện An Lão thời gian qua, đồng thời nêu một số định hướng, giải pháp cho vấn đề này trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về CCTTHC theo cơ chế “một cửa” nói chung và trên địa bàn UBND huyện An Lão nói riêng.

– Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng công tác CCTTHC theo cơ chế “một cửa” tại UBND huyện An Lão.

– Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình CCTTHC theo cơ chế “một cửa” tại UBND huyện An Lão trong thời gian tới.

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Cơ sở lý luận và thực tiễn của CCHC và CCTTHC theo cơ chế “một cửa”. Từ đó phân tích một số yếu tố tác động tới thực tiễn CCHC, CCTTHC và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả CCTTHC theo cơ chế 1 cửa tại UBND huyện An Lão.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Cải cách hành chính nhà nước bao gồm nhiều nội dung, trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp cũng như sự giới hạn của năng lực, tôi chỉ nghiên cứu CCTTHC theo cơ chế “một cửa” tại UBND huyện An Lão trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Thực hiện đề tài, tôi sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử – là những phương pháp luận cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh….nhằm làm rõ nội dung, đảm bảo tính chặt chẽ, logic, cân đối giữa các luận điểm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Bên cạnh phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể: phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh và tổng hợp một cách logic… Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng kết hợp và bổ sung cho nhau một cách linh hoạt để phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn.

  1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Luận văn góp phần tổng kết những lý thuyết về CCHC cũng như CCTTHC nói chung. Đặc biệt, luận văn thực hiện khảo sát và phân tích một cách khách quan về thực trạng việc thực hiện CCTTHC theo cơ chế một cửa từ thực tiễn huyện An Lão, tỉnh Bình Định hiện nay. Đề tài phân tích và đưa ra những đánh giá về tính hiệu quả của quá trình thực hiện CCTTHC ở UBND huyện An Lão; từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả CCHC nói chung và CCTTHC nói riêng ở địa phương, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, phục vụ nhân dân.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Thứ nhất, cung cấp một hệ thống tư liệu tương đối đầy đủ cho chuyên đề CCTTHC;

– Thứ hai, cung cấp một cái nhìn tổng quan về quá trình CCTTHC theo cơ chế “một cửa” tại UBND huyện An Lão: quá trình thực hiện, thành tựu, hạn chế, ý nghĩa và định hướng cho thời gian tới;

– Thứ ba, làm tư liệu tham khảo hữu ích cho các ban, ngành, đoàn thể của huyện hoạch định các chính sách, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác CCTTHC trong thời gian tới. Đồng thời, khóa luận cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề CCTTHC ở các địa bàn tương tự như UBND huyện An Lão.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính và cơ chế “một cửa”.

Chương 2. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại Ủy ban nhân dân huyện An Lão.

Chương 3. Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại Ủy ban nhân dân huyện An Lão.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH, CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ CƠ CHẾ “MỘT CỬA”

1.1. Những vấn đề cơ bản về cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính

1.1.1. Khái niệm, nội dung cải cách hành chính

1.1.1.1. Khái niệm cải cách hành chính

CCHC là quá trình làm cho bộ máy hành chính phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đổi mới hệ thống chính trị bao gồm một hệ thống tổ chức và định chế có chức năng thực thi quyền hành pháp tức là quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước, bảo đảm tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ chính trị của Nhà nước.

CCHC là quá trình lâu dài và liên tục nhằm nâng cao hiệu suất hành chính, cải tiến chế độ và phương thức hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong phạm vi quản lý của hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành pháp cũng như tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước.

Theo quan niệm của Liên hợp quốc thì CCHC là những nỗ lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi cơ bản trong hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc thay đổi các phương thức để cải tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành hành chính nhà nước: thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính công và tiến trình quản lý.

Ở Việt Nam, thuật ngữ CCHC bắt đầu xuất hiện từ năm 1995, chính thức trong văn kiện Hội nghị Trung ương 8, khóa VII: CCHC là trọng tâm của công cuộc tiếp tục xây dựng và kiện toàn Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, bao gồm những cố gắng có chủ định nhằm hoàn thiện thể chế của nền hành chính, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp, đội ngũ công chức hành chính để nâng cao hiệu lực, năng lực và hiệu quả hoạt động của hành chính công phục vụ nhân dân.

CCHC không có mục đích tự thân mà là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực, từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả mọi công việc của Nhà nước, được dân tin, dân yêu.

Từ các quan niệm trên, có thể hiểu: CCHCNN là một quá trình thay đổi, hoàn thiện các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhà nước nhằm làm cho hoạt động của hành chính nhà nước hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn.

1.1.1.2. Nội dung cải cách hành chính

Nội dung cơ bản của CCHC theo Chương trình tổng thể CCHCNN giai đoạn 2011 – 2020:

Thứ nhất: Cải cách thể chế hành chính nhà nước.

Cải cách thể chế hành chính nhà nước nhằm tạo ra hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động hành chính nhà nước đầy đủ, chính xác, rõ ràng.

Thứ hai: Cải cách thủ tục hành chính

CCTTHC là điều kiện cần thiết để tăng cường, củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, tăng cường sự tham gia quản lý nhà nước của nhân dân. CCTTHC được coi là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính nhà nước, nghĩa là để tạo sự chuyển biến của toàn bộ hệ thống nền hành chính quốc gia. Trong đó, cải cách thủ tục hành chính sẽ thúc đẩy toàn bộ hệ thống hành chính phát triển.

Thứ ba: Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.

Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là quá trình thay đổi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và phương thức làm việc của tổ chức bộ máy hành chính nhà nước để hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội của nền hành chính.

Thứ tư: Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC.

Đội ngũ CBCC có vị trí rường cột trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính, có vai trò quyết định đến sự phát triển của đất nước, là người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội; tham mưu, hoạch định, tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra việc thực thi các đường lối, chính sách. Vì vậy, đây là một trong những nội dung được chú trọng nhất trong tiến trình CCHC ở nước ta.

Thứ năm: Cải cách tài chính công.

Cải cách tài chính công trong tổng thể CCHC có ý nghĩa quan trọng. Thực tiễn cho thấy các giải pháp ở các lĩnh vực khác chi có thể được thực hiện tốt nếu gắn liền với một cơ chế tài chính minh bạch và hiệu quả.

Thứ sáu: Hiện đại hóa hành chính.

Trong bối cảnh cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ hiện nay, nếu không coi trọng việc hiện đại hóa hành chính thì sẽ khiến cho nền hành chính bị tụt hậu, khó thực hiện được mục tiêu của cải cách hành chính mà Chính phủ đề ra. Việc ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào hoạt động hành chính nhà nước không chỉ làm tăng năng suất lao động mà còn góp phần quan trọng làm thay đổi phương thức làm việc của cán bộ, công chức, hướng tới một môi trường hành chính hiện đại. Do đó, hiện đại hóa hành chính là một nội dung cần được coi trọng.

1.1.2. Khái niệm, nội dung cải cách thủ tục hành chính

1.1.2.1. Khái niệm thủ tục hành chính, cải cách thủ tục hành chính

Trong hoạt động quản lý nói chung và trong hoạt động của cơ quan nhà nước nói riêng, để bất cứ công việc nào cũng đều cần có những thủ tục phù hợp. Thủ tục có nghĩa là phương thức, cách thức giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất. Cũng có thể hiểu thủ tục là những quy tắc, chế độ, phép tắc hay quy định để giải quyết công việc.

Hoạt động quản lý nhà nước cần phải tuân theo những quy tắc pháp lý, quy định và trình tự, cách thức khi sử dụng thẩm quyền của từng cơ quan để giải quyết công việc. TTHC là một loại thủ tục gắn với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Có nhiều quan niệm khác nhau về TTHC nhưng có thể hiểu một cách chung nhất: TTHC là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân.

CCTTHC là cải cách các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền; cải cách các quy định về các loại TTHC; cải cách việc thực hiện các TTHC.

1.1.2.2. Nội dung cải cách thủ tục hành chính

Mục tiêu và yêu cầu của CCTTHC là phải đạt được sự chuyển biến căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc của công dân, tổ chức.

Những nội dung chủ yếu của CCTTHC gồm:

– Cắt giảm và nâng cao chất lượng TTHC trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là TTHC liên quan tới người dân, doanh nghiệp;

– Trong giai đoạn 2011 – 2015, thực hiện cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững. Một số lĩnh vực trọng tâm cần tập trung là: Đầu tư; đất đai; xây dựng; sở hữu nhà ở; thuế; hải quan; xuất khẩu, nhập khẩu; y tế; giáo dục; lao động; bảo hiểm; khoa học, công nghệ và một số lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo yêu cầu cải cách trong từng giai đoạn;

– CCTTHC giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;

– Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các TTHC theo quy định của pháp luật;

– Công khai, minh bạch tất cả các TTHC bằng các hình thức thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết TTHC tại cơ quan hành chính nhà nước; duy trì và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC;

– Đặt yêu cầu CCTTHC ngay trong quá trình xây dựng thể chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về TTHC; giảm mạnh các TTHC hiện hành; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện;

– Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát việc thực hiện TTHC của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.

1.1.3. Sự cần thiết đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính

Trước hết, xuất phát từ vai trò của TTHC đối với Nhà nước và Nhân dân. Với vai trò là một bộ phận quan trọng của thể chế hành chính, là một trong những mục tiêu mà CCHCNN đặt ra trong chương trình cải cách tổng thể hành chính nhà nước. TTHC là công cụ để cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm. Tùy vào sự phát triển kinh tế xã hội của từng thời kỳ mà TTHC phải thích ứng kịp thời phục vụ hoạt động quản lý. Điều này có ý nghĩa đối với lý luận CCTTHC trong thời kỳ hội nhập. Cụ thể là:

– TTHC càng có tính cơ bản thì ý nghĩa càng lớn vì các thủ tục cơ bản thường tác động đến giai đoạn cuối cùng của quyết định hành chính, đến hiệu quả của việc thực hiện chúng. Khi thủ tục bị vi phạm thì có nghĩa hiện tượng vi phạm pháp luật xuất hiện và gây hậu quả nhất định. Ví dụ: Tuyển dụng CBCC vào làm việc nhưng vi phạm thủ tục tuyển dụng dẫn đến người có năng lực trình độ lại không được tuyển. Điều đó làm ảnh hưởng đến chất lượng của đội ngũ CBCC, gây khó khăn trong giải quyết công việc, làm giảm hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước.

– Trong giai đoạn hiện nay, một số ngành chức năng quy định thủ tục theo mẫu in sẵn trong phạm vi ngành và lưu hành trên toàn quốc, do đó một công vụ ở bất cứ địa phương nào cũng đòi hỏi các cơ quan hành chính áp dụng các biện pháp thích hợp và thống nhất.

– Nó liên quan đến quyền lợi của công dân, do đó khi xây dựng và vận dụng tốt vào đời sống nó sẽ có ý nghĩa thiết thực, làm giảm sự phiền hà, củng cố quan hệ giữa nhà nước và công dân. Công việc có thể được giải quyết nhanh chóng, chính xác theo đúng yêu cầu của cơ quan nhà nước, góp phần chống tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu nhân dân. Ngược lại, ở nơi nào thực hiện giảm nhẹ các TTHC, tập trung vào “một cửa” để giải quyết yêu cầu của người dân thì ở đó hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên rõ rệt, lòng tin của nhân dân vào cơ quan nhà nước được khôi phục, củng cố và nâng cao.

– TTHC trên một phương diện nhất định là biểu hiện trình độ văn hóa của tổ chức. Vì vậy, CCTTHC sẽ không đơn thuần chỉ liên quan đến pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, mà còn liên quan đến sự phát triển chung của đất nước về các mặt chính trị, văn hóa giáo dục và đến sự mở rộng giữa nước ta với các nước trong thời kỳ hội nhập. CCTTHC thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân và là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Việt Nam, phù hợp với xu hướng thời đại và thay đổi vai trò của quản lý nhà nước.

– CCTTHC trong thời gian qua vẫn mang nặng giải pháp tình thế, thiếu tính tổng thể. Tuy nhiên hiện nay bài toán về mức độ và phương pháp can thiệp phù hợp của Nhà nước trong từng lĩnh vực quản lý cụ thể hầu như chưa được giải đáp một cách thỏa đáng như lĩnh vực: đầu tư trực tiếp nước ngoài, đất đai… Tầm tư duy, tổng kết thực tiễn xây dựng chính sách vĩ mô vẫn nằm trong tình trạng còn nhiều bất cập, nặng nề về đề phòng, trói buộc, thiếu sự chủ động, thông thoáng chung chưa ổn định. Các biện pháp CCTTHC thì vẫn mang nặng tính thử nghiệm, phương châm cải cách là vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa học hỏi. Điều này làm cho quá trình cải cách gặp nhiều lúng túng, bị động trước những thay đổi của tình hình trong nước và quốc tế.

– Chất lượng dịch vụ hành chính công mà Nhà nước cải cách cho nhân dân còn thấp, chưa đáp ứng được sự mong mỏi của nhân dân. Hiện tượng tham nhũng, hối lộ, quan liêu và lãng phí ngày càng trở thành quốc nạn. Người dân đến cơ quan nhà nước thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhưng lại bị đối xử như người đi xin, đi nhờ vả.

– CCTTHC vẫn chưa tương xứng trong tất cả các lĩnh vực. Hiện tại không phải mọi lĩnh vực đều đạt được những thành tựu trong CCTTHC mà còn nhiều lĩnh vực khác như: khiếu nại tố cáo, hộ khẩu, hộ tịch, đầu tư xây dựng… mức độ cải cách vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Những yếu kém trong phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn của CBCC trở thành lực cản làm cho TTHC khó đi vào đời sống.

Xuất phát từ những lý do trên đây, Đảng và Nhà nước ta luôn coi CCHC là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng hàng đầu cần đẩy mạnh thực hiện. Đồng thời, tiếp tục cần đẩy mạnh hơn nữa công tác CCTTHC trong thời kỳ hội nhập để tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, nâng cao tính cạnh tranh về môi trường đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Qua đó, giúp Việt Nam có thể hội nhập bền vững và nắm bắt những cơ hội tốt để phát triển. Như vậy, tiếp tục CCTTHC trên tất cả các lĩnh vực là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước cũng như tất cả các ngành, các cấp. CCTTHC giữ một vị trí quan trọng trong công tác CCHC và có một ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nó được coi là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính quốc gia, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” là một trong những giải pháp để CCHC mà Nhà nước ta hướng tới, từ khi ra đời lần đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Nghị quyết số 366/HĐBT ngày 7-11-1991 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành chế độ thẩm định các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp lý như Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 4-9-2003 ban hành thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương. Cho đến nay, nó đã được nhân rộng khắp các lĩnh vực ở mọi cấp, mọi ngành vì những ưu điểm của cơ chế này mang lại.

1.2. Lý luận cơ bản về cơ chế “một cửa” và căn cứ pháp lý của việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”

1.2.1. Khái niệm cơ chế “một cửa”

Cơ chế “một cửa” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước từ tiếp nhận, yêu cầu hồ sơ đến trả lại kết quả thông qua một đầu mối là “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” tại cơ quan hành chính nhà nước.

Khi cơ chế “một cửa” ra đời, thay vì việc công dân tổ chức khi muốn giải quyết hồ sơ hành chính thì phải tự mình đi liên hệ với nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau của cơ quan hành chính nhà nước thì nay công dân, tổ chức chỉ cần tới Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực chuyên môn đó nộp hồ sơ và nhận phiếu hẹn chờ ngày nhận kết quả hồ sơ, còn các công việc liên hệ làm việc với các phòng ban chuyên môn thì thuộc trách nhiệm của cơ quan hành chính tiếp nhận hồ sơ đó.

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”

Các nguyên tắc cụ thể gồm:

Một là, Lấy sự hài lòng của tổ chức, cá nhân là thước đo chất lượng và hiệu quả phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức và cơ quan có thẩm quyền.

Hai là, Việc giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông được quản lý tập trung, thông nhất.

Ba là, Giải quyết thủ tục hành chính kịp thời, nhanh chóng, thuận tiện, đúng pháp luật, công bằng, bình đẳng, khách quan, công khai, minh bạch và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền.

Bốn là, Quá trình giải quyết thủ tục hành chính được đôn đốc, kiểm tra, theo dõi, giám sát, đánh giá bằng các phương thức khác nhau trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và có sự tham gia của tổ chức, cá nhân.

Năm là, Không làm phát sinh chi phí thực hiện thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân ngoài quy định của pháp luật.

Sáu là, Cán bộ, công chức, viên chức cơ quan có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm giải trình về thực thi công vụ trong giải quyết thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật.

Bảy là, Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế có liên quan đến thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính nhà Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.

1.2.3. Cơ quan áp dụng cơ chế “một cửa”

– Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, các cơ quan khác theo quy định liên thông có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết thủ tục hành chính và tham gia vào quá trình giải quyết thủ tục hành chính.

– Cán bộ, công chức, viên chức trong giải quyết thủ tục hành chính.

– Tổ chức, cá nhân có yêu cầu thực hiện thủ tục hành chính.

– Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn.

– Đơn vị cung cấp dịch vụ bưu chính công ích.

– Các cơ quan hành chính của tỉnh đóng trên địa bàn huyện (sau đây gọi chung là các cơ quan ngành dọc).

1.2.4. Quy trình giải quyết hồ sơ hành chính theo cơ chế “một cửa”

Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ

a) Đối với hồ sơ được nhận theo cách thức được quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 16 Quy chế này, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận hồ sơ tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện phải xem xét, kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của hồ sơ; scan và lưu trữ hồ sơ điện tử, cập nhật vào cơ sở dữ liệu của Hệ thống thông tin một cửa điện tử của địa phương.

– Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, chưa chính xác theo quy định, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận hồ sơ phải hướng dẫn đại diện tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ theo quy định tại Khoản 3 Điều 15 Quy chế này và nêu rõ lý do theo mẫu Phiếu yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ sơ;

– Trường hợp từ chối nhận hồ sơ, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận hồ sơ phải nêu rõ lý do theo mẫu Phiếu từ chối giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính;

– Trường hợp hồ sơ đầy đủ, chính xác theo quy định, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận hồ sơ và lập Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn ngày trả kết qủa.

b) Đối với hồ sơ được nộp trực tuyến thông qua Cổng Dịch vụ công trực tuyến, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận hồ sơ tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện phải xem xét, kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của hồ sơ.

– Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, chính xác hoặc không thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy định, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận phải có thông báo, nêu rõ nội dung, lý do và hướng dẫn cụ thể, đầy đủ một lần để tổ chức, cá nhân bổ sung đây đủ, chính xác hoặc gửi đúng đến cơ quan có thẩm quyền.

– Việc thông báo được thực hiện thông qua chức năng gửi thư điện tử, gửi tin nhắn tới người dân của Cổng Dịch vụ công;

– Nếu hồ sơ của tổ chức, cá nhân đầy đủ, hợp lệ thì cán bộ, công chức, viên chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện tiếp nhận và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy trình quy định tại Điều 18 Quy chế này.

c) Mỗi hồ sơ thủ tục hành chính sau khi được tiếp nhận sẽ được cấp một Mã số hồ sơ được ghi trong Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả. Tổ chức, cá nhân sử dụng Mã số hồ sơ để tra cứu tình trạng giải quyết thủ tục hành chính tại Cổng Dịch vụ công của tỉnh.

d) Trường hợp thủ tục hành chính có quy định phải trả kết qủa giải quyết ngay sau khi tiêp nhận. Nếu hồ sơ đầy đủ, chính xác, đủ điều kiện tiếp nhận, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận không phải lập Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn ngày trả kết quả, nhưng phải cập nhật tình hình, kêt qủa giải quyết vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử; trường hợp người nộp hồ sơ yêu cầu phải có Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kêt quả thì cán bộ, công chức, viên chức cung câp cho người nộp hồ sơ.

e) Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện được cơ quan có thẩm quyền phân công, ủy quyền giải quyết thì thực hiện theo quy định tại Điều 19 Quy chế này và cập nhật tình hình, kết quả giải quyết vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử.

Bước 2: Chuyển hồ sơ

a) Chuyển dữ liệu hồ sơ điện tử được tiếp nhận trực tuyến của tổ chức, cá nhân đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết thông qua kết nối giữa cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử tỉnh.

b) Chuyển ngay hồ sơ tiếp nhận trực tiếp trong ngày làm việc hoặc chuyển vào đầu giờ ngày làm việc tiếp theo đối với trường hợp tiếp nhận sau 15 giờ hàng ngày.

c) Trường hợp tiếp nhận hồ sơ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan có thẩm quyền khác, cán bộ, công chức, viên chức tiếp nhận chuyển hồ sơ giấy và hồ sơ điện tử cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện của cơ quan có thẩm quyền đó trong ngày làm việc hoặc đầu giờ ngày làm việc tiếp theo đối với trường hợp tiếp nhận sau 15 giờ hàng ngày đê xử lý theo quv định.

Việc chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết nêu tại Khoản 2, Khoản 3 Điều này được thực hiện thông qua dịch vụ bưu chính công ích hoặc các loại hình dịch vụ khác bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, an toàn hồ sơ tài liệu.

Bước 3: Giải quyết hồ sơ

a) Sau khi nhận hồ sơ thủ tục hành chính, người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phân công cán bộ, công chức, viên chức xử lý xem xét, thẩm định hồ sơ, trình phê duyệt kết quả giải quyết thủ tục hành chính.

b) Trường hợp thủ tục hành chính không quy định phải thẩm tra, xác minh hồ sơ, lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức, có liên quan, cán bộ, công chức, viên chức được giao xử lý hồ sơ thẩm định, trình cấp có thẩm quyền quyết định; cập nhật thông tin vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử; trả kết qủa giải quyết thủ tục hành chính.

c) Trường hợp có quy định phải thẩm tra, xác minh hồ sơ

– Cán bộ, công chức, viên chức được giao xử lý hồ sơ thẩm tra, xác minh, trình cấp có thẩm quyền quyết định và cập nhật thông tin vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử;

– Quá trình thẩm tra, xác minh phải được lập thành hồ sơ, lưu thông tin vào cơ sở dữ liệu của Hệ thống thông tin một cửa điện tử và lưu tại cơ quan giải quyết.

– Trường hợp cần có mặt tổ chức, cá nhân để thẩm tra, xác minh hồ sơ thì phải cập nhật thông tin về thời gian, địa điểm, thành phần, nội dung xác minh vào cơ sở dữ liệu của Hệ thống thông tin một cửa điện tử hoặc thông báo các nội dung trên cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết qủa huyện trong trường hợp chưa có Hệ thống thông tin một cửa điện tử để theo dõi.

Đối với hồ sơ qua thẩm tra, thẩm định chưa đủ điều kiện giải quyết, cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính trả lại hồ sơ kèm theo thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do, nội dung cần bổ sung theo mẫu Phiếu yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ sơ để gửi cho tổ chức, cá nhân thông qua Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện. Thời gian thông báo trả lại hồ sơ không quá 03 ngày làm việc kê từ ngày tiếp nhận hồ sơ, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định cụ thể về thời gian. Thời hạn giải quyết được tính lại từ đầu sau khi nhận đủ hồ sơ.

d) Trường hợp hồ sơ phải lấy ý kiến của các cơ quan, đơn vị có liên quan

– Cơ quan, đơn vị chủ trì giải quyết hồ sơ hoặc Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện trong trường hợp được phân công hoặc ủy quyền gửi thông báo điện tử hoặc văn bản phối hợp xử lý đến các đơn vị có liên quan, trong đó nêu cụ thể nội dung lấy ý kiến, thời hạn lấy ý kiến.

Quá trình lấy ý kiến của các cơ quan, đơn vị có liên quan phải được cập nhật thường xuyên, đầy đủ về nội dung, thời hạn, cơ quan lấy ý kiến trên Hệ thống thông tin một cửa điện tử;

– Cơ quan, đơn vị được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời các nội dung được lây ý kiến theo thời hạn lấy ý kiến và cập nhật nội dung, kết qủa tham gia ý kiến vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử hoặc Phiếu kiểm soát quá trình giải quyết hồ sơ. Trường hợp quá thời hạn lấy ý kiến mà cơ quan, đơn vị được lấy ý kiến chưa có văn bản giấy hoặc văn bản điện tử trả lời thì cơ quan, đơn vị chủ trì thông báo cho người đứng đầu Bộ phận tiếp nhận và trả kết qủa huyện đã chuyển hồ sơ về việc chậm trễ để phối hợp xử lý.

e) Trường hợp hồ sơ thực hiện theo quy trình liên thông giữa các cơ quan có thẩm quyền cùng cấp.

– Trường hợp tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ giấy, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện xác định thứ tự các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, chuyển hồ sơ giấy đến cơ quan có thẩm quyền chủ trì giải quyết. Cơ quan chủ trì có trách nhiệm xử lý, chuyển hồ sơ và kết quả giải quyết thuộc thẩm quyền (nếu có) đến cơ quan có thẩm quyền tiếp theo, trong đó Phiếu chuyển xử lý phải nêu rõ nội dung công việc, thời hạn giải quyết của từng cơ quan; cập nhật thông tin xử lý, thông tin chuyển xử lý vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử.

Các cơ quan có thẩm quyền giải quyết hồ sơ, chuyển kết quả và hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền tiếp theo theo thứ tự Bộ phận tiếp nhận và trả kết qủa huyện xác định; cơ quan có thẩm quyền cuối cùng giải quyết xong thì chuyển kết qủa và hồ sơ kèm theo cho cơ quan có thẩm quyền chủ trì; cơ quan chu trì chuyển kết quả giải quyết thủ tục hành chính cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết qủa huyện để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân; cập nhật tình hình, kết quả xử lý hồ sơ liên thông vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử.

– Trường hợp tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ điện tử, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện chuyển hồ sơ điện tử đến tất cả các cơ quan tham gia giải quyết, trong đó ghi rõ cơ quan chủ trì, trách nhiệm, nội dung công việc, thời hạn trả kết quả của từng cơ quan tham gia giải quyết. Cơ quan tham gia giải quyết hồ sơ liên thông thực hiện xử lý theo thẩm quyền, trả kết quả giải quyết cho cơ quan cần sử dụng kết quả giải quyết cho các bước tiếp theo và gửi cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện để trả kết quả cho tổ chức, cá nhân; cập nhật tình hình, kết quả xử lý hồ sơ liên thông vào Hệ thống thông tin một cửa điện tử.

f) Trường hợp hồ sơ thực hiện theo quy trình liên thông giữa các cơ quan có thẩm quyền không cùng cấp hành chính

– Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện chuyển hồ sơ giấy đến cơ quan có thấm quyền cấp trên; chuyển thông tin về hồ sơ thủ tục hành chính trên Hệ thống thông tin một cửa điện tử cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện của cơ quan có thẩm quyền cấp trên để giám sát, chuyển dữ liệu hồ sơ điện tử cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định;

– Cơ quan có thẩm quyền cấp trên xử lý hồ sơ theo quy định tại các Khoản 1,2, 3, 4 và 5 Điều này; chuyển kết quả giải quyết cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện nơi tiếp nhận hồ sơ của tổ chức, cá nhân để trả kết quả theo Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả.

g) Các hồ sơ quy định tại các Khoản 1 và 2 Điều này sau khi thẩm định không đủ điều kiện giải quyết, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính trả lại hồ sơ và thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do không giải quyết hồ sơ theo mẫu Phiếu từ chối giải quyết hồ sơ để gửi cho tổ chức, cá nhân thông qua Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện. Thông báo được nhập vào Mục trả kết qủa của Hệ thống thông tin một cửa điện tử. Thời hạn thông báo phải trong thời hạn giải quyết hồ sơ theo quy định.

h) Đối với hồ sơ quá hạn giải quyết, trong thời hạn chậm nhất 01 ngày trước ngày hết hạn, cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải quyết hồ sơ phải thông báo bằng văn bản cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện và gửi văn bản xin lỗi tổ chức, cá nhân, trong đó ghi rõ lý do quá hạn, thời gian đề nghị gia hạn trả kết quả theo mẫu Phiếu đề nghị gia hạn thời gian giải quyết. Việc hẹn lại ngày trả kết qủa đuợc thực hiện không quá một lần.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ THAI THANH NGHIA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *