Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: “VKSND tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra: “Chất lượng công tác tư pháp nói chung ………………. lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp”. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKSND là cơ quan THTT có chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động điều tra. Để thực hiện chức năng kiểm sát, VKS đã tiến hành nhiều công tác kiểm sát khác nhau, như công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, đề ra yêu cầu xác minh tin báo, kiểm sát khám nghiệm hiện trường, tử thi, kiểm sát khởi tố vụ án, bị can, kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và đề ra yêu cầu điều tra. Trong đó công tác KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nhằm phối hợp, tác động yêu cầu CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra thu thập được đầy đủ các thông tin, tài liệu, chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong vụ án được khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật mang ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng. Nhà nước đang thực hiện cải cách tư pháp…thì công tác điều tra tội phạm là một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra trong tình hình hiện nay để đảm bảo trật tự xã hội trong mọi tình huống. Đối với tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, ngoài những yếu tố tác động chung, do đặc điểm phức tạp và đa dạng của loại tội phạm này đã đặt ra những khó khăn vướng mắc trong quá trình phòng ngừa, điều tra các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Thực tiễn điều tra tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS cho thấy đối tượng phạm tội là các thành phần trong xã hội ở mọi độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế …

Bình Định là một tỉnh thuộc vùng Nam Trung Bộ, có diện tích tự nhiên khoảng 6.100 km², dân số khoảng 2,468 triệu người, mật độ dân số 389 người/km², phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các vùng đô thị. Địa giới hành chính của tỉnh trải dài theo hướng Bắc – Nam, với ưu thế là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng Nam Lào trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế. Trong những năm gần đây, các loại tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Định diễn biến phức tạp, gây thiệt hại không nhỏ đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của Nhà nước và Nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Trong đó, tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã và đang gây lo lắng trong Nhân dân.

Trong những năm qua, VKSND đã có nhiều cố gắng trong công tác kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, góp phần quan trọng trong hoạt động điều tra, khám phá vụ án để truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, công tác KSĐT những vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế như: có nhiều vụ việc xảy ra CQĐT thông báo cho VKS, nhưng VKS không tiến hành hoạt động kiểm sát thường xuyên các biện pháp điều tra, mà chỉ kiểm sát qua biên bản giấy tờ nên không nắm bắt được nội dung vụ án; những vấn đề phát sinh trong quá trình điều tra để kịp thời yêu cầu điều tra thu thập đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ nên đã gây rất nhiều khó khăn trong chứng minh tội phạm sau này dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do dân chủ của công dân và ảnh hưởng nhiều đến uy tín của các cơ quan THTT. Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải hoàn thiện công tác KSĐT các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nhằm giúp cho hoạt động điều tra đạt hiệu quả cao.

Vấn đề tội phạm về xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định nói chung và tội phạm về Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng đang có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh đó, thực tiễn đấu tranh, xử lý loại tội phạm này tại địa phương vẫn còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc cần phải được hướng dẫn, để thống nhất về mặt nhận thức và đường lối giải quyết. Các vụ án hình sự về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội danh về xâm phạm sở hữu theo quy định của Bộ luật hình sự. Qua các lần ban hành, sửa đổi Bộ luật hình sự, tội danh này có nhiều thay đổi căn bản, thể hiện sự tiến bộ trong trình độ lập pháp của nước ta, cũng như thể hiện tính phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực trạng tỉnh Bình Định trong những năm qua công tác KSĐT các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS còn nhiều sơ hở, hiệu quả công tác chưa cao, số vụ việc thụ lý nhiều nhưng số vụ án được giải quyết chiếm tỷ lệ thấp.

Quy định của Bộ luật hình sự và việc giải quyết tội phạm về lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong những năm qua còn đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và cả thực tiễn cần phải được nghiên cứu, rút kinh nghiệm. Đây là vấn đề thực tiễn rất cần được sự quan tâm nghiên cứu, tổng kết để xây dựng thành lý luận, nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp nội dung này. Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu lien quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về vấn đề kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS nói chung và cụ thể là KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này trong giai đoạn điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Đồng thời, luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:

+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về KSĐT VAHS của VKSND đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

+ Làm rõ đặc điểm tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019 từ đó làm rõ một số vấn đề thực tiễn, những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế của hoạt động KSĐT đối với loại tội phạm này.

+ Kiến nghị, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của VKSND tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của VKSND tỉnh Bình Định dưới góc độ luật hình sự và TTHS trên địa bàn tỉnh Bình Định.

+ Phạm vi về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, về cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu, đó là: sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của LHS và TTHS, cụ thể:

– Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các công trình khoa học có liên quan, các văn bản pháp lý, các báo cáo sơ kết, tổng kết đánh giá về số liệu, tình hình các loại tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Định.

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập được, các chuyên đề, thông báo rút kinh nghiệm về kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung và từ thực tiễn hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian qua.

– Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, thực trạng hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về hoạt động KSĐT các VAHS nói chung và lý luận hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn KSĐT tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Định. Ngoài ra, nội dung và kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo, tập huấn chuyên đề, tập huấn nâng cao công tác KSĐT tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS cho cán bộ, KSV, từ đó vận dụng vào hoạt động nghiệp vụ và công tác, nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSĐT của VKSND tỉnh Bình Định.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được kết cấu như sau: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và được chia thành 03 chương:

Chương 1: Lý luận chung về kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý và hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.1.1. Khái niệm

Tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, gồm có 4 thuộc tính cơ bản: 1. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội; 2. Được quy định trong BLHS; 3. Phải chịu hình phạt của pháp luật; 4. Mỗi tội phạm đều cấu tạo bởi 4 yếu tố cấu thành, bao gồm: mặt khách quan; mặt chủ quan; mặt khách thể và mặt chủ thể của tội phạm.

Khái niệm của tội phạm theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999:

“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội ……….. của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.

Trong lịch sử lập pháp, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS quy định lần đầu tiên tại Điều 140 BLHS năm 1999, đây là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của công dân quy định tại Điều 158, Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN quy định tại Điều 135 BLHS năm 1985, đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã được quy định tại Điều 175, cụ thể:

“1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây …… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối CĐTS đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” [23, tr.129].

Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể và chi tiết hơn trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), tài sản bị chiếm đoạt được định lượng rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế. Nhận thức về loại tội phạm trên theo khoa học pháp lý là: “hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của người khác hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”.

Như vậy, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS và lý luận khoa học hình sự, căn cứ vào quy định của Điều 175 về tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho thấy: “Lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của người khác hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” [12, tr.3].

1.1.2. Đặc điểm pháp lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trực tiếp xâm hại quyền sở hữu của người khác về tài sản. Đối tượng tác động của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS là tài sản đang có chủ. Theo quy định của Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS có một số đặc điểm pháp lí sau:

1.1.2.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Mặt khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội khác về xâm phạm sở hữu. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị truy đuổi mà có hành vi chống trả nhằm để tẩu thoát, dẫn đến hậu quả gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng với hành vi đã gây ra.

1.1.2.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được thể hiện ở hành vi chiếm đoạt, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình sau khi đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện được các quyền năng đối với tài sản của họ hoặc được giao quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người phạm tội và người này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.

Thủ đoạn gian dối nghĩa là sau khi đã nhận được tài sản, người phạm tội sẽ dùng mọi phương thức, như: dùng lời nói, hành động, giấy tờ để vay, mượn, thuê tài sản của người khác nhằm CĐTS. Người phạm tội sử dụng các thủ đoạn gian dối nhằm chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác.

Bỏ trốn có thể được hiểu là cố tình trốn tránh để không phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền sau khi đã giao dịch với người khác bằng các hình thức vay, mượn, thuê tài sản hoặc là bỏ trốn để CĐTS sau khi vay, mượn, mua hoặc nhận được của người khác bằng các hình thức hợp đồng. Để xác định một người có bỏ trốn hay không cần xác định các dấu hiệu sau: Việc họ rời bỏ nơi cư trú là lén lút hay công khai; Lý do, mục đích của việc rời bỏ nơi cư trú; Việc rời bỏ nơi cư trú là tạm thời hay không xác định thời hạn…

Cũng được coi là CĐTS trong trường hợp đã sử dụng tài sản mà mình đã vay, mượn, thuê, hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng vào các hình thức bất hợp pháp (Như dùng tiền vay để đánh số đề, đánh bạc, buôn lậu,…) dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho bên vay, cho mượn hoặc giao tài sản. Đặc điểm của hành vi chiếm đoạt nêu trên là xảy ra sau khi nhận được tài sản thông qua các giao dịch dân sự như vay, mượn, thuê, hoặc nhận được tài sản của người khác (như do người khác gửi giữ…) bằng các hình thức hợp đồng dân sự hoặc hợp đồng kinh tế.

Trong thực tiễn có ý kiến cho rằng trường hợp sử dụng điện thoại không trả tiền cước hoặc thuê tài sản không trả tiền thuê theo hợp đồng là phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Tôi cho rằng như vậy là chưa chính xác vì tiền cước điện thoại và tiền thuê phải trả khi thuê tài sản thực chất là khoản lợi tức mà bên cho vay, cho mượn, cho thuê được hưởng theo hợp đồng. Trong khi đó, dấu hiệu được điều luật mô tả phải là vay, mượn, thuê tài sản… để chiếm đoạt chính tài sản đó chứ không phải là chiếm đoạt lợi tức của tài sản đó. Vì vậy, việc không trả tiền cước điện thoại, tiền thuê tài sản theo quan điểm của tôi là chỉ sự vi phạm nghĩa vụ dân sự.

Về giá trị tài sản chiếm đoạt, giá trị của tài sản bị chiếm đoạt phải từ 4.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu TNHS. Nếu tài sản bị chiếm đoạt trị giá dưới 4.000.000 đồng thì phải thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm lạm dụng tín nhiệm

Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được thực hiện do cố ý,với mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích CĐTS là dấu hiệu đặc trưng, dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội có tính chất chiếm đoạt nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng.

1.1.2.4. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là bất kỳ người nào có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999, BLHS mới đã có sự tách bạch rõ ràng hơn về độ tuổi chịu TNHS đối với người phạm tội.

1.1.3. Hình phạt của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS có năm khung hình phạt tương ứng theo từng khoản của điều luật. Theo quy định tại khoản 1 điều 175 BLHS năm 2015, thì khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Với mức cao nhất của khung hình phạt tối đa là 03 năm, đây là loại tội ít nghiêm trọng theo phân loại tội phạm trong BLHS 2015.

Khoản 2 quy định về các trường hợp tăng nặng và có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Đây là những trường hợp căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi liên quan đến giá trị tài sản bị chiếm đoạt, đến hậu quả từ hành vi chiếm đoạt và tính chất nghiêm trọng của hành vi chiếm đoạt trên thực tế để làm tình tiết định khung tăng nặng hình phạt đối với người có hành vi CĐTS. Với mức cao nhất của khung hình phạt là 07 năm (thuộc loại tội nghiêm trọng).

Khoản 3 quy định: phạm tội CĐTS trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm (thuộc loại tội rất nghiêm trọng).

Khoản 4: phạm tội CĐTS trị giá 500.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm (thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng).

Khoản 5: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng và áp dụng một số biện pháp tư pháp.

Trên đây là những khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng và hình phạt của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động KSĐT khám phá đối với tội này. Trên cơ sở khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS cho phép nghiên cứu đặc điểm hình sự cũng như đặc điểm tội phạm học của loại tội phạm này, nhất là những yếu tố, những hiện tượng xã hội tiêu cực làm phát sinh và gia tăng tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Đây cũng chính là cơ sở để lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các biện pháp KSĐT đối với các vụ án này của VKSND tỉnh Bình Định trong tình hình hiện nay.

1.2. Những đặc điểm về điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

1.2.1. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự

Điều tra VAHS là giai đoạn thứ hai trong các giai đoạn TTHS, mà trong đó CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các hoạt động, hành vi tố tụng cần thiết nhằm thu thập và củng cố các tài liệu, chứng cứ liên quan, nghiên cứu các tình tiết của VAHS, nhằm phát hiện nhanh chóng, đầy đủ tội phạm, đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách triệt để, khách quan, toàn diện, làm căn cứ vững chắc cho việc thực hiện các bước tiến hành tố tụng ở giai đoạn tiếp theo của vụ án.

Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là xác định tội phạm và người thực hiện tội phạm; xác định hậu quả thiệt hại do tội phạm gây ra; xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Điều tra VAHS là một giai đoạn độc lập của TTHS, có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh tội phạm và người phạm tội; Việc áp dụng pháp luật này phải tuân theo trình tự, thủ tục được quy định cụ thể theo BLTTHS; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) THTT hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố VAHS và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ VAHS tương ứng.

1.2.2. Đặc điểm điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.2.2.1. Những yêu cầu của hoạt động điều tra vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải được tiến hành có kế hoạch đảm bảo tính chủ động, khoa học, tính hiệu quả của hoạt động điều tra. Nếu không có kế hoạch, hoạt động điều tra dễ dẫn tới bị động, không có phương hướng, không đảm bảo tính khoa học, tính hiệu quả, thậm chí có thể làm bế tắc vụ án. Lập kế hoạch điều tra đảm bảo tổ chức công việc điều tra có mục đích và có hiệu quả, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các lực lượng trong quá trình điều tra vụ án. Trong mọi trường hợp phải chủ động lập kế hoạch điều tra vụ án nói chung cũng như lập kế hoạch tiến hành từng biện pháp điều tra cụ thể. Kế hoạch điều tra phải được Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng CQĐT duyệt [11, tr.143].

+ Hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải được tiến hành một cách nhanh chóng và linh hoạt đảm bảo cho tài liệu, vật chứng không bị tẩu tán, tiêu hủy gây khó khăn, cản trở đến hoạt động điều tra, đối tượng phạm tội không có thời gian chạy trốn, đối phó với hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra được tiến hành nhanh chóng còn thể hiện sự tuân thủ về thời hạn điều tra do BLTTHS quy định. Trong quá trình điều tra, ĐTV sử dụng một cách tổng hợp, linh hoạt, nhịp nhàng các biện pháp để thu thập tài liệu chứng cứ để làm rõ vụ án trong từng tình huống cụ thể. Thể hiện như đánh giá đúng tình huống điều tra, nhanh chóng đề ra các quyết định cần thiết, kịp thời và nhanh chóng thực hiện các quyết định đó, xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể với các tình huống điều tra cụ thể [11, tr.143].

+ Sử dụng có hiệu quả những biện pháp trinh sát, những phương tiện kỹ thuật trong quá trình điều tra vụ án. Để có được sự kết hợp chặt chẽ này cần phải có mối quan hệ chặt chẽ, thiết thực giữa bộ phận điều tra với bộ phận trinh sát. ĐTV cung cấp cho lực lượng trinh sát những thông tin cần thiết thu thập được qua tiến hành những biện pháp điều tra để bộ phận trinh sát có thể sử dụng làm cơ sở tiến hành các biện pháp trinh sát cần thiết. Cán bộ trinh sát phải sử dụng triệt để và có hiệu quả những biện pháp trinh sát, các phương tiện kỹ thuật để phối hợp khám phá vụ án, cung cấp những thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp trinh sát. Do đó, đòi hỏi ĐTV phải nắm vững phạm vi và khả năng của những biện pháp trinh sát và các phương tiện kỹ thuật để phối hợp điều tra làm rõ vụ án. Khi phối hợp phải có hình thức cụ thể, kịp thời hỗ trợ cho các hoạt động điều tra [11, tr.144].

+ Đấu tranh chống tội phạm là nhiệm vụ của toàn dân chứ không phải riêng của CQĐT, vì vậy phải vận động và tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào công tác đấu tranh chống tội phạm. Do đó, trong quá trình điều tra phải dự kiến, xác định những vấn đề cần có sự tham gia của các tổ chức quần chúng, của nhân dân từ đó có kế hoạch và biện pháp cụ thể tiến hành. Giáo dục cho công dân ý thức trách nhiệm thực hiện pháp luật, nếu cần có sự tham gia trực tiếp của quần chúng phải có sự hướng dẫn cụ thể, cần có kế hoạch, biện pháp để bảo vệ họ trong những trường hợp cần thiết.

+ Tổ chức hoạt động phòng ngừa, điều tra các vụ lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải có sự phối hợp sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện nghiệp vụ, nhất là các hoạt động trinh sát để thu thập tài liệu, phát hiện các dấu hiệu phạm tội, củng cố chứng cứ nhằm làm rõ sự thật vụ án theo quy định của pháp luật.

+ Tính chất, đặc điểm hình sự của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS thường rất phức tạp, đa dạng. Hoạt động phạm tội thường được thực hiện bằng nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi, chặt chẽ, xảo quyệt. Do vậy, để làm rõ bản chất của vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS ngoài việc sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phối hợp nhiều lực lượng và phương tiện, công cụ của ngành như: tuần tra kiểm soát giao thông, quản lý hành chính… CQĐT còn phải phối hợp, khai thác sử dụng các tài liệu trinh sát hoặc đặt ra những nội dung, yêu cầu cần điều tra xác minh bằng biện pháp trinh sát. Sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện các biện pháp để tiến hành hoạt động phòng ngừa, điều tra các vụ lạm dụng tín nhiệm CĐTS là yêu cầu khách quan.

+ Hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS thường gặp điều kiện không thuận lợi trong việc thu thập xử lý, tài liệu. Tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS thường sử dụng đa dạng các loại phương thức thủ đoạn che giấu hành vi tội phạm, kể cả móc nối, mua chuộc số cán bộ làm công tác điều tra. Trong quá trình điều tra các vụ tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm có thể phải xử lý, giải quyết những tình huống có những hành vi cản trở hoặc gây khó khăn của đối tượng phạm tội, người có liên quan hoặc cả những cá nhân khác.

1.2.2.2. Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ khác trong điều tra tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Để đấu tranh có hiệu quả tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng, ngoài các biện pháp nghiệp vụ cơ bản của lực lượng CSND, cần thiết phải tiến hành tổng hợp các biện pháp nghiệp vụ khác như: Biện pháp phát động quần chúng, biện pháp tuần tra vũ trang, biện pháp quản lý hành chính về trật tự xã hội, biện pháp khoa học kỹ thuật, biện pháp kinh tế,… Để đáp ứng yêu cầu đó, CQĐT cần thiết phải phối hợp với các cơ quan, đoàn thể quần chúng để tổ chức triển khai các hoạt động cụ thể của công tác điều tra tội phạm.

1.3. Khái niệm, đối tượng, phạm vi và đặc điểm của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.3.1. Khái niệm của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ – Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, xuất bản năm 2000, thì: “Kiểm sát có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước” [20, tr.213]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2002 do Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn, thì “Kiểm sát là hoạt động của VKSND nhằm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước” [9, tr.431].

Với cách giải thích khái niệm “kiểm sát” nêu trên, chúng tôi cho rằng, kiểm sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám sát và kiểm tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị giám sát để phát hiện và có các biện pháp tác động phù hợp để yêu cầu đối tượng bị giám sát kịp thời khắc phục, sữa chửa nếu có hành vi VPPL. Hoạt động kiểm tra là rà soát, xem xét để đánh giá toàn diện đối tượng bị kiểm tra có đảm bảo theo một quy trình nhất định nào đó.

Tại Điều 20 BLTTHS 2015 thì: “VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, quyết định việc buộc tội, phát hiện VPPL nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, VPPL đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [20, tr.34]. Như vậy, BLTTHS 2015 đã thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng, tăng cường trách nhiệm của VKS trong công tác THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.

Kiểm sát các hoạt động điều tra VAHS nói chung và vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng là một hoạt mà VKS tiến hành theo chức năn, quyền hạn đã được pháp luật quy định. Theo quy định của pháp luật, thì “VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp …….. đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trong đó có KSĐT các VAHS nói chung, KSĐT vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng. Hoạt động KSĐT các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS bắt đầu từ giai đoạn phát hiện có dấu hiệu tội phạm đến khi VKS có quyết định truy tố người phạm tội ra Toà án hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án đã có hiệu lực pháp luật. Mục đích của KSĐT là bảo đảm cho các hoạt động điều tra phải chấp hành đúng các trình tự, thủ tục, … theo quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Đối tượng của hoạt động KSĐT là quá trình TTHS của CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Hoạt động KSĐT các VAHS là một trong những công tác thực hiện chức năng của VKS, là giai đoạn mở đầu THQCT Nhà nước mà nội dung của nó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra các VAHS của các CQĐT, các ĐTV, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có liên quan khác, bảo đảm cho việc điều tra tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ.

Hoạt động KSĐT luôn phải đảm bảo hai yêu cầu, đó là: phải được tiến hành đúng thủ tục TTHS; phải thu thập chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, cả những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, đồng thời làm rõ những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội để có biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Hoạt động KSĐT nhằm đảm bảo cho việc truy cứu TNHS đối với bị can là có căn cứ theo luật định, phải có căn cứ chứng minh bị can dã thực hiện tội phạm và không có các tình tiết để loại trừ TNHS đối với bị can [31, tr.43].

Từ phân tích nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, như sau: “Hoạt động KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước theo chức năng, thẩm quyền của VKS có nội dung giám sát mọi hoạt động của CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra từ khi xác định có dấu hiệu của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS đến khi VKS ra quyết định truy tố người phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS ra trước toà án, nhằm đảm bảo cho các hoạt động điều tra tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.”

1.3.2. Đối tượng, phạm vi của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.3.2.1. Đối tượng của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Cùng với hoạt động điều tra, hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đều tập trung vào việc xác định có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, hệ thống chứng cứ để chứng minh tội phạm, những tình tiết có liên quan tới VAHS để xử lý theo pháp luật. Nhưng điều cần khẳng định, mang tính bản chất của hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS chính là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng như những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

Theo pháp luật Việt Nam, TTHS là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết VAHS theo quy định của pháp luật, bao gồm: toàn bộ hoạt động của cơ quan THTT, người THTT, người tham gia tố tụng của cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội, … góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật TTHS.

Hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền THTT trong điều tra VAHS là hoạt động của các cơ quan: CQĐT, VKS, Tòa án. Hoạt động của cơ quan có thẩm quyền THTT được thực hiện thông qua hoạt động của người THTT. Người THTT là những công chức trong cơ quan THTT, được bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó theo luật định, nhằm góp phần vào việc giải quyết VAHS.

Hoạt động của những người tham gia tố tụng: Bao gồm hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; hoạt động của người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan THTT xác định sự thật vụ án. Như vậy, trong một chừng mực nhất định, đây cũng là các hoạt động TTHS.

Tất cả các hoạt động nêu trên đều phát sinh trong quá trình điều tra VAHS nói chung và vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng. Do đó, KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là việc thực hiện chức năng của VKSND, hoạt động đó có nội dung là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các hoạt động nêu trên, của các chủ thể nêu trên trong quá trình điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

Từ sự phân tích trên, có thể thấy đối tượng của hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là: các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS phát sinh trong giai đoạn điều tra tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

1.3.2.2. Phạm vi của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Phạm vi của hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là giới hạn về mặt không gian, thời gian trong đó diễn ra các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với quá trình điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của CQĐT có thẩm quyền.

– Phạm vi về mặt không gian: ở đây đề cập tới hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo lãnh thổ, theo thẩm quyền điều tra của CQĐT đã được pháp luật quy định. Thực chất nó khẳng định nội dung ở đâu có hoạt động điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS thì ở đó có hoạt động KSĐT của VKS nhằm đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động điều tra tội phạm này.

– Phạm vi về mặt thời gian: đề cập tới hoạt động KSĐT bắt đầu từ thời điểm nào và kết thúc thời điểm nào, cũng như nội dung hoạt động cụ thể của nó. Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 23-01-1984 giữa VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã xác định: phạm vi của công tác KSĐT được bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặc phát hiện được dấu vết của tội phạm cho tới khi kết thúc điều tra bằng các quyết định xử lý vụ án, xử lý bị can của cơ quan có thẩm quyền. Việc xác định phạm vi như vậy thể hiện tính đầy đủ, tính toàn diện của công tác KSĐT đối với quá trình điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Mặt khác nó cũng thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trên cơ sở đó VKS đưa ra các quyết định sau khi kết thúc điều tra như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hoặc quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng.

Từ sự phân tích trên, có thể chỉ ra rằng phạm vi của hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặc phát hiện được dấu vết của tội phạm cho đến khi kết thúc việc điều tra, VKS ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định pháp luật.

1.3.3. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hoạt động giám sát hoạt động điều tra của CQĐT do VKS thực hiện, bắt đầu từ thời điểm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố điều tra và kết thúc khi vụ án được kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố hoặc đình chỉ điều tra. Viện kiểm sát thực hiện hoạt động này một cách công khai theo đúng trình tự, thủ tục theo luật định. Đặc điểm của hoạt động KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của VKSND mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động KSĐT các VAHS, song do tính chất đặc thù của tội phạm, nên hoạt động này có các đặc điểm riêng và có rút ra một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, KSĐT các VAHS nói chung và VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng là chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu từ khi có dấu hiệu của tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan THTT kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra.

Thứ hai, nội dung của chức năng này là việc VKS tiến hành giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan THTT, người THTT trong quá trình điều tra các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS.

Thứ ba, KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật TTHS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

Thứ tư, các hoạt động KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS bao gồm: Kiểm sát việc khởi tố, điều tra; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người THTT, người tham gia tố tụng; về thẩm quyền điều tra; Yêu cầu CQĐT khắc phục các VPPL trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về VPPL của ĐTV; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh ĐTV đã VPPL trong khi tiến hành điều tra nếu có; Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và VPPL [8, tr.34].

Thứ năm, chủ thể KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải có kiến thức về pháp luật, có nghiệp vụ kiểm sát, biết tích lũy kinh nghiệm và có kỹ năng tác nghiệp. KSV phải vững về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật, nhạy bén, linh hoạt trong quá trình giám sát hoạt động điều tra để phát hiện kịp thời những sai sót, vi phạm của CQĐT và yêu cầu khắc phục.

1.4. Nội dung hoạt động kiểm sát các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.4.1. Kiểm sát việc việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố vụ án, khởi tố bị can tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.4.1.1. Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại Điều 145, 146 và 147 BLTTHS năm 2015 thì CQĐT, VKS, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình;

Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì trong thời hạn 20 ngày đối với vụ việc đơn giản và trong thời hạn không quá 02 tháng đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm, CQĐT phải có trách nhiệm xác minh làm rõ để ra quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Để đảm bảo thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, Điều 147 BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và thẩm quyền gia hạn được quy định cho Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng VKS có thẩm quyền.

So với BLTTHS 2003 chỉ có 2 điều luật quy định về tố giác, tin báo về tội phạm nhưng BLTTHS năm 2015 có đến 7 điều luật (Điều 144, 145, 146, 147, 148, 149, 150) quy định về nội dung này, để thấy rằng việc quy định chặt chẽ về các thủ tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động giải quyết vụ án.

Khởi tố VAHS là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu các hoạt động điều tra và bắt đầu triển khai các hoạt động thực hành quyền truy cứu TNHS đối với người thực hiện tội phạm đó và tạo cơ sở pháp lý của quá trình TTHS. Tại Điều 153 BLTTHS năm 2015, thẩm quyền khởi tố VAHS được quy định như sau:

– CQĐT quyết định khởi tố VAHS đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc khác do pháp luật quy định.

– Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố VAHS trong trường hợp quy định tại Điều 164 của BLTTHS;

– VKS ra quyết định khởi tố VAHS trong trường hợp: VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố VAHS của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; VKS trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử;

– Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố VAHS nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.

Sau khi vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS được khởi tố thì hoạt động kiểm sát điều tra vụ án phát sinh, CQĐT hoặc một số cơ quan được giao thẩm quyền điều tra có trách nhiệm phải gửi quyết định khởi tố vụ án đến VKS để tiến hành kiểm sát việc khởi tố.

Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS của CQĐT nhằm đảm bảo những tài liệu đã thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng phải có trong hồ sơ, như: biên bản khám nghiệm hiện trường, việc bắt khẩn cấp, các thủ tục khởi tố vụ án phải được đóng dấu bút lục của CQĐT và kèm theo bảng kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong hồ sơ vụ án.

1.4.1.2. Kiểm sát điều tra hoạt động khởi tố bị can tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS: “Khi có đủ căn cứ xác định một người hoặc pháp nhân ……… thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Để ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải có đủ chứng cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội, làm rõ đó là tội phạm gì, quy định ở điều khoản nào của BLHS; xác định rõ lý lịch của người thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Vì vậy, nếu việc ra quyết định khởi tố bị can đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không chính xác, không đảm bảo cơ sở pháp lý sẽ gây khó khăn cho quá trình điều tra, xác định sự thật của vụ án, dễ làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tác hại xấu về mặt chính trị – xã hội, sẽ làm giảm sút lòng tin của công dân đối với các cơ quan THTT, với Nhà nước.

Sau khi nhận được các thủ tục do CQĐT chuyển đến, trong thời hạn luật định, VKS phải ban hành một trong các quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ và gửi ngay cho CQĐT. Khi tiến hành điều tra vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, trường hợp phát hiện bỏ lọt tội phạm, thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, VKS phải chuyển cho CQĐT có thẩm quyền để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ TRAN DUC VU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *