Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Như đã biết lịch sử phát triển xã hội loài người luôn quan tâm đấu tranh bảo vệ và phát triển QCN. Kể từ khi xã hội có giai cấp hình thành, NN ra đời thì pháp luật chính là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người. Ngày nay, vấn đề QCN càng được đề cao và phát triển thành một trong những tiêu trí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia. Bản chất của NN Việt Nam là NN của dân, do dân, vì dân, vì thế vấn đề QCN đã luôn được ĐCS Việt Nam quán triệt, quan tâm. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong việc Đảng và NN đã nhanh chóng điều chỉnh từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, giúp cho đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được nâng cao, chính sách an sinh xã hội ngày càng được chú trọng quan tâm. Tuy nhiên thời gian gần đây, song song với việc phát triển kinh tế thị trường và bùng nổ công nghệ thông tin (4.0), thì tình hình vi phạm, tội phạm đang có chiều hướng gia tăng cả số lượng, lẫn các loại thủ đoạn phạm tội ngày tinh vi phức tạp hơn. Mặc dù, các cơ quan THTT đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong đấu tranh, phòng ngừa VP, TP. Nhưng có những thời điểm chất lượng công tác tư pháp còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và xây dựng NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vẫn còn tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các QCN.

Đứng trước khó khăn, thách thức nêu trên Đảng và NN đã đề ra chiến lược cải cách tư pháp, với các Chỉ thị và Nghị quyết như: Nghị quyết 08/NQ – TW ngày 02/01/2002 [7]; Nghị quyết 48/NQ -TW ngày 24/5/2005 [8]; Nghị quyết 49/NQ – TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [9]; và tiếp theo đó là Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội [36], yêu cầu TAND tối cao chỉ đạo các tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật… Những chủ trương, chính sách nêu trên cũng chính là việc Đảng và NN muốn nâng cao QCN trong hoạt động tư pháp. Và để cụ thể QCN trong hoạt động tư pháp, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã khẳng định các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật [33]; Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp về QCN trong hoạt động TTHS, tại BLTTHS 2015 đã tiếp nối bằng rất nhiều các quy định về quyền, nghĩa vụ cũng như các nguyên tắc để bảo vệ những người tham gia tố tụng như: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại …; Trong đó tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29], các nhà làm luật đã rất chú trọng đến việc ban hành các quyền về con người để đưa vào BLTTHS nhằm mục đích để bảo vệ được nhiều những quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo.

Ở địa phương huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định – nơi học viên công tác trong những năm qua tình hình VP, TP nói chung diễn biến ngày càng phức tạp, trung bình mỗi năm TAND huyện Hoài Nhơn thụ lý XXST hơn 100 VAHS [50]. Nhìn chung các HĐXX của TAND luôn quan tâm áp dụng đầy đủ các quy định của luật TTHS về quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử thì vẫn còn dấu hiệu vi phạm các quy định và quyền và nghĩa vụ của bị cáo, dẫn đến việc vị trí, vai trò của bị cáo trong TTHS có những thời điểm chưa được nhận thức và đánh giá đúng mức, dẫn đến khi áp dụng các quy định của pháp luật về bị cáo trong XXST các VAHS không bảo đảm QCN theo quy định của PL. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, trong đó bị cáo – là chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức và thực hiện đày đủ, các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Vì vậy việc nghiên cứu các quy định của luật TTHS về người tham gia tố tụng nói chung và bị cáo nói riêng, một cách khoa học không những bổ sung thêm về mặt lý luận bị cáo còn giúp cho những người làm công tác thực tiễn thực hiện tốt các quy định của PL về quyền và nghĩa vụ trong xét xử các VAHS, góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng PL, không kết tội oan sai, bản án được nhân dân đồng tình ủng hộ, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp là đề tài có tính thời sự cấp thiết.

Xuất phát từ yêu cầu việc nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo thạc sĩ luật học của Viện hà lâm khoa học xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội và nhu cầu phục vụ thực tiễn công tác xét xử của bản thân, học viên đã chọn đề tài: “Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định” làm luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của PL về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm, đảm bảo thực hiện các quy định về bị cáo trong TTHS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về bị cáo trong XXST các VAHS tại TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình; qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật THHS về bị cáo trong XXST các VAHS.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:

– Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm, như: Khái niệm Bị cáo, đặc điểm của bị cáo; quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các VAHS;

– Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của Bị cáo trong TTHS Việt Nam, từ sau Cách mạng tháng 8.1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;

– Nghiên cứu những quy định cụ thể về bị cáo của BLTTHS 2015, từ đó thấy được những điểm mới, tiến bộ cũng như một số điểm còn bất cập của các chế định về Bị cáo trong BLTTHS 2015, để từ đó đề xuất quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2015;

– Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về bị cáo trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó;

– Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về bị cáo trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong XXST các VAHS trong thực tiễn ở nước ta trước yêu cầu tiếp tục cải cách tư pháp và xây dựng NN pháp quyền.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm qua thực tiễn xét xử ở Toà án nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề bị cáo trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của PL tố tụng về quyền và nghĩa vụ của bị cáo tại TAND Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc ADPL quy định về bị cáo trong TTHS tại các phiên tòa XXST các VAHS ở TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định giai đoạn 2015-2019.

5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cở sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của ĐCS Việt Nam về NN và PL, xây dựng NN pháp quyền, về cải cách tư pháp và bảo vệ QCN trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác, như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp logic…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thực hiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về bị cáo trong XXST các VAHS theo yêu cầu cải cách tư pháp, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới quyền và nghĩa vụ của bị cáo theo luật TTHS Việt Nam.

6.1. Ý nghĩa thực tiễn

Những điểm mới cơ bản của luận văn là:

– Nghiên cứu việc đảm bảo ADPL về quyền, nghĩa vụ của bị cáo trong XXST nhằm bổ sung những vấn đề lý luận về hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay;

– Tổng hợp các quan điểm khoa học của một số nhà khoa học về bị cáo trong tố tụng hình sự để đưa ra quan niệm của học viên về bị cáo trong tố tụng hình sự;

– Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của chế định bị cáo trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay;

– Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị cáo tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó;

– Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện các chế định về bị cáo trong XXST các VAHS trong giai đoạn xây dựng NN pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay.

– Bản thân tác giả là TP công tác TAND cấp huyện, đã tham gia XXST nhiều VAHS, từ việc nghiên cứu và trải nghiệm bản thân, những kiến nghị trong luận văn không chỉ có ý nghĩa như một đề xuất mang tính khoa học có giá trị tham khảo cho các cơ quan, tổ chức trong xây dựng, hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện các quy định về bị cáo trong TTHS. Học viên cũng hy luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy và học viên chuyên ngành luật học; và phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ làm công tác thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan VKSND, TAND trong quá trình giải quyết VAHS được khách quan, có căn cứ và đúng PL.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương

Chương 1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự

Chương 2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bị cáo tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định

Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình sự

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG

HÌNH SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự

Như đã biết theo quy định của pháp luật TTHS thì các giai đoạn từ khởi tố, điều tra cho đến truy tố chỉ là giai đoạn thu thập nguồn chứng (tìm kiếm thông tin) chứng minh sự việc phạm tội xảy ra mà chưa phải là qúa trình xác định VP, TP. Do đó xét xử tại phiên tòa mới là giai đoạn quan trọng nhằm xác định có phạm tội hay không phải là tội phạm của một người thực hiện hành vi trái PL. Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố VAHS, khởi tố bị can. Bị can sẽ trải qua quá trình điều tra, truy tố, cho đến khi TAND ra quyết định đưa bị can (người bị VKS buộc tội) ra xét xử thì bị can lúc này được gọi là bị cáo. Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS 2003 thì “Bị cáo là người bị Tòa án quyết đưa vụ án ra xét xử” [28]. Vậy nên khái niệm bị cáo được hiểu trong phạm vi hẹp nhưng cũng đã nêu lên được, sự việc một người bị truy cứu TNHS hay bị VKS truy tố thì chưa được gọi là bị cáo, chỉ đến khi TAND ra quyết định đưa VAHS ra xét xử thì bị can mới được gọi là bị cáo.

Về mặt ngôn ngữ học, có thể hiểu bị cáo là người cụ thể trong xã hội, có hành vi gây ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến sự việc, đối tượng cụ thể. Theo từ điển luật học, thì bị cáo là người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử [59], định nghĩa pháp lý về khái niệm bị cáo, bị cáo là người bị truy cứu TNHS trước Tòa án. Như vậy, có thể hiểu là sau khi có quyết định truy tố của VKS và hồ sơ VAHS được chuyển đến TAND, thì vẫn coi người bị VKS truy tố là bị can, chỉ khi có quyết định của TAND đưa VAHS ra xét xử mới coi người đó là bị cáo.

Bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, tham gia phiên tòa, đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch, đưa ra chứng cứ và những yêu cầu, tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, nói lời sau cùng trước khi nghị án, kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm.

Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng, thì có thể bị áp giải.

Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử, là người bị VKS truy tố và buộc tội, là người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS và được gọi là VAHS. Tuy nhiên không đồng nghĩa với việc bị cáo được coi là nghười có tội vì theo quy định tại Điều 31 Hiếp pháp 2013 thì: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật” [33]. Mặc dù bị tình nghi là người đã thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự dẫn đến là người bị TAND đưa ra xét xử nhưng khi chưa có bản án kết tội của TAND có hiệu lực hoặc đã có bản án mà bản án nhưng bản án đó vẫn chưa có hiệu lực pháp thì cũng chưa được xem người đó là có tội. Vậy nên, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Bị cáo chỉ là một trong những chủ thể tham gia TTHS được quy định tại khoản 7 Điều 55 BLTTHS 2015 [29], bị cáo tham gia vào quá trình giải quyết VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ.

Trong BLTTHS 2015 đã quy định khái niệm bị cáo trong phạm vi rộng hơn, bổ sung thêm pháp nhân cũng có thể là bị cáo. Mà cụ thể tại khoản 1 Điều 61 quy định: Bị cáo là pháp nhân được thực hiện qua người đại diện hợp pháp của pháp nhân theo quy định của BLHS 2015 [29]. Tức là những người hoặc pháp nhân đã bị TAND quyết định đưa xét xử mới gọi là bị cáo, bị cáo tham gia trong giai đoạn xét xử khi đó họ mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ bị cáo được luật TTHS quy định.

Nếu pháp nhân thực hiện hành vi phạm thì đều bị TAND quyết định đưa ra xet xử như mọi công dân với tư cách xét xử là bị cáo. Quyết định đưa ra xét xử của TAND đối với bị cáo là pháp nhân sẽ được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân,

Do đó, tư cách tham gia TTHS của bị cáo sẽ xuất hiện kể từ khi TAND ra quyết định đưa VAHS ra xét và chấm dứt khi VAHS được đình chỉ hoặc khi có bản án kết tội có hiệu PL được thi hành.

Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự như sau: Bị cáo là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại bị Tòa quyết định đưa ra xét xử về hành vi vi phạm pháp luật.

Chỉ những người, pháp nhân bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử mới được gọi là bị cáo và bị cáo không đồng nghĩa với người có tội, không được xem bị cáo là người có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa hoặc bản án kết tội đó chưa có hiệu lực thi hành. Khi tham gia tố tụng bị cáo có quyền và nghĩa vụ được PL quy định và bảo đảm thực hiện.

1.1.2. Đặc điểm bị cáo trong tố tụng hình sự

Một là: Bị cáo là người tham gia tố tung

Bị cáo là một trong những chủ thể tham gia TTHS có quyền được PL bảo vệ nhưng không mang quyền lực NN, bị cáo tham gia TTHS nhằm để xác định sự thật của VAHS, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội. Khi tham gia TTHS, bị cáo được hưởng quyền và thực hiện quyền của bị cáo theo quy định tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29]. Tuy nhiên do bị cáo tham gia TTHS với vai trò là người bị đưa ra XXST vụ án hình sự. Nên bị cáo luôn ở trong tình thế bất lợi hơn những người tham gia TTHS khác vì họ phải gánh chịu ảnh hưởng của dư luận xã hội. Với quan điểm bị cáo luôn là người có tội vì không có thì làm sao lại bị TAND đưa ra xét xử, bị cáo chưa bị HĐXX kết tội nhưng quan hệ xã hội của bị cáo cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Vì đại đa số người dân đều cho rằng bị cáo là người phạm tội trước khi chưa có bản án, quyết định của TAND.

Bị cáo là người tham gia TTHS nhằm xác định sự thật của VAHS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo có quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì? Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa khác bào chữa cho mình; Quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng; Quyền được tham gia phiên tòa và được tranh luận tại phiên tòa; Quyền không bị xét xử một cách qúa chậm trễ thể hiện các quy định về thời hạn tạm giữ để khởi tố VAHS; thời hạn điều tra; thời hạn truy tố, thời hạn xét xử …, cụ thể như: Khi hết thời hạn tạm giữ hình sự nếu Cơ quan CSĐT Công an huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định không có căn cứ để khởi tố VAHS và khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị bắt tạm giữ; Nếu hết thời hạn điều tra không chứng minh được tội phạm thì phải đình chỉ điều tra VAHS và đình chỉ VAHS đối với bị can, hủy bỏ hết quyết định khởi tố bị can và các quyết định TTHS về biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với bị can, trả lại cho bị can đầy đủ quyền công dân, có thể phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại theo quy định của PL.

Ngoài ra bị cáo tham gia trong TTHS cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với bản thân họ, là nhằm mục đích đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị cáo, để đảm bảo quyền lợi của bị cáo, cơ quan THTT phải xác định sự xuất hiện của tư cách bị cáo.

Tham gia hoạt động TTHS với tư cách là bị cáo, họ sẽ được thực hiện các quyền đặc thù như: Nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án; xem biên bản phiên tòa; yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa, quyền kháng cáo mà chỉ có bị cáo mới có quyền, còn những người tham gia TTHS khác thì không.

Hai là, Bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự

Bị cáo xuất hiện trong VAHS để chứng minh hành vi phạm tội có xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là những vấn đề đầu tiên cần phải chứng minh trong VAHS. Trong mỗi VAHS cần phải chứng minh một cách khẳng định rằng hành vi bị khởi tố, điều tra, truy tố đã xảy ra trên thực tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện nhất tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng hay sai và suy cho cùng nó có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn VAHS. Đó là những dấu hiệu thuộc chủ thể và mặt khách quan của tội phạm.

Ngoài ra bị cáo xuất hiện trong VAHS là để chứng minh có thực hiện hành vi phạm tội hay không, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi vô ý hay cố ý, có năng lực chịu TNHS hay không?, động cơ, mục đích thực hiện tội phạm là gì?. Chứng minh bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội, nghĩa là xác định chủ thể của tội phạm. Sau đso là để xác định chủ thể đó có lỗi hay không?. Nếu có lỗi thì là lỗi cố ý hay vô ý?. Mục đích và động cơ phạm tội cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm được làm sáng tỏ.

Cùng với thì việc bị cáo xuất hiện trong VAHS có ý nghĩa quan trọng giúp HĐXX chứng minh sự thật khách quan, trung thực chính xác làm cơ sở để xét xử đúng người, đúng tội. Làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, nó có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng tính chất và hành vi của tội phạm giúp cho việc giải quyết VAHS đảm bảo đúng quy định của PL.

Ba là, Bị cáo là người bị buộc tội

Tính từ thời điểm VAHS được TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình có quyết định đưa vụ án ra XXST thì lúc này bị can đã trở thành bị cáo. Và để nhận biết đó là bị cáo thì đồng thời cũng là việc đảm bảo của NN đối với công dân vì không ai bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chỉ có những người đã bị TAND quyết định đưa ra xét xử VAHS mới được gọi là bị cáo, còn những người mặc dù thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự (tội phạm được quy định trong BLHS), đã được VKSND truy tố nhưng chưa được TAND ra quyết định đưa vụ án ra XXST thì cũng chưa được gọi là bị cáo.

Vì theo tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 thì: Bất kỳ người nào bị buộc tội đều có quyền được coi là chưa có tội cho đến khi TAND công khai, nơi người đó đã có được tất cả những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho hành vi của bản thân, chứng minh được tội phạm của người bị buộc tội trên cơ sở các quy định của pháp luật [23].

Cũng theo quy định của Hiến pháp 2013 [33], quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội: Người bị buộc tội được TAND xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của PL thì việc tuyên án phải được công khai. Tại phiên tòa sơ thẩm VAHS việc xét xử kịp thời, công khai là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo được xét xử trong một phiên tòa có nhiều Cơ quan THTT và nhiều người tham dự. Sự công bằng thể hiện ở việc bị cáo được xét xử theo những quy định chung của PL hình sự và TTHS.

Trong đó tại phiên tòa XXST các VAHS, thì HĐXX thực hiện việc điều tra công khai, trực tiếp các tài liệu chứng cứ liên quan đến VAHS với sự tham gia của VKSND (bên buộc tội) và bên gỡ tội (bị cáo và người bào chữa cho bị cáo). Thông qua việc xét xử công khai, HĐXX vừa có thể thu thập thêm các chứng cứ quan trọng để xem xét, đánh giá những chưgs cứ khác, khắc phục được những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động TTHS trước đấy. Để qua đó đảm bảo bản án, quyết định của HĐXX dược ban hành một cách chính xác, công bằng và kịp thời.

Với việc nguyên tắc suy đoán vô tội đã lần đầu tiên được quy định và áp dụng trong BLTTHS 2015 thì bị cáo được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật TTHS quy định và có bản án, quyết định kết tội của TAND đã có hiệu lực thi hành….[29]. Khi bản án, quyết định của TAND chưa có hiệu lực thi hành thì bị cáo vẫn chưa bị coi là tội phạm. Vậy nên các cơ quan THTT hình sự không được đối xử với bị cáo như là tội phạm. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục theo quy định tại BLTTHS thì Cơ quan điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội (vô tội). Nghĩa là, nếu trong giai đoạn TTHS nào đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không đủ và không thể có đủ nguồn tài liệu, chứng cứ để chứng minh tội phạm thì cơ quan, người THTT phải kết luận người buộc tội là không có tội và phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.

Bốn là, Bị cáo xuất hiện trong giai đoạn xét xử

Đây chính là đặc điểm để nhận biết và phân biệt rõ bị cáo, và cũng là sự bảo đảm của NN đối với công dân vì không ai bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết định đưa VAHS ra XXST. Chỉ có những người bị TAND quyết định đưa ra xét xử mới được gọi là bị cáo, những người tuy có hành vi phạm tội, đã bị VKSND truy tố nhưng chưa được TAND ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì cũng không gọi là bị cáo.

Bị cáo là người được TAND đưa ra xét xử nhưng không vì thế mà xem bị cáo là người có tội (là tội phạm), khi chưa có bản án, quyết định kết tội của TAND có hiệu lực PL được thi hành. Nên bị cáo được đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Các quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp 2013 chính là những giá trị xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt mọi mặt cần phải được tôn trong và bảo vệ một cách có hiệu quả. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được quy định trong Điều 8 BLTTHS 2015: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc thấy không còn cần thiết” [29]. Nghĩa là, khi có các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ không còn cần thiết hoặc những biện pháp này không còn cần thiết nữa thì cắc cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp đó. Nguyên tắc này đảm bảo không một công dân nào bị xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Năm là, Bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực PL.

Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử sơ thẩm VAHS nhưng không có nghĩa bị cáo đã là tội phạm và đồng thời nếu có là người thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự thì bị cáo cũng được thực hiện quyền của bị cáo. Cho nên dù là người bị TAND có quyết định đưa án ra xét xử thì bị cáo vẫn được thực hiện đầy đủ các quyền của công dân, đến khi có bản án, quyết định kết tội đã có hiệu lực của PL bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa (tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa) nhằm giảm bớt TNHS của bản thân bị cáo.

Vậy nên, khi TAND chưa ra bản án, quyết định để kết tội bị cáo, và kể cả khi Tòa đã ra bản án, quyết định kết tội nhưng bản án, quyết định ấy vẫn chưa có hiệu lực PL được thi hành thì bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa bằng cách tự đưa ra lý lẽ, chứng cứ, tài liệu của mình để nhằm giúp bị cáo trong việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ lời buộc hoặc giảm TNHS cho bị cáo, giúp làm sáng tỏ sự thật, minh oan cho bản thân bị cáo; giúp cho bị cáo về mặt pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Bên cạnh đó thì ngoài quyền tự bào chữa của bị cáo, thì bị cáo còn có thể nhờ hoặc thuê người khác bào chữa cho bị cáo, để nhằm mục đích trao cho bị cáo có cơ hội bảo vệ, quyền và lợi ích chính đáng của bản thân trước sự buộc tội của VKSND và của các chủ thể có thẩm quyền khác.

Trong khi điều kiện để thực hiện quyền tự bào chữa của bị cáo hạn chế do bị các cơ quan và người THTT áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo hoặc do chính bản thân bị cáo không có đủ khả năng và trình độ, kiến thức để thực hiện quyền tự bào chữa cho mình, thì bị cáo có quyền được đề nghị, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định (mời) người bào chữa (có thể là Luật sư hoặc Trợ giúp viên pháp lý). Việc cơ quan TTHS chỉ định (mời) người bào chữa còn đảm bảo tính nhân đâọ của NN Pháp quyền XHCN Việt Nam và góp phần hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền THTT xác định sự thật khách quan của VAHS.

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về bị cáo từ sau cách mạng tháng 8.1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988

Từ khi NN Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời cho đến trước năm 1988, hệ thống PL – TTHS được điều chỉnh chủ yếu bằng các sắc lệnh, nghị định, thông tư hoặc các bản hướng dẫn của TAND tối cao. Việc quy định như vậy không tạo thành một hệ thống thống nhất mà mỗi văn bản lại điều chỉnh một khía cạnh khác nhau của TTHS. Chính bởi vậy, thời kỳ này không có một BLTTHS riêng biệt quy định về bị cáo mà các quy định này nằm rải rác ở rất nhiều văn bản PL khác nhau.

Trong suốt thời gian dài trước khi BLTTHS 1988 được ban hành, các thuật ngữ có liên quan đến bị cáo được sử dụng nhiều trong các văn bản, các sắc lệnh. Tuy nhiên, chỉ có thuật ngữ bị cáo được định nghĩa chính thức. Các văn bản thời kỳ này phần lớn không phân biệt bị can, bị cáo và dùng lẫn lộn nhau, vì vậy pháp luật TTHS thời kỳ 1945 – 1988 không có thuật ngữ bị cáo một cách rõ ràng.

Tuy còn có sự lẫn lộn trong thuật ngữ, không rành mạch trong cách quy định nhưng nhìn chung, vẫn có những điều khoản quy định về bị cáo. Như Sắc lệnh số 33C do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành ngày 13/9/1945, tại Điều V đã quy định:“Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho” [39]. Việc quy định quyền bào chữa của bị cáo trong những văn bản đầu tiên khi thành lập đất nước có giá trị rất lớn bởi nó không chỉ là quyền cơ bản của bị cáo mà nó còn khẳng định sự quan tâm của NN ta trong việc bảo đảm quyền của bị cáo nói riêng (người bị buộc tội nói chung), khẳng định tư tưởng lập pháp tiến bộ, dân chủ của NN Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Quy định trên chính là tiền đề để bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra đời năm 1946 đã ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”[30, Điều 67]. Bản hiến pháp này cũng ghi nhận quyền “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân” [30, Điều 68]. Trong các bản hiến pháp sau đó là Hiến pháp 1959 [31] và Hiến pháp 1980 [32] cũng tiếp tục ghi nhận quyền này của người bị cáo.

Ngoài quyền bào chữa là quyền quan trọng và được đề cập nhiều nhất bị cáo còn có quyền kháng án lên Tòa cấp cao hơn, điều này được quy định tại Sắc lệnh 13 do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hòa ban hành ngày 24/01/1946 tại Điều thứ 34: “Toà đại hình xử sơ thẩm. Ông Biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm” [40]. Thêm vào đó, tại phiên toà, bị cáo được trình bày ý kiến, quyền bào chữa:

Sau khi nghe các bị cáo, các người làm chứng, cáo trạng của ông Chưởng lý, và sau cùng, nghe lời cãi của các bị cáo, ông Chánh án, hai Hội thẩm và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử đề cùng quyết định về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội (Điều thứ 31).

Các văn bản quy định về trình tự, thủ tục phiên toà cũng tiếp tục ghi nhận quyền này của bị cáo.

Ngoài ra tại phiên toà, bị cáo còn có quyền đề xuất lời thỉnh cầu, nói lời sau cùng, được giải thích quyền và nghĩa vụ, được quyền chống án. Điều này thể hiện lần đầu tiên tại mục II, Thông tư số 2225/HCTP ngày 21/10/1956 của Bộ Tư pháp về việc chấn chỉnh thực hiện quyền bào chữa của bị cáo, cụ thể như sau:

– Bị cáo có quyền trình bày lời lẽ bào chữa, khai nại, đưa ra chứng cớ mới, xin mời người làm chứng mới, mời người giám định v.v…;

– Bị cáo được đề xuất bất cứ một thỉnh cầu nào hoặc phản đối bất cứ một thỉnh cầu nào của người khác trong quá trình vụ án;

– Bị cáo lại có quyền trình bày viết những lời thanh minh và những điều chỉnh thỉnh cầu của mình.

– Bị cáo phải được biết về nội dung buộc tội trước ngày phiên tòa xét xử một thời gian cần thiết để bị cáo có đủ thì giờ chuẩn bị việc bào chữa trước phiên tòa.

– Trong phiên tòa, bị cáo được viện dẫn tất cả chứng cớ và lý lẽ để chứng minh rằng mình không có tội hoặc trình bày những tình huống giảm nhẹ tội mà không bị ai cản trở.

– Sau khi cuộc thẩm vấn kết thúc, bị cáo được nói lời cuối cùng. Bị cáo có quyền chống án trong thời hạn luật định nếu họ không phục bản án xử sơ thẩm [10]

Chính việc lần đầu tiên quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bị cáo nên Thông tư số 2225/HCTP là một trong những văn bản pháp lý quan trọng liên quan đến quyền của người bị buộc tội. Đó là các quyền được mời người làm chứng mới, quyền mời người giám định, quyền nói lời cuối cùng, quyền chống án… Tiếp theo Thông tư 2225/HCTP [10], các quyền này cũng tiếp tục được ghi nhận tại Thông tư 16/TATC ngày 27/9/1974 [54], Sắc luật số 01/SL-76 ngày 15/03/1976 [41].

Bên cạnh những quy định ở các văn bản pháp lý này thì Hiến pháp 1946, 1959 và 1980 cũng ghi nhận những quyền cơ bản bị cáo. Đó là quyền được bình đẳng trước PL, bình đẳng trước TAND; tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín; được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong quá trình tố tụng; được xét xử công khai, được suy đoán vô tội…

Ngoài các quyền nói trên, bị cáo thời kỳ này có nghĩa vụ phải chấp hành các quy định của cơ quan tiến hành tố tụng.

Nói tóm lại, quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo trong giai đoạn 1945 -1988 mặc dù có nhiều quy định nhưng không tập trung, nằm rải rắc ở nhiều văn bản, do vậy các quyền và nghĩa vụ này chưa được rõ ràng và chưa có cơ chế đảm bảo. Đây cũng là lý do BLTTHS 1988 được ra đời. Tuy vậy, chúng ta cũng cần đánh giá cao những nỗ lực của các nhà lập pháp trong việc từng bước xây dựng chế định quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo trong thời kỳ đầu của đất nước, bởi đây là thời kỳ vô cùng khó khăn của Cách mạng Việt Nam khi vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ Tổ quốc.

1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988

Bộ luật TTHS 1988 là BLTTHS đầu tiên của nước ta. Sự ra đời của Bộ luật này đã đánh dấu mốc vô cùng quan trọng trong quá trình pháp điển hoá những quy định tố tụng hình sự bởi nó đã“quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [27, Điều 1]. Bởi vậy, BLTTHS 1988 đã quy định tương đối đầy đủ về các vấn đề trong quá trình TTHS, bao gồm cả chế định liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị cáo.

Trước hết, ngoài các quyền và nghĩa vụ cụ thể của bị cáo thì họ có quyền và nghĩa vụ chung được quy định ở phần nguyên tắc của BLTTHS 1988. Theo phần chung thì bị cáo có quyền được bình đẳng trước PL, được tôn trọng các quyền cơ bản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh sự và nhân phẩm, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Thêm nữa, bị cáo có quyền được suy đoán vô tội, không có trách nhiệm phải chứng minh mình vô tội, được dùng tiếng nói chữ viết trong tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền được bình đẳng trước Tòa án, có quyền được xét xử bằng một án công khai hoặc được tuyên án công khai bằng một bản án.

Bị cáo có nghĩa vụ chung đó là tôn trọng nhân phẩm, danh dự, sức khỏe và tính mạng của người khác mà trước hết là người THTT và người tham gia tố tụng. Ngoài các quyền và nghĩa vụ chung, bị cáo theo quy định tại Điều 34 BLTTHS 1988 lại có những quy định riêng như:

Bị cáo được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; được tham gia phiên toà; được đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLHS; đưa ra chứng cứ và những yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; được kháng cáo bản án và quyết định của TAND [27, Điều 34].

Đầu tiên, bị cáo được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định này được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa [27, khoản 1 Điều 157]. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có: tội danh và điều khoản BLHS mà VKS viện dẫn đối với hành vi của bị cáo, họ tên TP, HTND, TKTA, họ tên KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa, vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa. Việc quy định này là để tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Trong trường hợp bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định thì bị cáo có quyền yêu cầu HĐXX hoãn phiên toà.

Bị cáo có quyền tham dự phiên toà, sự có mặt tại phiên tòa vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của bị cáo: “Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa” [27, Điều 62.].

Tại phiên tòa, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS. HĐXX xem xét và quyết định đề nghị này của bị cáo.

Bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu, có quyền tự bào chữa hoặc nhờ khác bào chữa. Bị cáo có quyền trình bày những nhận xét của mình về vật chứng, về những tài liệu của vụ án và nhận xét về kết luận giám định.

Bị cáo có quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án. Lời nói sau cùng thể hiện thái độ cuối cùng của bị cáo đối với các tình tiết có liên quan trong vụ án, cho nên theo quy định của TTHS, không ai được đặt câu hỏi, không được hạn chế thời gian, trừ trường hợp bị cáo trình bày những điểm không có liên quan đến VAHS.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án. Đây là một trong những quyền cơ bản của bị cáo. Sau phiên tòa bị cáo được xem biên bản phiên tòa. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị cáo cũng có quyền được nhận thông báo kháng cáo, kháng nghị nếu có kháng cáo, kháng nghị của VKS, của những người tham gia tố tụng khác. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng được hưởng các quyền như tại phiên tòa sơ thẩm.

Bị cáo có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT; nếu vắng mặt không rõ lý do thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì có thể bị truy nã. Bị cáo có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của các cơ quan THTT như áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Bị cáo có nghĩa vụ chấp hành nội quy phiên tòa, đóng án phí hoặc bồi thường dân sự (nếu có).

Có thể nói trong BLTTHS 1988, quyền và nghĩa vụ của bị cáo đã phần nào được đảm bảo, đáp ứng yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử các VAHS lúc bấy giờ. Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn còn rất nhiều những hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung để chế định quyền và nghĩa vụ của bị cáo hoàn thiện hơn.

1.2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trong BLTTHS 2003

Ngày 01.7.2004, BLTTHS 2003 chính thức có hiệu lực thay thế BLTTHS 1988, đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến bị cáo, cụ thể như sau:

Đã quy định rõ hơn một số quyền: Quy định cho bị cáo có quyền được nhận các văn bản như quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, bản án, quyết định …, và quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ, được khiếu nại quyết định và hành vi của người có thẩm quyền, quyền trình bày ý kiến và tranh luận tại phiên tòa (TAND) …. [28, Điều 50].

Còn tại Điều 57 BLTTHS 2003 đã bổ sung thêm quy định Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, các thành viên của mặt trận tổ quốc có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho bị cáo là thành viên của tổ chức mình [28]

Trong khi tại Điều 58 BLTTHS 2003 cũng đã mở rộng quyền bào chữa theo hướng bổ sung thêm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cũng quy định rõ trách nhiệm của người bào chữa [28].

Về tranh tụng tại phiên tòa: Tuy BLTTHS 1988 đã có quy định về tranh tụng, nhưng những quy định đó chưa thể hiện đầy đủ việc tranh tụng, nhất là tranh tụng tại phiên tòa. Do vậy trong Nghị quyết số 08/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định là: Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước PL, thực sự dân chủ, khách quan; TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo PL; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng PL, có sức thuyết phục và trong thời hạn PL quy định” [6].

Và để thể chế hóa quan điểm của Đảng và NN về tranh tụng tại phiên tòa, nâng cao chất lượng xét xử các VAHS, BLTTHS 2003 đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước TAND và các quy định khác để KSV phải chủ động trong việc thực hành quyền công tố, khi tranh luận còn có ý kiến khác nhau thì KSV phải đưa ra lập luận của nình đối với từng ý kiến. Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền tranh luận dân chủ tại phiên tòa, HĐXX khi nghị án chỉ được căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác [28, Điều 217, 218, 222].

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 4/ VO PHUONG QUANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *