Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn huyện Phù Mỹ

Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn huyện Phù Mỹ

Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Đị

1. Tính cấp thiết của đề tài

Văn hóa luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội, tác động đến hầu hết lĩnh vực hình thành nhân cách, đạo đức, phẩm chất, tình cảm, năng lực, thẩm mỹ… của mỗi cá nhân và cộng đồng. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn hóa luôn giữ vai trò là động lực, là mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là hệ điều tiết nhằm khắc phục những mâu thuẫn vốn có của nền kinh tế thị trường. Sự tác động của văn hóa đối với phát triển kinh tế và xã hội được thực hiện thông qua việc thiết lập và ứng dụng những khuôn mẫu, giá trị đạo đức, giá trị tinh thần được xã hội thừa nhận, từ đó định hướng cho kinh tế – xã hội phát triển theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Để “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” thì việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, đặc biệt là quản lý các hoạt động văn hóa ở cấp cơ sở trở nên rất cấp thiết và được quan tâm hơn bao giờ hết.

Trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước, công tác quản lý nhà nước về văn hóa là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên và có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa đã bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập, cơ chế, chính sách về văn hóa – xã hội còn chậm đổi mới. Một trong những nguyên nhân đó, ngoài nhận thức chưa đúng về vai trò của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, phát triển con người, có sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý văn hoá.

Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. Trong hoạt động kinh tế chưa chú ý đến các yếu tố văn hoá, các yêu cầu phát triển văn hoá tương ứng. Mức đầu tư ngân sách cho văn hoá còn thấp. Chính sách đào tạo bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm công tác văn hoá còn nhiều bất hợp lý. Những lệch lạc và việc làm sai trái trong văn hoá – văn nghệ chưa được kịp thời phát hiện, việc xử lý bị buông trôi, hoặc có khi lại dùng những biện pháp hành chính không thích hợp.

Công tác quản lý văn hóa cơ sở, đặc biệt là quản lý văn hóa cấp huyện đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu cả về phương diện lý luận và thực tiễn.

Huyện Phù Mỹ đã tổ chức triển khai tốt các nhiệm vụ trên lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể thao. Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa được chú trọng, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; đồng thời phục vụ có hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh Bình Định phát động. Tuy nhiên, những năm gần đây, hoạt động quản lý văn hóa trên địa bàn huyện Phù Mỹ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và bộc lộ những tồn tại, hạn chế.

Là một người con sinh sống và lớn lên trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tôi nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa và công tác quản lý văn hóa, nên tôi lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học. Hy vọng những kết quả nghiên cứu của tôi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý văn hóa, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng toàn diện, mạnh mẽ và bền vững của huyện Phù Mỹ trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về công tác quản lý nhà nước về văn hoá. Trên cơ sở đó, luận văn khảo sát và đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Phù Mỹ. Từ đó, đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về những vấn đề văn hóa từ thực tiễn trên địa bàn huyện Phù Mỹ.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước về văn hóa và đặc điểm, nội dung, nguyên tắc của quản lý văn hóa cấp huyện trong giai đoạn hiện nay.

– Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về những vấn đề văn hóa từ thực tiễn trên địa bàn huyện Phù Mỹ, đồng thời phân tích các nguyên nhân chủ quan và khách quan của hiện trạng.

– Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về những vấn đề văn hóa từ thực tiễn trên địa bàn huyện Phù Mỹ thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Công tác quản lý nhà nước về những vấn đề văn hóa từ thực tiễn trên địa bàn huyện Phù Mỹ (gồm hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động; kinh doanh dịch vụ văn hóa; quản lý di tích lịch sử – văn hóa và lễ hội truyền thống – hiện đại, quản lý hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; quản lý các thiết chế văn hóa, TDTT; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn giới hạn việc nghiên cứu, khảo sát những lĩnh vực cụ thể trong công tác quản lý nhà nước về những vấn đề văn hoá từ thực tiễn nói trên tại địa bàn những năm gần đây (vì đây là khoảng thời gian trên địa bàn huyện Phù Mỹ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015-2020).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:

– Phân tích tổng hợp: Trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu, các tài liệu, các báo cáo khoa học, về hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa mà tác giả tổng hợp, tìm ra và phân tích, đưa vào luận văn của mình.

– Phương pháp khảo sát thực địa: tác giả sử dụng thao tác: Phỏng vấn sâu: Các cán bộ văn hóa, người dân; Quan sát, tham dự việc tổ chức các hoạt động văn hóa để biết được thực trạng, nhu cầu sinh hoạt văn hóa của người dân; So sánh để thấy được điểm mạnh, điểm yếu, sự khác biệt để hoàn thiện hơn trong công tác tổ chức quản lý nhà nước; Miêu tả, phỏng vấn, thu thập các tài liệu về nhu cầu sinh hoạt văn hóa của cư dân trên địa bàn huyện, đội ngũ cán bộ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Ngoài ra, để thực hiện tốt sự nghiên cứu cho luận văn của mình, tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành về văn hóa và một số phương pháp khác (phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh….).

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa và quản lý văn hóa ở cấp huyện; bước đầu đánh giá được thực trạng công tác quản lý văn hóa trên địa bàn huyện Phù Mỹ, những đề xuất, kiến nghị trong luận văn sẽ là cơ sở cho chính quyền huyện Phù Mỹ tiếp tục đổi mới nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý văn hóa trong thời gian tới, đồng thời đây cũng là tài liệu tham khảo cho các địa phương lân cận sử dụng trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa, trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về quản lý văn hóa của các nhà trường và trung tâm/viện nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn gồm có 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề quản lý nhà nước về văn hóa

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Văn hóa

Có nhiều định nghĩa về văn hóa nhưng phổ biến và được nhiều người công nhận là văn hóa bao gồm tất cả những giá trị tinh thần và vật chất mà con người tạo ra trong quá trình lao động, sinh sống thực tiễn suốt chiều dài lịch sử. Qua văn hóa, người ta có thể đánh giá trình độ phát triển của xã hội qua các thời kì lịch sử cụ thể. Nói chung, hiểu một cách đơn giản như theo Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hóa, đại ý như sau: vì con người cần phải sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống nên phát minh và sáng tạo ra chữ viết, ngôn ngữ, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, khoa học cũng như văn học nghệ thuật, sáng tạo ra các công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn ở, mặc cùng các phương thức sử dụng; tất cả những điều mà con người phát minh và sáng tạo ra chính là văn hóa. Như vậy, văn hóa do con người sáng tạo ra để phục vụ lợi ích của mình. Văn hóa là của con người và được cộng đồng giữ gìn qua các thế hệ, được dùng để phục vụ đời sống con người có tính lưu truyền và kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Tóm lại, văn hóa ra đời và phát triển theo hình thái kinh tế – chính trị tương ứng trong mỗi thời kì lịch sử mà ở đó, ý thức hệ của giai cấp thống trị có ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp luật, chính sách quản lý văn hóa trong xã hội. Đặc điểm của văn hóa là có tính kế thừa. Trong các xã hội có giai cấp, văn hóa luôn mang tính giai cấp và gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền. Khi kinh tế xã hội lành mạnh sẽ có nền văn hóa công bằng, lành mạnh. Ngược lại, kinh tế bất bình đẳng sẽ khó có được nền văn hóa lành mạnh.

Nói cách khác và đơn giản hơn, văn hóa là sự kết tinh những gì mà con người đã làm, đã suy nghĩ và hành động sau một chu trình lịch sử. Những nét văn hóa đặc trưng hay còn gọi là bản sắc sẽ giúp chúng ta phân biệt văn hóa của thời kỳ này so với các thời kỳ khác, văn hóa của dân tộc này so với các dân tộc, quốc gia khác. Như vậy, cộng đồng nào trong quá trình sinh sống cũng đều có bản sắc văn hóa riêng của mình. Không có dân tộc nào, quốc gia nào trên thế giới lại không có văn hóa của mình. Cộng động sinh sống bên cạnh đời sống vật chất sẽ luôn có đời sống tinh thần kèm theo cho nên đều tạo ra văn hóa riêng.

1.1.2. Quản lý

Quản lý là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, ở mỗi lĩnh vực hoạt động người ta có thể đưa ra những khái niệm khác nhau về quản lý.

Theo Hán Việt từ điển cho rằng: “Quản lý là sự trông nom, coi sóc, quản thúc, bó buộc ai đó theo một khuôn mẫu, quy định, nguyên tắc, luật pháp đã đề ra” [2, tr.489].

Quản lý là sự kết hợp của ba phương diện: Thứ nhất, thông qua tập thể để thúc đẩy tính tích cực của cá nhân; thứ hai điều hòa quan hệ giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên; thứ ba, tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác tạo ra giá trị lớn hơn giá trị cá nhân – giá trị tập thể.

Trong hoạt động quản lý, phải có ít nhất một chủ thể quản lý (cá nhân hay cơ quan) và ít nhất một đối tượng quản lý (con người – một cá nhân hay nhiều người hoặc một bộ phận của giới vô sinh hay sinh vật) gián tiếp hay trực tiếp tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Hoạt động quản lý bao giờ cũng nhằm đạt được một mục đích nhất định. Các yếu tố khác tạo nên môi trường của hệ thống, chính là khách thể của hoạt động quản lý.

Tóm lại, có thể hiểu khái niệm về hoạt động quản lý như sau: Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng và khách thể quản lý bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.

1.1.3. Quản lý nhà nước về văn hóa

Có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng thực chất của quản lý nhà nước về văn hóa chính là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành của nhà nước, mục đích là làm cho văn hóa phát triển theo hướng vì sự phát triển bền vững của con người và xã hội. Vậy có thể hiểu: Quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của nhà nước đối với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua hiến pháp, pháp luật và cơ chế chính sách nhằm bảo đảm sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.

Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về văn hóa ở nước ta được thực hiện thông qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: Cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước về văn hóa được thể hiện trong hoạt động quản lý có tính chất nhà nước nhằm điều hành các hoạt động văn hóa, được thể hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành pháp (Chính phủ, Bộ VHTT&DL; UBND cấp tỉnh, Sở VHTT&DL; UBND cấp huyện; Phòng VH&TT cấp huyện; UBND cấp xã…).

Quản lý văn hóa là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện chất lượng sống của người dân.).

Theo sách Lược sử quản lý văn hóa ở Việt Nam của tác giả Hoàng Sơn Cường thì “Quản lý văn hóa là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành cho văn hóa phát triển không ngừng theo hướng có ích cho con người, giúp cho xã hội loài người không ngừng đi lên” [16, tr.28].

Hoạt động văn hóa là một dạng hoạt động xã hội quan trọng, tất yếu phải có sự quản lý của nhà nước, chính vì thế quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa là tất yếu khách quan. Do hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng tạo, là hoạt động tư tưởng và còn là hoạt động kinh tế, nên quản lý văn hóa là hoạt động xã hội mang tính đặc thù. Bởi thứ nhất, hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng tạo, có thể làm ra các sản phẩm văn hóa mang giá trị lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống, con người. Thứ hai, hoạt động văn hóa còn là hoạt động tư tưởng, có khả năng gây “hiệu ứng” (tốt hoặc xấu) trong xã hội. Thứ ba, hoạt động văn hóa còn là hoạt động kinh tế vừa là động lực, vừa là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Chính vì tính đa năng của hoạt động văn hóa, nên quản lý trên lĩnh vực văn hóa mang tính đặc thù. Tính đặc thù của quản lý văn hóa không những thể hiện trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống văn hóa, mà nó còn thể hiện ở công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở các cấp, từ vĩ mô đến các đơn vị cơ sở.

Hơn bất kỳ lĩnh vực nào, lĩnh vực văn hóa là lĩnh vực yêu cầu có sự lãnh đạo và quản lý nhà nước, vì vậy cần phải xác định rõ đối tượng thuộc phạm vi văn hóa mà nhà nước cần phải quản lý. Nhà nước có thể quản lý được và cần quản lý là đời sống văn hóa, hoạt động văn hóa. Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng trực tiếp quản lý những công trình văn hóa (công trình lịch sử văn hóa cũng như công trình nghệ thuật) và những cơ sở trực tiếp phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân.

Nhà nước là người đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền có trong hiến pháp của công dân về văn hóa, điều tiết sự hài hòa của cơ cấu văn hóa, lợi ích văn hóa của nhóm xã hội, các yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của toàn xã hội trước các mâu thuẫn, nghịch lý nảy sinh từ sự vận động, phát triển xã hội.

Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, là người hưởng thụ văn hóa. Hoạt động văn hóa là một hoạt động phức tạp diễn ra trên bình diện rộng, trong tất cả các hoạt động xã hội. Vì thế, quản lý nhà nước về văn hóa thực chất là quản lý con người tham gia các hoạt động văn hóa để thực hiện chức năng và nhiệm vụ đặt ra cho quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa.

1.2. Nguyên tắc, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về văn hóa

1.2.1. Nguyên tắc

Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động Nhà nước trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đảng lãnh đạo là đề ra đường lối chính sách, chiến lược, xác định các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ và các giải pháp lớn để định hướng cho sự phát triển của nền văn hóa thông qua các Nghị quyết của Đảng, thông qua công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng. Đảng không làm thay nhà nước. Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, thể chế hóa các quan điểm của Đảng thông qua hệ thống: Hiến pháp, pháp luật, thông qua thể chế, thiết chế hoạt động quản lý. Mặt khác phải phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị xã hội, các hội sáng tạo, các cộng đồng dân cư trong việc thực hiện các nhiệm vụ văn hóa.

Nguyên tắc Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, chỉ đạo mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Yêu cầu nguyên tắc này là: nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền dân chủ. Nhà nước phải nắm quyền thống nhất quản lý, đồng thời giao quyền và trách nhiệm cho địa phương. Tập trung và dân chủ là một thể thống nhất không đối lập nhau, không hạn chế nhau (tập trung trên tinh thần dân chủ). Trên cơ sở nâng cao dân trí cho nhân dân; xây dựng Chính phủ thông minh và một nhà nước hiệu quả để đảm bảo vai trò quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Nguyên tắt Kết hợp quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ. Nhà nước là một thể thống nhất, bộ máy nhà nước tổ chức hoạt động theo các cấp hành chính nhà nước và thực hiện theo quy định cấp dưới phục tùng cấp trên. Địa phương phải phục tùng Trung ương. Các đơn vị văn hóa ở địa phương vừa phải chịu sự quản lý của ngành, vừa chịu sự quản lý về lãnh thổ của địa phương. Hệ thống hành chính chia làm 4 cấp: Trung ương (Quốc hội, Chính phủ); tỉnh, thành phố; cấp huyện, cấp xã.

Nguyên tắc Phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về văn hóa và/với chức năng quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Công tác quản lý nhà nước tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Xác định chiến lược đầu tư cơ sở hạ tầng và khu vực trọng yếu của nền văn hóa, xây dựng hệ thống thiết chế và thể chế để hoạt động văn hóa. Các doanh nghiệp hoạt động văn hóa theo cơ chế thị trường và theo nguyên tắc quản lý kinh tế nhưng phải chú ý tới tính đặc thù và các lĩnh vực văn hóa để điều tiết cụ thể, tránh đồng nhất quản lý kinh tế với quản lý văn hóa. Nhà nước là chủ thể quản lý các doanh nghiệp trên lĩnh vực văn hóa trước hết phải tạo môi trường pháp lý để doanh nghiệp phát triển. Nhà nước đảm bảo quyền tự do kinh doanh trên cơ sở tôn trọng hiến pháp và pháp luật.

Nguyên tắc Pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đòi hỏi mọi tổ chức, mọi cơ quan quản lý và mọi cá nhân hoạt động trên lĩnh vực văn hóa phải dựa trên cơ sở pháp luật của nhà nước để thực hiện trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Chống sự tùy tiện, đứng ngoài và đứng trên pháp luật.

Nguyên tắc Công khai: Nguyên tắc này đòi hỏi các tổ chức hoạt động quản lý của nhà nước phải công khai cho nhân dân biết trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các cơ sở làm việc về các chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý và các chế độ chính sách đối với nhân dân. Các cơ quan giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp phải chú ý đến dư luận xã hội để kịp thời điều chỉnh các quyết định về quản lý cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.

1.2.2. Nội dung

Quản lý văn hóa là quản lý toàn bộ nền văn hóa từ vĩ mô tới vi mô. Quản lý đảm bảo cơ bản trên bình diện tổng thể các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và thiết chế văn hóa, tạo môi trường lành mạnh trong quá trình sáng tạo, lưu giữ, bảo quản, dịch vụ, truyền bá, tiếp nhận và thưởng thức, đánh giá các quá trình văn hóa.

Theo Vũ Thị Phương Hậu thì nội dung quản lý nhà nước về văn hóa ở nước ta tập trung vào các vấn đề sau: “Lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa: Lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa trong từng giai đoạn để thực hiện đường lối và định hướng phát triển của Đảng đối với văn hóa. Thể chế văn hóa bao gồm hai loại hệ thống chuẩn mực: Chuẩn mực luật pháp và chuẩn mực phong tục tập quán” [25, tr.15]

Ở Việt Nam, Điều 60 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xâydựng và bảo vệ Tổ quốc; Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân” [37].

Nhà nước còn ban hành các đạo luật riêng đối với một số hoạt động văn hóa như: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản Văn hóa, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo,…

Căn cứ vào các đạo luật và các văn bản pháp quy đã ban hành, có 12 lĩnh vực hoạt động văn hóa cần được quản lý như: báo chí, xuất bản, internet, quảng cáo, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, thư viện, bảo tồn, bảo tàng, văn hóa thông tin cơ sở, văn hóa các dân tộc thiểu số; quyền tác giả, nhận bút, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm; tổ chức bộ máy quản lý văn hóa; đào tạo, thanh tra, kiểm tra.

Các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa, đặc biệt có ý nghĩa khi chúng ta đang tiến hành chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa trong nền kinh tế thị trường.

Hướng dẫn việc triển khai kế hoạch và các hoạt động văn hóa, tổ chức kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa: Cùng với việc tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động văn hóa, là những nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước đối với văn hóa. Đổi mới cơ chế, kiểm tra, giám sát hoạt động văn hóa và các dịch vụ văn hóa theo 3 hướng: hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp quy; kiện toàn đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát của ngành từ Trung ương tới cơ sở; tổ chức và sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các cơ quan sản xuất và cung ứng dịch vụ văn hóa, xác định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước.

Xây dựng và sử dụng nguồn lực, kinh phí cho các hoạt động văn hóa: Đây là một nhiệm vụ cụ thể nhưng có vị trí vô cùng quan trọng trong chức năng quản lý nhà nước. Tăng cường ngân sách cho phát triển văn hóa đang là khuynh hướng chung của các nước trên thế giới. Việc đầu tư và sử dụng các nguồn lực phải trên cơ sở các mô hình hoạt động văn hóa cụ thể.

Đồng thời, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa: Trên thế giới có nhiều cách cấu tạo bộ máy quản lư văn hóa khác nhau và có những phân cấp quản lý khác nhau. Do đối tượng của chính sách văn hóa không phải chỉ là những hoạt động riêng của bộ mang tên “Văn hóa” nên có những mô hình về bộ máy quản lý văn hóa không giống nhau.

Đối với ngành văn hóa thông tin ở nước ta hiện nay, hoạt động quản lý văn hóa được tiến hành căn cứ vào các mảng cơ bản như: Lĩnh vực thuộc tổ chức bộ máy quản lý văn hóa, quản lý nhà nước về văn hóa nghệ thuật, về văn hóa thông tin, về văn hóa xã hội, di sản văn hóa, xuất nhập khẩu văn hóa, công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý công tác đào tạo…

Công tác quản lý chủ yếu được thực hiện theo quy trình đi từ Trung ương đến cơ sở theo sơ đồ sau:

– Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Từ tháng 07/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Theo đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lư nhà nước về văn hóa, gia đình, TDTT và du lịch trong phạm vi cả nước, quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực văn hóa, gia đình, TDTT và du lịch theo quy định của pháp luật… Riêng về lĩnh vực quảng cáo, Bộ thống nhất quản lý về quảng cáo như cấp, đổi, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép đặt chi nhánh của tổ chức, cá nhân hoạt động quảng cáo trên các phương tiện (trừ báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm)…

Cũng theo Nghị định số 76/2013/NĐ-CP thì Bộ VHTT&DL có các nhiệm vụ sau:

Trình Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội, Ủy viên Ban Thường vụ Quốc hội; các dự thảo Nghị quyết; Nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật của Bộ đã được phê duyệt và các đề án khác theo sự phân công của Chính phủ.

Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, năm năm, hàng năm; chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động và các dự án, công trình quan trọng quốc gia, các dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về văn hóa, gia đình, TDTT và du lịch.

Trình Thủ tướng Chính phủ các giải thưởng, danh hiệu vinh dự Nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch; quyết định thành lập các Hội đồng quốc gia về lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch.

Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

Về cơ cấu tổ chức, ngoài Văn phòng, Thanh tra và những vụ chuyên môn trực thuộc, Bộ còn gồm 8 cục (Cục công tác phía Nam, Cục Di sản văn hóa; Cục Điện ảnh; Cục Bản quyền tác giả; Cục Văn hóa cơ sở; Cục Hợp tác quốc tế; Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm); 2 Tổng cục (TDTT, Du lịch) và một số Ban, viện, Trung tâm khác.

Chính quyền địa phương với cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về văn hóa thông tin (Sở VHTT&DL của các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng VH&TT cấp huyện; Ban văn hóa cấp xã) có chức năng quản lý sự nghiệp văn hóa trên địa bàn theo sự phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương.

– Sở VHTT&DL: Là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh (Quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ: Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương), có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Thông tư liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV, ngày 06/6/2008: Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở VHTT&DL thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng VH&TT cấp Huyện.

– Phòng VH&TT cấp huyện là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện (Quy định tại Nghị định 37/2014/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ). Có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp Huyện quản lý nhà nước về: văn hóa, gia đình, TDTT, du lịch, thông tin truyền thông và các dịch vụ công thuộc lĩnh vực văn hóa, gia đình, TDTT và du lịch trên địa bàn cấp huyện.

1.2.3. Phương thức

Về phương thức quản lý văn hóa: Đây là tổng thể các cách thức, phương pháp nhằm tác động có chủ đích, có thể có được của Nhà nước, nhằm tổ chức điều hành các hoạt động văn hóa hướng tới thực hiện những mục tiêu nhất định. Quá trình quản lý văn hóa là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc đó được vận dụng thể hiện theo những phương pháp nhất định. Phương pháp quản lý văn hóa là biểu hiện cụ thể mối quan hệ qua lại giữa nhà nước với đối tượng và khách thể quản lý. Vì vậy phương pháp quản lý cũng đa dạng và sinh động, trong quá trình phải căn cứ vào mục tiêu để lựa chọn phương pháp và điều chỉnh phối hợp các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất.

Phương pháp hành chính: Là tác động trực tiếp bằng các quy định dứt khoát mang tính quyền lực bắt buộc của nhà nước lên khách thể. Trong những tình huống cụ thể nhằm đạt mục tiêu trong các tình huống. Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính trong quản lý văn hóa là tính nguyên tắc và tính quyền lực. Nó đòi hỏi đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định hành chính. Nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải sử dụng đúng và đầy đủ quyền lực của mình trong các tác động hành chính gắn với thẩm quyền của mình. Thực chất của phương pháp này là sử dụng quyền lực quản lý nhà nước để tạo ra sự phục tùng của cá nhân và các tổ chức. Vai trò của hành chính tạo ra các kỷ cương của nhà nước và cộng đồng, trong quản lý văn hóa thì văn bản quản lý phải chính xác, khoa học… gắn với thẩm quyền của các cấp quy định.

– Phương pháp kinh tế: Tác động vào đối tượng quản lý thông qua các phương pháp kinh tế để đối tượng quản lý lựa chọn phương pháp hiệu quả nhất trong phạm vi của họ. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực văn hóa đều tuân thủ các quy luật kinh tế khách quan như: Quy luật cạnh tranh, quy luật quản lý giá trị, quy luật cung cầu… Tác động thông qua lợi ích kinh tế, tạo ra động lực thúc đẩy con người tích cực hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Để thực hiện mở rộng, áp dụng các phương pháp kinh tế vào quản lý văn hóa, nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ thị trường, phải thực hiện việc phân cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho cấp dưới, sử dụng phương pháp kinh tế trong quản lý văn hóa đòi hỏi cán bộ quản lý phải có năng lực trình độ nhiều mặt; kiến thức văn hóa, kinh tế, luật pháp… cũng như đạo đức nghề nghiệp.

Phương pháp giáo dục: Là cách thức tác động tình cảm, nhận thức của con người nhằm nâng cao tính tự giác và tính tích cực công dân trong thực hiện nhiệm vụ chung. Để tác động vào con người không chỉ là phương pháp hành chính, kinh tế mà cần giáo dục, thuyết phục… tác động tới tinh thần tình cảm, tâm lý xã hội… phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng quy luật tâm lý. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, làm cho con người nhận thức được phải trái, đúng sai, thiện ác… từ đó nâng cao tính tích cực công dân của họ. Để thực hiện chức năng quản lý văn hóa, các chủ thể quản lý phải vận dụng tổng hợp phương pháp và căn cứ vào điều kiện cụ thể, yêu cầu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển để nhấn mạnh phương pháp này hay phương pháp khác.

1.3. Định hướng của Đảng và Nhà nước

1.3.1. Đường lối của Đảng

Quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý văn hóa trên địa bàn huyện Phù Mỹ đòi hỏi các cấp, các ngành phải quán triệt quan điểm của Đảng về sự gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, phát triển con người và xã hội trong giai đoạn mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) nhấn mạnh: “Phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và các hoạt động xã hội, vào từng người và từng gia đình, từng tập thể và từng cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, từng bước tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [17].

Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm qua khẳng định tính đúng đắn và tầm quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII). Đây là cương lĩnh văn hóa, chiến lược của Đảng ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc cũng chính là đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình phát triển đất nước. Nó có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh thế giới ngày nay.

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) cũng đưa ra 10 nhiệm vụ cụ thể được tóm tắt như sau: Xây dựng con người Việt Nam với những đức tính: Yêu nước, tự hào dân tộc, đấu tranh vì độc lập dân tộc, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, lao động chăm chỉ, thường xuyên học tập, nâng cao trình độ….

Xây dựng môi trường văn hóa tạo ra ở các đơn vị cơ sở, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, trường học…

Phát triển sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng, bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, có chính sách văn hóa với tôn giáo, củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa mà nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm là: Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội.

Đảng ta đã quyết tâm thực hiện đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đất nước, không chỉ riêng kinh tế mà còn cả văn hóa, giáo dục, y tế, con người là vốn quý nhất. Nghị quyết của Đảng xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng xã hội dân chủ công bằng, nhân ái, thiết lập mối quan hệ con người tốt đẹp và tiến bộ trong sản xuất cũng như trong đời sống để từ đó tăng hiệu quả gấp bội về kinh tế và xã hội. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải giải quyết tốt vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng của đời sống xã hội như: Giáo dục, y tế, thông tin, phúc lợi công cộng, phát huy các giá trị văn hóa của truyền thống dân tộc.

Mọi chủ trương của Đảng phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người thể hiện trên một lĩnh vực quan trọng như giáo dục và đào tạo con người.

Ở nước ta công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đòi hỏi đưa văn hóa vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để khai thác, huy động cao nhất nhân tố con người, tiềm năng của đất nước và điều kiện của thời đại nhằm tạo những biến chuyển vững chắc cho phát triển. Đạo đức, lối sống, nghệ thuật, sinh thái, sự an toàn và phát triển đầy đủ năng lực là những nhu cầu không thể thể hiện bằng tiền, thị trường ít quan tâm. Nhưng trong bối cảnh mở cửa ra thế giới đòi hỏi Nhà nước ta phải tạo dựng và khuyến khích các nhu cầu này như nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền vững.

Chính sách mở cửa của Nhà nước đã tạo ra sự tiếp xúc chưa từng có của dân tộc với nước ngoài, tác động mạnh mẽ đến văn hóa tư tưởng kể cả tích cực và tiêu cực, thông qua con đường vô tuyến viễn thông hòa nhập kinh tế thế giới, giao lưu văn hóa, phát triển du lịch. Cũng lợi dụng chính sách mở cửa trên, kẻ thù cũng sử dụng những vũ khí văn hóa để tấn công phá hoại công cuộc phát triển của chúng ta.

Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) cũng khẳng định: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảođảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” [19].

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) cũng đặt mục tiêu chung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Và với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” [22].

1.3.2. Chính sách của Nhà nước

Hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy trong lĩnh vực văn hóa và quản lý văn hóa ở Việt Nam đang dần hoàn thiện, đây là cơ sở cho công tác quản lý nhà nước của chính quyền từ trung ương tới địa phương, tạo thuận lợi, hành lang pháp lý cho hoạt động văn hóa của các tổ chức, cá nhân.

Nội dung bao quát của các chính sách đó là: Thống nhất quản lý và phát triển sự nghiệp văn hoá, văn học, nghệ thuật; quy định các biện pháp để bảo tồn, phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, khuyến khích phát triển tài năng sáng tạo văn hoá, nghệ thuật; chống việc truyền bá tư tưởng và sản phẩm văn hoá độc hại, bài trừ mê tín, hủ tục, không ngừng xây dựng nếp sống văn minh trong xã hội.

Chính sách vĩ mô về văn hóa được ghi trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013, quy định tại các điều: Điều 18, Khoản 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”. Điều 41: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa. Điều 60. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” [37].

Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng thời tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.

Chính sách Nhà nước về văn hoá thể hiện trong các luật và các chương trình mục tiêu, chiến lược phát triển văn hoá.

Một số luật về văn hoá: Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Di sản văn hoá, Luật Xuất bản, Luật Điện ảnh, Luật Thư viện, Luật Quảng cáo…

Một số chương trình mục tiêu và Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”: Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu bảo tồn và tôn tạo di tích danh thắng; Chương trình mục tiêu chấn hưng điện ảnh; Chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở; Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; một số chương trình liên quan: Chương trình 135; Chương trình xoá đói giảm nghèo; Chương trình xây dựng nông thôn mới…

Tiểu kết Chương 1

Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về văn hóa là những vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức phong phú, đa dạng, nhiều mặt, bao gồm nhiều nội dung như: Lập kế hoạch, xây dựng thể chế, chính sách văn hóa, hướng dẫn việc triển khai kế hoạch và các hoạt động văn hóa, tổ chức kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa, xây dựng và sử dụng nguồn lực, nguồn kinh phí cho các hoạt động văn hóa, xây dựng kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa. Trong hệ thống quản lý nhà nước về văn hóa ở nước ta hiện nay, quản lý văn hóa cấp huyện có vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà nước. Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quản lý nhà nước đối với văn hóa cấp huyện, trước hết cần phải nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là phải có sự khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa các cơ sở.

Huyện Phù Mỹ có lịch sử văn hóa lâu đời, nơi lưu giữ những dấu ấn của quá trình hình thành và phát triển trong tiến trình phát triển của văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay, huyện Phù Mỹ cần phải có sự tăng cường về công tác quản lý nhà nước về văn hóa của cả hệ thống chính trị trong việc vận hành thể chế, cũng như các thiết chế văn hóa, nhằm nâng cao hiệu lực, chất lượng quản lý văn hóa trên địa bàn huyện Phù Mỹ.

Kết quả nghiên cứu về phương diện lý luận ở Chương 1 là tiền đề quan trọng để khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý văn hóa trên địa bàn huyện Phù Mỹ trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý về văn hóa trên địa bàn huyện Phù Mỹ trong thời gian tới.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 4/ TRUONG DUC TIEN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *