Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bới vì pháp luật là công cụ hữu hiệu để giữ vững an ninh, duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, Điều 12 Hiến pháp quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật , không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.  Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp cưỡng chế nhưng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất đó là hình phạt nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định. BLHS năm 2015 quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm trường trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giao dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; gióa dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.

BLHS năm 2015 quy định hệ thống hình phạt bao gồm: 07 hình phạt chính và 07 hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm các hình phạt tù có thời hạn và các hình phạt tù nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy định trong BLHS hiện hành mở rộng hơn so với các BLHS trước đây, điều đó thể hiện nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm, tính nhân đạo trong việc xử lý người phạm tội, giúp họ trở thành người lương thiện có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đồng thời đề cao công tác phòng ngừa và đấu tranh tội phạm, đảm bảo các phán quyết của cơ quan pháp luật đúng pháp luật và được thực thi và bảo vệ đầy đủ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.

Tuy nhiên, trong thực tiễn việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với các hình phạt tù có thời hạn. Nguyên nhân là do pháp luật hình sự quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn còn nhiều bất cập, vướng mắc, có nhiều cách nhận thức và vận dụng khác nhau dẫn đến việc áp dụng và thi hành các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trên thực tế chưa được thống nhất nhưng chưa có văn bản nào kịp thời hướng dẫn. BLHS năm 2015 đã có những sửa  đổi, bổ  sung  hoàn  thiện hơn BLHS năm 1999. Nhưng cho đến nay, không ít cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật tại tỉnh Phú Yên vẫn chưa nhận thức được một cách đúng đắn, đầy đủ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta nên việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong giải quyết các vụ án hình sự là hết sức hạn chế.

Trước yêu cầu và nhiệm vụ cải cách tư pháp của Đảng theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48-NQ/TƯ ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 với nội dung “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm…”, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, những bất cập quy định của pháp luật, những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định của pháp luật.

Xuất phát từ thực trạng nói trên, tác giả lựa chọn đề tài “Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để viết luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, đánh giá thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Phú Yên, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân của nó để đề xuất những giải pháp hoàn thiện những quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong Bộ luật hình sự Việt nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

– Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.

– Đề xuất các giải pháp hoàn thiện BLHS và bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trước yêu cầu cải cách tư pháp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các loại hình phạt này tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam; thực tiễn áp dụng các loại hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong phán quyết, xét xử tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.

– Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trên phạm vi tỉnh Phú Yên trong thời gian 05 năm từ 2014 đến 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước Công hòa XHCN Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự và về vấn đề cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay..

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp, theo tinh thần Nghị quyết 48NQ/TW và 49NQ/TW của Bộ Chính trị về vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lộ trình cải cách tư pháp.

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: Phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài là công trình nghiên cứu cơ bản và toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về vấn đề áp dụng hình phạt trong thực tiễn công tác xét xử và phân tích cơ sở lý luận để áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân. Các giải pháp được nêu trong đề tài là có giá trị rất bổ ích đối với công tác áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên nói riêng, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự của TAND đáp ứng nhu cầu công cuộc cải cách Tư pháp hiện nay.

Phần nội dung của luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo của cán bộ công chức Tòa án và các cơ quan làm công tác áp dụng pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương gồm:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân.

Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.

Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Yên.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Khái niệm, phân loại các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Tội phạm và hình phạt là hai chế định cơ bản của Luật hình sự Việt Nam, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình phạt (trách nhiệm hình sự) là công cụ pháp lý của Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mối quan hệ giữa tội phạm và hình phạt là biểu hiện của mối quan hệ nhân quả trong cắp phạm trù nhân quả trong phép biện chứng. Tức là người phạm tội phải chịu hậu quả về hành vi vi phạm pháp luật do mình thực hiện. BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định mức hình phạt cụ thể”. Kế thừa và phát huy BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 quy định hình phạt như sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”

Do đó, hình phạt được xem là công cụ pháp lý hiệu quả nhất trong công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, là thước đo thái độ lên án của Nhà nước đối với á nhân hay pháp nhân thương mại có hành vi phạm tội, là tiêu chí của công lý và công bằng xã hội. Do đó, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội thì phải chịu một hoặc một số hình phạt nhất định (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) tùy theo tính chất và mức độ, tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra, tùy thuộc vào đặc điểm riêng và tâm sinh lý của mỗi người mà mức độ tác động của hình phạt cũng khác nhau. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ mang tính chất trừng trị mà yêu tố tiên quyết và quan trọng là đảm bảo mục đích giáo dục họ nhận thấy được lỗi lầm để sửa chữa, rèn luyện thành người có ích cho xã hội, không tiếp tục phạm tội. Điều 31 BLHS năm 2015 quy định : “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; gióa dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm”. Trên cơ sở tổng kết công tác xét xử cùng với sự ngày càng đa đạng của hành vi phạm tội, một số hành vi vi phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng chưa được quy định trong BLHS hoặc sự chuyển hóa của tình hình mà hành vi của người phạm tội khôngcòn gây nguy hiểm hoặc ít nguy hiểm cho đời sống xã hội. Do đó, BLHS năm 2015 quy định hệ thống hình phạt đối với người phạm tội gồm các hình phạt chính và hình phạt bổ sung

1.1.2. Khái niệm áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Hệ thống hình phạt là tổng hợp các biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của mỗi loại được sắp xếp thành một danh mục cụ thể theo trình tự nhất định từ nhẹ đến nặng (hay ngược lại) và chỉ do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với ngưòi đã thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, hệ thống hình phạt theo PLHS Việt nam đều có các dấu hiệu: phải được xây dựng một cách khoa học, cân đối và hợp lý, làm cho việc quy định một cách chính xác chế tài của thể đối với các tội phạm tương ứng trong phần riêng của BLHS; việc quy định trình tự của các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt tương ứng với sự phân chia tội phạm thành các nhóm nhất định trong phần chung BLHS; trong hệ thống hình phạt thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau của từng loại hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ cho xã hội của của các nhóm tội phạm; trong hệ thống hình phạt thể hiện rõ được tính chất và mức độ nghiêm khắc khác nhau của từng loại hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ cho xã hội của các nhóm tội phạm; trong hệ thống hình phạt quy định một cách cụ thể, rõ ràng, chính xác, căn cứ và những điều kiện áp dụng đối với từng loại hình phạt nói chung và những giới hạn của các loại hình phạt tù có thời hạn nói riêng.

Theo PLHS Việt Nam, hệ thống hình phạt chia làm hai nhóm là: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Căn cứ chủ yếu để phân biệt hình phạt chính với hình phạt bổ sung là khả năng được áp dụng độc lập của loại hình phạt đối với mỗi tội phạm. Về nguyên tắc, hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập, mỗi tội phạm chỉ có thể bị tuyên một hình phạt chính. Hình phạt bổ sung là hình phạt không thể tuyên độc lập, mà chỉ có thể tuyên kèm theo một hình phạt chính đối với mỗi loại tội phạm và được quy định cụ thể đối với loại tội phạm đó . Khác so với hình phạt chính, hình phạt bổ sung được áp dụng không phải đốỉ với tất cả các loại tội phạm mà chỉ riêng có một số loại tội nhất định và cũng không phải hình phạt bổ sung được áp dụng kèm theo bất kỳ loại hình phạt chính nào. Trong các loại hình phạt, phạt tiền và trục xuất là hai loại hình phạt được quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Việc qui định các hình phạt bổ sung trong Bộ luật Hình sự Việt Nam là một trong những yếu tố mở ra khả năng pháp lý giúp cho việc cá thể hoá hình phạt, bảo đảm tác động có lựa chọn đối với người phạm tội tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Nói một cách khác với chức năng hỗ trợ hình phạt chính, hình phạt bổ sung giúp cho Toà án áp dụng những biện pháp xử lý triệt để và công bằng đối với người phạm tội, để đạt được mục đích tối đa của hình phạt. Đối với một tội phạm Tòa án chỉ được áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể áp dụng một số hình phạt bổ sung.

Điều 32 BLHS năm 2015 quy định đối với người phạm tội thì có hai nhóm hình phạt chính (có 07 loại hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, CTKGG, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình) và hình phạt bổ sung (có 07 loại hình phạt: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, quản chế, cấm cư trú hạn chế hoặc tước một số quyền công dân, hình phạt tiền và hình phạt trục xuất khi không áp dụng hai hình phạt này là hình phạt chính. BLHS không có quy định về khái niệm “Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn” nhưng vấn đề này được đưa ra trong các tài liệu khoa học pháp lý, được nhiều nhà khoa học sử dụng và được thực tiễn thừa nhận.

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không được quy định trong BLHS nhưng đã được đề cập rất nhiều trong nhiều tài liệu khoa học pháp lý của nhiều chuyên gia pháp lý và người làm công tác áp dụng pháp luật. Quy chế pháp lý về quyền con người, quyền công dân là tổng thể các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong các điều ước quốc tế, trong hiến pháp, các đạo luật của quốc gia và được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Khi xác lập quy chế pháp lý về quyền con người và quyền công dân, nhà nước cần tuân theo những nguyên tắc xuất phát từ quyền con người. Quy định các quyền công dân cần thể hiện được các yêu cầu, đòi hỏi của nhân quyền, đó là các nguyên tắc chủ đạo, là nền tảng, là định hướng. Xuất phát từ chủ trương không ngừng phát triển quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ nhất.

Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận các quyền con người, quyền công dân về chính trị, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, các quyền tự do về cá nhân. Xuất phát từ quyền tự do là một khái niệm mô tả tìnhh trạng cá nhân không bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí, nguyện vọng của chính mình. Do đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là các hình phạt không buộc người phạm tội phải cách ly ra khỏi môi trường sống bình thường, hầu như không có sự ép buộc hoặc hạn chế nào; tuy nhiên, họ cũng phải bị tước bỏ hay hạn chế một số quyền và lợi ích nhất định. Trên cơ sở quy định khái niệm hình phạt và các hình phạt đối với người phạm tội được quy định tại các Điều 30 và 32 BLHS năm 2015 có thể đưa ra khái niệm về “ các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn” như sau: các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là các hình phạt chính nừm trong HTPL đuqược quy định trong BLHS do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hay hạn chế một số quyền và lợi ích nhất định của họ nhưng các hình phạt này không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội”

1.2. Đặc điểm của áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

1.2.1. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn xét về bản chất nó là các hình phạt nên nó cũng mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS là: biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trọng Bộ luật này, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội và nhằm tước bỏ hoạc hạn chế quyền, lợi ích của người đó. Tuy nhiên, để thấy được tính ưu việt, nổi trội và chính sách khoan hồng của Nhà nước ta thì các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có những điểm riêng biệt trong sự so sánh với các hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, những điểm khác biệt đó được thể hiện như sau:

– Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường, hầu như không có sự ép buộc hoặc hạn chế nào; tuy nhiên, họ cũng phải bị tước bỏ hay hạn chế một số quyền và lợi ích nhất định. Có một số người sau khi thi hành án phạt tù xong họ lại tiếp tục có hành vi phạm tội mà lần phạm tội sau có thế có tính chất và mức độ của hành vi nghiêm trọng hơn lần trước; Có một số người nếu hướng thiện thì gặp khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Do đó, đối với một số tội phạm mà tính chất, mức độ và hành vi nguy hiểm là ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hay phần lớn hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra thì không cần thiết phải áp dụng các hình phạt tù có thời hạn, thay vào đó có thể áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn để họ được cải tạo trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát, giúp đỡ của gia đình, cơ quan nhà nước, tổ chức nơi họ sinh sống, làm việc để họ thấy được sự khoan hồng của pháp luật cố gắng khắc phục sửa chữa để trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội.

– Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội có mức độ nghiêm khắc thấp hơn so với các hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn. Theo hệ thống PLHS hiện hành thì các hình phạt được quy định trong LHS, được sắp xếp theo một trật tự nhất định (từ nhẹ đến nặng hoặc ngược lại) tùy thuộc vào tính nghiêm khắc của mỗi loại hình phạt quy định. Theo quy định tại Điều 32 BLHS năm 2015 cho thấy trật tự xắp xếp của HTHP được phân chia theo thang bậc từ nhẹ nhất đến nặng nhất ( từ cảnh cáo – tử hình). Theo đó, cảnh cáo là loại hình phạt nhẹ nhất, ít nghiêm khắc nhất trong các hình phạt chính và được xắp xếp đứng vị trí đầu tiên trong điều luật; tiếp đến là thứ tự của các hình phạt: Phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tuy có mức độ ít nghiêm khắc hơn đối với các hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, đảm bảo các quyền cơ bản của con người nhưng người phạm tội và bị kết án cũng phải bị tước bỏ hoặc hạn chế hoặc một số quyền nhất định theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Hình phạt cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt, hầu như không có bị hạn những quyền lợi về nhân thân và quyền lợi về tài sản … của người bị kết án nhưng cảnh cáo là sự lên án, khiển trách công khai của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội; biện pháp răn đe, trừng trị đối với họ thì Nhà nước phải gây cho một số tổn thất nhất định về mặt tinh thần để họ thấy được hậu quả mà mình phải gánh chịu do đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc Nhà nước hạn chế một số quyền, lợi ích hợp pháp về tinh thần và vật chất của người phạm tội như hình phạt cải tạo không giam giữ và giao cho họ cho “cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó thường trú, giám sát, giáo dục” và gia đình người đó có trách nhiệm phối hợp cùng với chính quyền địa phương cấp xã trong việc giáo dục người phạm tội; đồng thời trong thời gian chấp hành án họ có thể bị khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng từ 5% đến 20% để sung công quỹ nhà nước. Hình phạt tiền và hình phạt trục xuất là hai hình thức phạt có thể được áp dụng khi là hình phạt chính, khi là hình phạt bổ sung. Xét vể nội dung và giá trị các tác động của hình phạt, phạt tiền tước bỏ một số quyền lợi vật chất của người bị kết án, tác động đến kinh tế (tình hình tài sản) của họ và thông qua đó nhằm đạt những mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt, mức phạt tiền được áp dụng tùy theo mức độ nguy hiểm của hành vi mà họ gây ra, đồng thời có xem xét đến tình hình tài sản của người phạm tội và sự biến động cuả giá nhưng tối thiểu không được thấp hơn 1.000.000đồng; còn hình phạt trục xuất là buộc người nước ngoài phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Còn đối với hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn là” buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định”. Đối với hình phạt tù không thời hạn thì được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người,… tuy nhiên, trong một số trường hợp người bị kết án hình phạt tử hình cũng được ân giảm và hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân. Từ mức độ nghiêm khắc của từng loại hình phạt cụ thể đã được phân tích trên cho thấy đối với các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới là tiến đến xóa bỏ hình phạt tử hình, mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, phù hợp với định hướng yêu cầu cải cách tư pháp được Nghị quyết 49-NQ/TW đặt ra nhiều yêu cầu đối với việc hoàn thiện, đổi mới chính sách hình sự như: giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm, quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế v. v..

– Điều kiện áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy định khá chặt chẽ: Việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và xem xét đến các tình tiết: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng, phạm tội nhưng không gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn, đã tự nguyện bồi thường hoặc tác động người thân trong gia đình bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra,… Đó là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Theo đó, chỉ có những trường hợp phạm tội mà người thực hiện tội phạm có các điều kiện nêu trên thì mới được áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Điều đó cho thấy tính chặt chẽ và cá thể hóa TNHS trong PLHS hiện hành.

– Chủ thể thi hành các phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất đa dạng: Nếu việc thi hành các hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn được giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện thì việc thi hành các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không phải là cơ quan chuyên trách về công tác thi hành án hình sự mà được giao cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị kết án cư trú, làm việc kết hợp với gia đình tham gia vào việc cải tạo, giáo dục người phạm tội như: chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc, cơ quan THADS (đối với hình phạt tiền) hoặc ngay cả là HĐXX (đối với hành phạt cảnh cáo)…

2.2.2. Các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về hình phạt không tước tự do

2.2.1.1. Quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt cảnh cáo

– Khái niệm cảnh cáo:

Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất, ít nghiêm khắc nhất trong các hình phạt chính nói chung và các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng và được xếp vị trí đầu tiên trong hệ thống các loại hình phạt . Theo Điều 34 BLHS năm 2015 quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”. Cảnh cáo là hình phạt khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án tuyên đối với người bị kết án. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất vì nó không tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ quyền lợi nào của người bị kết án mà chỉ chịu tổn thất về tinh thần. Hình phạt cảnh cáo chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau:

– Chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng được quy định tại khoản 1 Điều 9 BLHS: “là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”. Tuy nhiên, quy định ở phần chung của BLHS lại không phù hợp với phần các tội phạm cụ thể làm cho công tác áp dụng pháp luật của các cơ quan và người tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc và cũng là một phần làm cho việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất ít được áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ: tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng minh (Điều 185) , khoản 1 điều này quy định mức hình phạt từ cảnh cáo, phạt CTKGG hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm; khoản 2 của điều luật lại quy định khung hình phạt cao nhất là 05 năm tù. Như vậy, các tội này vừa là tội phạm ít nghiêm trọng và vừa là tội phạm nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 BLHS.

– Tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện “chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự”. Quy định này chưa phù hợp làm cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng không phân biệt được ranh giới giữa “căn cứ miễn trách nhiệm hình sự” được quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 và phải chịu trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng nhưng cũng chưa có bất cứ văn bản nào hướng dẫn làm cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng lúng túng và không đưa ra được phán quyết miễn trách nhiệm hình sự cho người đã có hành vi phạm tội.

– Hình phạt cũng được áp dụng đối với một số tội phạm mà điều luật không quy định mức hình phạt cảnh cáo nhưng Tòa án được áp dụng Điều 54 BLHS để chuyển khung hình phạt được quy định tại khoản 1 và 2 điều này, trong trường hợp có các điều kiên được quy định tại khoản 1 và 2 nhưng khung hình phạt đó là nhẹ nhất, “thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn” và lý do phải được ghi rõ trong bản án.

– Hậu quả pháp lý của hình phạt: cảnh cáo là khiển trách, lên án công khai của Nhà nước đối với người phạm tội, gây ra cho họ những tổn hại nhất định về mặt tinh thần. Theo quy định tại Điều 70 BLHS thì người áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được đương nhiên xóa án sau 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn này. Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì thời hạn được xóa án tích sau 06 tháng kể từ ngày chấp hành xong hình phạt và không thực hiện hành vi phạm tội mới

– Thể thức thi hành: Thi hành án phạt cảnh cáo là việc Tòa án thi hành bản án tuyên cảnh cáo đối với người bị kết án. Do cảnh cáo là khiển trách, lên án công khai của Nhà nước đối với người phạm tội nên cơ chế thi hành án cảnh cáo không giống như cơ chế thi hành các hình phạt khác. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn khác chỉ được đưa ra thi hành khi bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa và do HĐXX tuyên án. Điều 363 BLHS hiện hành quy định hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 71 Luật THAHS. Tuy nhiên, BLTTHS lại quy định Tòa án tuyên hình phạt cảnh cáo buộc phải có mặt của người phạm tội, trong trường hợp người phạm tội vắng mặt vì điều kiện khách quan, bất khả kháng thì Tòa án có được tuyên hình phạt này tại phiên tòa hay không? Thực tiễn vướng mắc cho đến nay vẫn chưa có văn bản dưới luật nào hướng dẫn.

2.2.1.2. Quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền là hình phạt chính

– Khái niệm hình phạt tiền:

BLHS năm 2015 chưa đưa ra khái niệm hình phạt tiền. Theo quy định tại Điều 35 BLHS năm 2015 có thể đưa ra khái niệm “phạt tiền là hình phạt có tính chất kinh tế, nhằm vào tài sản của người phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền . Như vậy, sự tước bỏ một số quyền, lợi ích của người phạm tội đối với loại hình phạt này là tước đoạt một khoản tiền nhất định của người phạm tội, tự tước một phần lợi ích vật chất này cũng thể hiện được tính nghiêm khắc của hình phạt và tương xứng với hành vi phạm tội, đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng xã hội, phù hợp với tính thần trong các Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW) Đảng ta khẳng định: “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”. BLHS năm 2015 đã mở rộng cả về tội phạm và hình phạt tiền, cụ thể được quy định tại Điều 35 BLHS thì Tòa án được áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng.

  • Hình phạt tiền được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau:

Theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 35 BLHS năm 2015 thì phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp: “người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định” “người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định”nhưng phải xem xét đến tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, đến nhân thân của người phạm tội, tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét đến tình hình tài sản và khả năng thu nhập của người phạm tội và biến động về giá là đảm bảo tính khả thi của hình phạt và khả năng chấp hành án của người bị kết án, thông thường Tòa án tuyên người phạm tội phải nộp tiền một lần và ngay sau khi bản án có hiệu . Nếu họ không có tài sản, không có khả năng tài chính thì hình phạt này có ưu điểm vượt trội đến đâu, có thể hiện được tính khoan hồng của chính sách hình sự thì cũng không có tính khả thi và làm cho các cơ quan thi hành án hình sự khó có thể thi hành bản án và người bị kết án cũng không thể nào tự nguyện thi hành bản án, như vậy ảnh hưởng đến cuộc sống của người bị kết án và của cả gia đình họ và thời gian được xóa án tích của họ bị kéo dài hơn, không đảm bảo được quyền và lợi ích của họ.

Mức phạt tiền tối thiểu không được thấp hơn 1.000.000đồng (khoản 3 Điều 35), mức tối đa được quy định tại các điều luật quy định đối với mỗi loại tội phạm cụ thể . Đối với người có hành vi phạm tội từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phải “có thu nhập hoặc có tài sản riêng” và mức phạt tiền đối với họ “không quá ½ mức tiền phạt mà điều luật quy định” (Điều 99). Điều đó cũng thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội.

– Về thể thức thi hành: cũng như các hình phạt khác trong HTHP của PLHS thì hình phạt tiền được thi hành ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan thi hành án hình phạt này (khoản 1 Điều 36 Luật THADS) có trách nhiệm thi hành để thu tiền phạt của người bị kết án nộp vào ngân hàng nhà nước.

– Hậu quả pháp lý của hình phạt tiền: phạt tiền là hình phạt có tính chất kinh tế, nhằm vào tài sản của người phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền . Như vậy, hậu quả của hình phạt là tước đoạt một khoản tiền nhất định của người phạm tội. Theo quy định tại Điều 70 BLHS thì người bị phạt tiền (từ đủ 18 tuổi trở lên) được xóa án tích sau 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn này. Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì thời hạn được xóa án tích sau 06 tháng kể từ ngày chấp hành xong hình phạt và không thực hiện hành vi phạm tội mới

– Chủ thể thi hành: chủ thể thi hành án đối với hình phạt tiền có sự khác biệt hon so với các hình phạt khác. Cơ quan thi hành án đối với loại hình phạt này lại là cơ quan thi hành án dân sự mà không phụ thuộc vào hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung. Điều 36 Luật THADS quy định về thẩm quyền ra quyết định thi hành đối với phần bản án là hình phạt tiền thuộc về Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.

2.2.1.3. Quy định của BLHS năm 2015 về Hình phạt cải tạo không giam giữ

– Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ:

Cải tạo không giam giữ là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định, hình phạt cải tạo không giam giữ khác với hình phạt tù có thời hạn ở chỗ hình phạt cải tạo không giam giữ không buộc người bị kết án phải cách ly họ ra khỏi môi trường sống bình thường, nơi trước khi phạm tội họ sống, công tác mà vẫn để họ tham gia lao động, học tập và sinh hoạt có tổ chức và kỷ luật trong môi trường sống thích hợp “Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc UBND cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc UBND cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó” (khoản 2 Điều 36). Trong hệ thống hình phạt, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù nhưng nặng hơn hình phạt tiền và cảnh cáo.Việc quy định hình phạt này trong hệ thống hình phạt tạo điều kiện cho Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với những trường hợp phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc hình phạt tiền thì chưa đủ nghiêm khắc nhưng nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì lại quá nghiêm khắc và không cần thiết trong khi người phạm tội hoàn toàn có khả năng tự cải tạo, không cần cách ly họ khỏi xã hội [44, tr.280-281].

– Cải tại không giam giữ chỉ được áp dụng khi đủ các điều kiện sau: Người bị kết án về tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, có thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, phải có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng mà xét thấy không cần thiết cách lý họ khỏi xã hội mà vẫn đảm bảo được mục đích của hình phạt thì Tòa án mới áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia lao động, học tập, cải tạo, sinh hoạt tập thể, không vi phạm kỷ luật. Nếu người bị kết án di chuyển chổ ở hoặc làm việc thì phải báo cáo với Tòa án, với cơ quan, tổ chức đang giám sát, giáo dục biết.

– Về thể thức và chủ thể thi hành: cũng như các hình phạt khác trong HTHP của PLHS thì hình phạt cải tạo không giam giữ được thi hành ngay trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc quyết định ủy thác cho Tòa án khác ra quyết định thi hành án. Như vậy, thẩm quyền ra quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ thuộc về Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm phải hoặc Chánh án Tòa án được ủy thác. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có nhiệm vụ triệu tập người phải chấp hành án đến cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người chấp án có mặt tại trụ sở UBND cấp xã. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày triệu tập người chấp hành án đến cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện phải giao hồ sơ cho UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục. Với tính chất của cải tạo không giam giữ, hiệu quả thi hành của hình phạt này phụ thuộc vào vai trò giám sát, giáo dục của UBND cấp xã. Trong hoạt động giáo dục người chấp hành án cải tạo không giam giữ, gia đình người chấp hành án cũng có vai trò tác động khá quan trọng trong việc giúp đỡ họ trở thành người lương thiện.

– Hậu quả pháp lý: Theo quy định tại Điều 70 BLHS thì người bị phạt cải tạo không giam giữ được xóa án tích sau 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn này. “Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hằng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án” (khoản 3 Điều 36). “ Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự” (khoản 4 Điều 36).

2.2.1.4. Quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt trục xuất

– Khái niệm về hình phạt trục xuất

Khái niệm hình phạt trục xuất được quy định: Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.

Theo quy định của BLHS thì hình phạt trục xuất có thể được áp dụng là hình phạt chính và cũng có thể áp dụng là hình phạt bổ sung. Quy định này làm đa dạng hóa biện pháp xử lý hình sự, tạo điều kiện cho Tòa án áp dụng hình phạt phù hợp với tình hình thực tiễn, với các quy định về tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã tham gia ký kết, tạo tính linh động trong chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với các nước khác.

– Điều kiện áp dụng hình phạt trục xuất: đối tượng bị áp dụng hình phạt trục xuất phải là người nước ngoài, người không mang quốc tịch và họ đang sống và có hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và bị kết án. Do vậy người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mang hai quốc tịch khi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thì không thuộc đối tượng áp dụng hình trục xuất mà phải áp dụng BLHS Việt Nam để xét xử về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Tuy nhiên, cần phân biệt trục xuất được áp dụng là hình phạt được quy định trong BLHS hay trục xuất được áp dụng là biện pháp hành chính vì tại khoản 2 Điều 5 BLHS quy định: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam , thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Công hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó, trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”

– Về thể thức và chủ thể thi hành hình phạt trục xuất: sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án đã xét xử sơ thẩm (Tòa án cấp tỉnh) ra quyết định THA và gửi ngay cho cơ quan THAHS Công an, Viện kiểm sát cấp tỉnh và Sở Tư pháp. Cơ quan THAHS cấp tỉnh tống đạt quyết định thi hành án cho người chấp hành án và thống báo ngày cho Bộ ngoại giao Việt Nam, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người chấp hành án là công dân hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà người đó làm việc, cơ quan, tổ chức đã bảo lãnh người đó vào Việt Nam được biết. Trong thời gian chờ thi hành hình phạt trục xuất thì cơ quan THAHS Công an chỉ định nơi lưu trú cho người chấp hành án. Đến thời hạn trục xuất được quy định trong quyết định thi hành án thì cơ quan THAHS phối hợp với cơ quan quản lý xuất nhạp cảnh đưa người chấp hành án đến địa điểm xuất cảnh và buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

– Hậu quả pháp lý: Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì người bị áp dụng hình phạt trục xuất bị buộc phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

1.3. Các nội dung của hoạt động áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

1.3.1. Vai trò của hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án

Hoạt động áp dụng hình phạt là một hoạt động, thể hiện ở việc Tòa án tuân thủ các quy định của BLHS và BLTTHS để tuyên một hình phạt đảm bảo tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật với người phạm tội bị kết án. Qua đó, góp phần tích cực vào việc bảo vệ các quyền con người và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Áp dụng hình phạt có những ý nghĩa quan trọng sau:

* Áp dụng hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Hình phạt với tính chất là biện pháp trách nhiệm hình sự được Nhà nước sử dụng như là một công cụ, phương tiện quan trọng để trừng trị, cải tạo, gióa dục người phạm tội. Hình phạt thường gắn liền với áp dụng cưỡng chế của Nhà nước. Tính cưỡng chế của hình phạt chính là sử dụng quyền lực của Nhà nước phải bắt buộc tuân theo. Khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội nhà nước tỏ thái độ lên án về mặt chính trị, đạo đức, lối sống đối với người tội phạm và đối với người thực hiện tội phạm. Bằng biện pháp áp dụng hình phạt, nhà nước trừng trị và đồng thời lên án người đã thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hại cho xã hội để người thực hiện hành vi phạm tội thấy được lỗi lầm, tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của mình gây ra để họ có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội, trở thành người công dân có ích cho xã hội. Hình phạt không chỉ là sự lên án đơn thuần mà còn là biện pháp đặc biệt răn đe bằng tác động cưỡng chế của nhà nước đối với người bị kết án để ngăn ngừa họ phạm tội lại. Như vậy, hình phạt không những chỉ có nội dung trừng trị mà còn có cả nội dung giáo dục, cải tạo; mối quan hệ cưỡng chế – thuyết phục, trừng trị – cải tạo, giáo dục trong hình phạt luôn mang tính biện chứng, chuyển biến, tác động qua lại, không thể đối lập và tách rời nhau. Do đó, áp dụng hình phạt đối với từng loại tội phạm cụ thể cần phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực tiễn hoạt động áp dụng hình phạt thường mang tính chất trừng trị đối với người phạm tội, tuy nhiên thống qua hoạt động này làm cho người phạm tội nhận thức được hành vi vi phạm của mình gây ra là sai trái, hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu là thỏa đáng và có tác dụng răn đe họ không phạm tội mới. Bên cạnh đó, việc xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chính là sự khoan hồng của pháp luật mà người phạm tội nhận thức được mà cải tạo thành người tốt, tuân thủ pháp luật và các quy tắc xử xự chung trong xã hội. Đó chính là tính nhân đạo và khả năng cải tạo, chuyển hóa người phạm tội. Mục đích của hình phạt là yêu tố quyết định đới với hoạt động áp dụng pháp luật nhưng mục đích và ý nghĩa của hình phạt lại phụ thuộc vào việc áp dụng hình phạt. Hình phạt là dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội phạm với hành vi không phải là tội phạm. Do đó, Áp dụng hình phạt không đúng dẫn đến làm oan người vô tội hay bỏ lọt tội phạm, áp dụng hình phạt nghiêm khắc hay không nghiêm khắc thì làm giảm đi mục đích và ý nghĩa của hình phạt. Nếu áp dụng hình phạt quá nhẹ dẫn đến sự xem thường, không tôn trọng pháp luật làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan và người tiến hành tố tụng.

Hoạt động áp dụng pháp luật đúng, chính xác cần phải định tội danh đúng. Chỉ có định tội danh đúng thì mới xác định được khung hình phạt và các điều luật cụ thẻ áp dụng, từ đó làm căn cứ cho hoạt động áp dụng pháp luật đước đúng đắn, khách quan, công minh và đưa ra mức hình phạt hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật làm cho người phạm tội thấy được sai trái do hành vi phạm tội của mình gây ra mà sửa chữa bản thân, tự giác chấp hành án từ đó nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật và ý nghĩa của mục đích của hình phạt đó là tính răn đe, giáo dục, thuyết phục, phòng và chống tội phạm.

* Áp dụng hình phạt đúng là cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu quả của hình phạt

Ngoài ra, hình phạt cũng là một yếu tố quan trọng của áp dụng hình phạt. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, hiệu quả “là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới”. Nếu như mục đích của hình phạt là dự kiến về kết quả của Nhà nước đặt ra và mong muốn đạt được khi áp dụng hình phạt với người phạm tội bị kết án thì hiệu quả của hình phạt chính là kết quả cần đạt được đó. Tuy nhiên, do những mục đích của hình phạt trong thực tế luôn đạt được ở những chừng mực nhất định nên mức độ đạt được mục đích của hình phạt chính là kết quả phản ánh hiệu quả của hình phạt. Mức độ đạt được mục đích của hình phạt càng cao thì hiệu quả của hình phạt đạt được càng cao và ngược lại, mục đích đạt được của hình phạt ở mức độ thấp thì hiệu quả hình phạt cũng chỉ đạt được ở mức độ thấp.

Nói đến hiệu quả của hình phạt là nói đến tác dụng tích cực của hình phạt đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Khi hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội bị kết án và thi hành trong thực tiễn thì hiệu quả của hình phạt có được đảm bảo và nâng cao hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Hoạt động xây dựng pháp luật hình sự; hoạt động áp dụng hình phạt; việc tổ chức thi hành án hình sự; công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho công dân. Trong tất cả các yếu tố này thì áp dụng hình phạt là yếu tố mang tính quyết định, quan trọng nhất trong việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt. Việc xây dựng hệ thống pháp luật hình sự hoàn thiện chỉ có ý nghĩa khi áp dụng hình phạt trong thực tế được đúng.

Hình phạt chỉ phát huy tác dụng tốt nhất đối với người phạm tội nếu Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật đúng đắn và quyết định hình phạt tương xứng với tính chất và hành vi do người phạm tội gây ra có xem xét đến nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những yếu tố xã hội khác đảm bảo hiệu quả của hình phạt như vấn đề tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho công dân để người phạm tội tự giác chấp hành hình phạt không thể phát huy được tác dụng khi hoạt động áp dụng hình phạt của các cơ quan và người tiến hành tố tụng không đúng. Do đó, hoạt động áp dụng pháp luật đúng , tức là đánh giá đúng tính chất và mức độ của hành vi do người phạm tội gây ra, làm cho người phạm tội thấy được hành vi của mình là sai trái và phải chịu mức hình phạt tương xứng với hậu quả do mình gây ra, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân làm cho nhân dân hiểu pháp luật, tin tưởng vào hoạt động áp dụng pháp luật mà cùng tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, động viên, thuyết phục, giáo dục người phạm tội từ nguyện chấp hành án để tăng cường mối đoàn kết trong nội bộ quần chúng nhân dân và tăng hiệu quả của hình phạt.

* Áp dụng hình phạt đúng là điều kiện đảm bảo tính khả thi của hệ thống hình phạt

Hình phạt là công cụ quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của BLHS trong việc phòng ngừa và đấu tranh với các loại tội phạm xâm phạm đến sự vững mạnh, toàn vẹn lãnh thổ, xâm phạm đến trật tự trị an và sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, với tư cách là công cụ để đạt được hiệu quả của mình và bảo đảm tính khả thi của hình phạt và cả hệ thống hình phạt.

Luật hình sự đòi hỏi khi tuyên mức, loại hình phạt cụ thể trong từng trường hợp nhất định, tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hình vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức độ trừng trị của hình phạt được áp dụng khác nhau đối với những người phạm tội. Về nguyên tắc, tội phạm càng nghiêm trọng thì mức độ trừng trị người phạm tội đó càng nghiêm khắc. Đối với người phạm tội mà các biện pháp giáo dục, thuyết phục đã không còn hiệu quả thì chỉ có trừng trị nghiêm khắc mới buộc họ thấy được sai trái do hành vi phạm tội của mình gây ra và phải chấp nhận hâu quả pháp lý, răn đe họ không phạm tội mới. Như vậy, trừng trị là công cụ để đạt được mục đích chủ yếu và trực tiếp là giáo dục, cải tạo người phạm tội thành người lương thiện, tuân thủ pháp luật và các quy tắc xử xự chung trong đời sống xã hội, không phạm tội mới. Chính từ mục đích cải tạo, giáo dục con người nên trong hệ thống hình phạt của Nhà nước ta đa dạng các hình phạt khác nhau.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\HINH SU\DANG THI THU HANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *