Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về du lịch từ  thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quảng Nam là tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng điểm của miền Trung, phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi, địa hình đa dạng với núi, trung du, đồng bằng, ven biển và những ưu thế về bề dày lịch sử, văn hóa, con người, danh thắng tạo cho Quảng Nam tiềm năng lớn để phát triển du lịch.

Là một tỉnh giàu tiềm năng du lịch, Quảng Nam có 2 Di sản Văn hóa Thế Giới và 263 di tích văn hóa khác trong đó có 14 di tích đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia; 10 hồ trong đồng bằng với 6000 ha mặt nước (riêng hồ Phú Ninh với 3500 ha mặt nước), 50 hòn đảo và bán đảo trong hồ. Diện tích rừng nguyên sinh 120.000 ha và 125 km bờ biển với các xã đảo Cù Lao Chàm, Tam Hải, Tam Giang… là tiềm năng lớn có thể khai thác, phát triển các loại hình: du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch làng quê, du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng…

Hằng năm, Quảng Nam có trên 35 lễ hội của vùng, miền của tộc người được tổ chức bao gồm nhiều yếu tố dân tộc, lịch sử, phong tục, tâm lý, tín ngưỡng tôn giáo như: Lễ hội cồng chiêng, Lễ hội Long Chu, Lễ hội Bà Thu Bồn, Lễ hội miền Biển – miền Núi… Các giá trị văn minh, tinh thần sáng tạo đầy sức sống đi qua thời gian vẫn lưu lại trong các thế hệ người dân Quảng Nam được thể hiện qua các làng nghề truyền thống như chiếu Bàn Thạch; dệt Mã Châu, Thi Lai; đúc đồng Phước Kiều; mộc Kim Bồng; gốm Đồng Dương… Các thiết chế văn hoá cơ sở được bảo tồn, trùng tu, phục dựng như: Đình làng – Nhà thờ – Gươl. Tất cả những điều đó tạo nên những nét riêng biệt thu hút du khách khi đến với Quảng Nam.

Với thế mạnh đó, những năm qua ngành Du lịch Quảng Nam đã đạt mức tăng trưởng khá, góp phần làm cho tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh ngày càng tăng, tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho một bộ phận người dân địa phương, đóng góp nguồn ngân sách cho tỉnh. Thương hiệu, hình ảnh du lịch Quảng Nam ” Một điểm đến – Hai Di sản văn hóa thế giới” đã và đang được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến.

Tuy nhiên, sự phát triển của ngành du lịch Quảng Nam thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế so sánh của địa phương. Một nguyên nhân đặc biệt quan trọng là hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch của chính quyền cấp tỉnh vẫn còn thấp, thể hiện rõ nét nhất đó là công tác quy hoạch còn chồng chéo, đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch chưa được quan tâm đúng mức, nguồn nhân lực yếu về chuyên môn nghiệp vụ, chưa tạo được môi trường thuận lợi cho du lịch phát triển.

Từ những vấn đề nêu trên, dưới góc độ Luật hành chính và qua thực tiễn công tác, tôi chọn đề tài:”Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” nhằm nghiên cứu, đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch, thúc đẩy ngành du lịch tỉnh Quảng Nam phát triển, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận văn:

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng du lịch và quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Quảng Nam, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch nhằm thúc đẩy ngành du lịch của tỉnh phát triển nhanh, bền vững.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn:

– Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của QLNN đối với HĐDL; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về DL ở nước ta hiện nay.

– Phân tích tiềm năng du lịch, thực trạng quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2009-2013, từ đó đánh giá các kết quả đạt được, hạn chế trong quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh.

– Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến nhằm khai thác lợi thế, tiềm năng du lịch của tỉnh Quảng Nam ngày càng hiệu quả.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Các quy định pháp luật liên quan đến QLNN về DL;

– Thực tiễn HĐDL, QLNN về DL ở tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi không gian: Tỉnh Quảng Nam; đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, luận văn có tìm hiểu tổng quát về HĐDL và quản lý HĐDL trên phạm vi cả nước.

– Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu QLNN về DL ở tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài là những luận điểm trong học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và hạ tầng kinh tế; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đổi mới lĩnh vực DL, các Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương cũng như các văn bản pháp luật đối với công tác QLNN về DL và HĐDL. Đồng thời, tác giả có tham khảo và kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến lĩnh vực này.

Các phương pháp cụ thể được tác giả sử dụng trong luận văn là: phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp tổng hợp…

6. Điểm mới khoa học của luận văn

Trên cơ sở những quy định của pháp luật về QLNN đối với HĐDL và từ thực tiễn công tác, luận văn hệ thống hoá đầy đủ hơn về lý luận và thực trạng QLNN đối với HĐDL, đồng thời kiến nghị hoàn thiện một số quy định pháp luật liên quan đến QLNN về DL, đề xuất một số giải pháp khác nhằm tăng cường hiệu quả QLNN về DL.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về du lịch.

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Quảng Nam.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý về du lịch ở tỉnh Quảng Nam

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH

    1. 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về du lịch

1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch

1.1.1.1. Khái niệm du lịch

Hoạt động du lịch đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử phát triển của loài người, song cho đến nay khái niệm du lịch còn được hiểu khác nhau. Một chuyên gia du lịch đã nhận định “đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.

Ở nước Anh, du lịch xuất phát từ tiếng “To Tour” có nghĩa là cuộc dạo chơi (Tour round the world-cuộc đi vòng quanh thế giới; to go for tour round the town- cuộc dạo quanh thành phố; tour of inspection- cuộc kinh lý kiểm tra, …). Tiếng Pháp, từ du lịch bắt nguồn từ Le Tour có nghĩa là cuộc dạo chơi, dã ngoại.

Năm 1930, Glusmam – người Thụy Sỹ cho rằng “Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chổ cư trú thường xuyên”.

Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên Hợp Quốc: “Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư”.

Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn Từ điển Bách Khoa toàn thư Việt Nam (1966) đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt.

Thứ nhất (đứng trên góc độ mục đích của chuyến đi): “du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật ” [16]

Thứ hai (đứng trên góc độ kinh tế): “du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doah mang lại hiệu quả rất lớn: có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ”.[16]

Theo Luật du lịch Việt Nam do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005 đưa ra định nghĩa : “Du lịch là một hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.”

Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát các phương diện, có thể thống nhất rằng: Du lịch là các hoạt động có tính tổng hợp từ hướng dẫn, trao đổi hàng hóa đến thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí của con người trong một thời gian nhất định. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành kinh tế – xã hội, không những đem lại lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội.

1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch

Về khái niệm QL, quan niệm trước đây cho rằng: QL chủ yếu là giữ cho đối tượng nguyên vẹn, không suy chuyển, bắt nó vận động theo ý muốn chủ quan của chủ thể QL. Quan niệm hiện nay cho rằng: “ QL là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể QL vào đối tượng QL nhằm đạt mục tiêu đã đề ra” [13, tr.11].   

QL đó là khả năng mà xã hội có thể sử dụng để tổ chức và điều chỉnh cuộc sống của mình. Người ta có thể nói rằng: lao động, trí thức, QL là ba nhân tố tạo nên sự phát triển của xã hội, trong đó có vai trò kết hợp trí thức với lao động. Tuy nhiên, trong thực tế ba nhân tố đó liên kết rất chặt chẽ với nhau. QL nói cụ thể hơn là phương tiện tổ chức cuộc sống xã hội, nhằm hướng nó phát triển theo mục đích đã định trước một cách có trật tự, kỷ luật.

Như vậy, QL là tiến trình, hoạt động hoặc giám sát việc thực thi nhiệm vụ để đảm bảo rằng các hoạt động trong tổ chức được thực hiện theo hướng đạt được các mục tiêu đã đề ra của tổ chức – đặc biệt là nhiệm vụ tạo ra và duy trì các điều kiện để thực hiện tốt mục tiêu thông qua việc kết hợp những nỗ lực của các nhóm khác nhau trong tổ chức, cũng là một nhóm người trong tổ chức liên quan đến việc QL tổ chức đó.

QLNN có thể được định nghĩa như sau: QLNN là sự tác động mang tính tổ chức, điều chỉnh trên cơ sở khoa học và kế hoạch của các chủ thể QLNN đối với quá trình phát triển xã hội, được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục nhằm đạt tới mục tiêu định trước. Theo quan niệm này thì QLNN là hoạt động của tất cả các cơ quan NN từ Quốc hội, Chính phủ đến các cơ quan NN khác thông qua pháp luật. NN có thể trao quyền của mình cho các cá nhân hay các tổ chức xã hội, để các chủ thể đó thay mặt NN tiến hành hoạt động QLNN.

Mặt khác QLNN còn được hiểu theo nghĩa hẹp đó là QLNN trong lĩnh vực hành pháp gọi là QL hành chính NN. QL hành chính NN là một hình thức hoạt động của NN được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính NN, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành Luật, Pháp lệnh và các Nghị quyết của cơ quan quyền lực NN, nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và thường xuyên đối với công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, hành chính – chính trị của nước ta.

QL hành chính NN còn được gọi là hoạt động chấp hành – điều hành của các cơ quan hành chính NN hoặc các tổ chức được NN trao quyền và được điều chỉnh bằng ngành Luật Hành chính.

Từ những trình bày trên đây về du lịch và quản lý nhà nước, có thể định nghĩa: Quản lý nhà nước về du lịch là quá trình tác động của Nhà nước đến du lịch thông qua các công cụ quản lý nhằm bảo đảm cho lĩnh vực này phát triển phù hợp với lợi ích của NN, của xã hội, phát triển đúng định hướng của Nhà nước, tạo nên sự công bằng trong hoạt động du lịch để du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. QLNN về DL là hoạt động của NN nhằm tác động mang tính tổ chức lên các quá trình của HĐDL bảo đảm cho lĩnh vực này phát triển phù hợp với lợi ích của NN, của xã hội.

Sự QL đối với lĩnh vực HĐDL được thực hiện bởi các cơ quan NN, song chủ yếu là do các cơ quan NN chuyên ngành thực hiện. Cơ quan NN chuyên ngành được NN thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy. Trong hoạt động QLNN đối với HĐDL hiện nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và DL ở Trung ương; Sở Văn hoá, Thể thao và DL các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; phòng Văn hoá – Thông tin các huyện, Quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố.

1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về du lịch

Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, QLNN đối với HĐDL có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, về chủ thể QL: Chính phủ thống nhất QLNN về DL; Bộ Văn hoá, Thể thao và DL là cơ quan ở Trung ương tham mưu và QL trực tiếp về các HĐDL trong cả nước; Sở Văn hoá, Thể thao và DL là cơ quan QL về DL ở phạm vi cấp tỉnh; phòng Văn hoá – Thông tin QL trực tiếp các HĐDL ở phạm vi cấp huyện. Như vậy, NN là chủ thể tổ chức và QL các HĐDL diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Sự QL của NN phải bảo đảm cho HĐDL có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có định hướng rõ rệt. Để có được điều đó, NN phải ban hành pháp luật và dùng pháp luật để tác động vào lĩnh vực DL. Ở đây, pháp luật với tư cách là những qui tắc, chuẩn mực bắt buộc chung sẽ được NN sử dụng như một công cụ hiệu nghiệm nhất và không thể thiếu trong việc QL HĐDL.

Sự QL của NN bằng pháp luật phải nhằm tạo lập được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các HĐDL; xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội theo tinh thần “Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” – một trong những mục tiêu mà công cuộc xây dựng NN pháp quyền hiện nay ở nước ta hướng tới.

Thứ hai, về đối tượng QL: Đối tượng QL trong HĐDL rất phức tạp, nhiều thành phần, từ các doanh nghiệp đến cộng động dân cư và khách DL trong quá trình khai thác tài nguyên DL. NN phải QL các đối tượng này nhằm đảm bảo khai thác tài nguyên và phát triển DL một cách hợp lý, theo đúng định hướng, quy hoạch của NN; giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc trong giao lưu và hợp tác với các nền văn hoá trên thế giới; QL để giữ vững an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội trong HĐDL,…tránh tình trạng phát triển DL không theo quy hoạch chung của của cả nước, của địa phương và không đảm bảo về an ninh, trật tự trên địa bàn, phá vỡ môi trường sinh thái và bản sắc văn hoá dân tộc…

Thứ ba, về nội dung QL có những đặc thù so với nội dung QL của các lĩnh vực khác. Bởi vì, HĐDL luôn vận động và biến đổi không ngừng, chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau trong cùng một thời điểm như về tình hình kinh tế, dịch bệnh, tình hình an ninh của từng khu vực, quốc gia, về nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của tổ chức, cá nhân mà nội dung QL phải được điểu chỉnh cho phù hợp.

Thứ tư, về phương pháp QL, ngoài việc ban hành các văn bản QPPL và văn bản áp dụng pháp luật để đảm bảo hành vi xử sự cần thiết của đối tượng QL nhằm duy trì QL theo đúng chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định thì tại các địa điểm DL, NN đồng thời phải làm công tác tuyên truyền, vận động cộng đồng cư dân địa phương và du khách thực hiện một số nội dung khác nhằm bảo vệ môi trường, khôi phục lại các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương….khác với một số ngành, lĩnh vực khác, NN chỉ ban hành văn bản QPPL để bắt buộc thực hiện, nếu không thực hiện sẽ tiến hành xử lý bằng nhiều hình thức, trong đó có biện pháp cưỡng chế.

Thứ năm, về mức độ xã hội hoá hoạt động QL về DL tương đối nhiều hơn so với các ngành, lĩnh vực khác. Một số doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân được NN giao quyền QL đối với một số HĐDL như khai thác tài nguyên DL, QL các khu, điểm vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng…Vì vậy, việc QLNN đối với HĐDL được xã hội hoá một cách tối đa nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác QL các HĐDL.

1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về du lịch

Du lịch là một hiện tượng, một yếu tố cấu thành nên các hình thái kinh tế xã hội. Bên cạnh các quy luật chung, nó hình thành, vận động, phát triển theo những quy luật phát triển riêng của mình. Thực chất quá trình quản lý các hoạt động du lịch chính là việc tác động đến chúng nhằm thực hiện các mục tiêu đã định trước. Chính vì vậy để đảm bảo cho ngành kinh tế du lịch phát triển ổn định, phát huy tối đa những lợi ích và hạn chế những mặt tiêu cực thì cần phải có sự quản lý của nhà nước. Vai trò của quản lý nhà nước về du lịch thể hiện ở các mặt:

Quản lý nhà nước về du lịch từ  thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1.1.3.1. Vai trò định hướng

Nhà nước có vai trò định hướng phát triển du lịch và hướng dẫn các nhà kinh doanh trong lĩnh vực du lịch hoạt động hướng theo các mục tiêu phát triển du lịch của Nhà nước đề ra. Thông qua các công cụ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, hệ thống chính sách, thông tin nhằm định hướng quá trình phát triển du lịch.

Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, vừa tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng để các nhà kinh doanh du lịch yên tâm đầu tư, kinh doanh, theo chức năng Nhà nước có thể kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh du lịch trên thị trường.

1.1.3.2. Vai trò tổ chức

Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về du lịch. Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh doanh du lịch, đảm bảo công tác tổ chức, quy hoạch các khu, các điểm du lịch đảm bảo hoạt động hiệu quả.

Nhà nước tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp các cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp, thiết lập các mối quan hệ hợp tác về du lịch với các nước và các tổ chức du lịch quốc tế.

1.1.3.3 . Vai trò điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường

Nhà nước là người đại diện quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng, khuyến khích và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, chống độc quyền. Một mặt, Nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo định hướng đã vạch ra. Mặt khác, Nhà nước phải can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Trong hoạt động kinh doanh du lịch ở nước ta hiện nay, cạnh tranh chưa bình đẳng, không lành mạnh là một trong những vấn đề gây trở ngại cho quá trình phát triển. Do vậy, Nhà nước phải có vai trò điều tiết mạnh.

Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết, can thiệp thị trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ gây ảnh hưởng đến môi trường du lịch.

1.1.3..4. Vai trò kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm

Nhà nước giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độ quản lý của các chủ thể đó (về mặt đăng ký kinh doanh, chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, nghĩa vụ nộp thuế…).

Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, việc bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động phát du lịch.

Nhà nước cũng phải kiểm tra, đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về du lịch cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về du lịch.

Nhà nước phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và các quy định của nhà nước, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về du lịch. Xử lý nghiêm về mặt hành chính đối với các vi phạm trong hoạt động du lịch.

    1. 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về du lịch

QLNN đối với HĐDL trong mỗi giai đoạn phát triển của nền KT-XH ở nước ta được xác định cụ thể, phản ánh những nhu cầu khách quan của từng giai đoạn đó. Bước vào thời kỳ đổi mới, để đảm bảo cho HĐDL phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn, trước đòi hỏi phải có một tổ chức bộ máy QLNN về DL ổn định với những chức năng QLNN về DL được xác định rõ, đến năm 2007, Chính phủ đã tổ chức lại hệ thống QL ngành DL, theo đó: “Bộ Văn hoá, Thể thao và DL là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và DL trong phạm vi cả nước; QLNN các dịch vụ công thuộc lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và DL theo quy định của pháp luật”

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã xác định: Phát triển DL là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển KT-XH của Đảng và NN nhằm góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. HĐDL phải đồng thời đạt hiệu quả cao trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam, NN Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam luôn định hướng cho ngành DL phải phát triển nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu phục vụ cuộc sống nhân dân, từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm DL có tầm cỡ trong khu vực; phát triển lĩnh vực DL thực sự thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trên những cơ sở định hướng đó, NN Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã đề ra những nhiệm vụ thuộc chức năng QLNN đối với HĐDL như sau:

Một cách khái quát, những quy định hiện hành của pháp luật về DL đã quy định nội dung QLNN đối với HĐDL, bao gồm:

– Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển DL.

– Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản QPPL, tiêu chuẩn định mức kinh tế – kỹ thuật trong hoạt động DL.

– Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về DL.

– Tổ chức, QL hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.

– Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên DL để xây dựng quy hoạch phát triển DL, xác định khu DL, điểm DL, tuyến DL, đô thị DL.

– Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về DL, hoạt động xúc tiến DL ở trong nước và nước ngoài.

– Quy định tổ chức bộ máy QLNN về DL, sự phối hợp của các cơ quan NN trong QLNN về DL.

– Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về HĐDL.

– Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về DL [19, Điều 10].

Như vậy là các nội dung QLNN đối với HĐDL có thể chia thành những nội dung chính, cơ bản sau:

Một là, xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về DL; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển DL

Mục tiêu của Đảng và NN ta là hướng tới xây dựng một ngành DL hiện đại nhưng vẫn mang đậm đà bản sắc dân tộc; một ngành kinh tế mũi nhọn tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển, góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bởi vậy, việc xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật cần và đủ để đảm bảo sự vận hành tự do, an toàn cho mọi HĐDL trong nền kinh tế thị trường là một trong những nội dung lớn của QLNN về DL.

Quản lý nhà nước về du lịch từ  thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Trên thực tế, nội dung này đòi hỏi NN, trước hết phải giành sự ưu tiên cho hoạt động lập pháp. HĐDL chỉ có thể vận hành và phát triển và công tác QLNN về DL chỉ đạt hiệu quả khi NN có trong tay một hệ thống pháp luật đầy đủ, thông thoáng, phù hợp với nội dung và tính chất của các quan hệ DL trong nền kinh tế thị trường.

Trong hoạt động xây dựng chính sách, quy hoạch, kế hoạch, theo quy định của Chính phủ, Bộ Văn hoá – Thể thao và DL là cơ quan của Chính phủ thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn QLNN, trong đó có lĩnh vực DL trên phạm vi cả nước. Bộ Văn hoá – Thể thao và DL chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo văn bản QPPL về DL và các văn bản QPPL khác liên quan đến DL theo phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, các chương trình, kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm …

Có thể nêu một số ví dụ như: Luật Du lịch năm 2005, Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lượt phát triển DL Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị định số: 16/2012/NĐ-CP ngày 12/3/2012 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực DL; Thông tư số 47/2010/TT-BTC ngày 12/4/2010 của Bộ Tài chính quy định về chế độ thu, nộp, QL và sử dụng phí thẩm định xếp hạng cơ sở lưu trú DL và phí thẩm định cơ sở kinh doanh DV đạt tiêu chuẩn phục vụ khách DL;…

Hai là, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về du lịch

Để thực hiện QLNN đối với HĐDL, cần thiết phải có một hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về DL từ trung ương đến cơ sở. Hiện nay, Chính phủ thống nhất QLNN về DL. Cơ quan QLNN về DL ở trung ương là Bộ Văn hoá – Thể thao và DL chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về DL. Các nội dung về tổ chức bộ máy QLNN đối với HĐDL quy định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Văn hoá – Thể thao và DL, các bộ, ngành liên quan, Chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã về QLNN trong lĩnh vực DL nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về DL. Thông qua việc phân cấp QL, nâng cao chất lượng giải quyết công việc QLNN trong lĩnh vực DL nhằm thúc đẩy phát triển DL thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Về vị trí và chức năng: Bộ Văn hoá, Thể thao và DL là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và DL trong phạm vi cả nước; QLNN đối với các DV công thuộc lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và DL theo quy định của pháp luật.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HANH CHINH\TRAN THI KIM HOA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *