Pháp luật về phòng chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam

Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam

Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phân biệt đối xử (hay còn được gọi là kỳ thị) là một thuật ngữ thường dùng trong xã hội học và luật học, nhằm chỉ một sự đối xử khác biệt có tính chất tiêu cực đối với một cá nhân hay một nhóm nhất định, dựa trên nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là sự phân loại về tầng lớp hay đẳng cấp. Phân biệt đối xử thực tế là một hành vi mang tính định kiến đối với một cá nhân hay nhóm khác. Nó thường gắn liền với việc loại bỏ hoặc hạn chế một cá nhân hay một nhóm khỏi những cơ hội mà những cá nhân hay nhóm khác được tiếp cận trong cùng một bối cảnh. Theo Liên Hiệp Quốc :”Những hành vi phân biệt đối xử có nhiều hình thức, nhưng tất cả chúng đều có liên quan đến một số hình thức loại trừ và từ chối”.

Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, so với nhiều quốc gia khác trên thế giới, hiện nay Việt Nam chưa có khung pháp lý rõ ràng và toàn diện về phòng, chống mọi hình thức phân biệt đối xử. Mặc dù một số văn bản pháp luật nêu trên của Việt Nam đã có những quy định về chống kỳ thị và phân biệt đối xử với một số nhóm xã hội, song vẫn còn một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác chưa được đề cập và bảo vệ đúng mức. Thêm vào đó, các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan chưa quy định rõ cơ chế để một công dân hoặc tổ chức đại diện cho công dân có thể khiếu kiện vì bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Đồng thời, một số hành vi (dạng) phân biệt đối xử hiện vẫn chưa được nhắc đến trong hệ thống pháp luật Việt Nam, dẫn tới chưa được ngăn ngừa và xử lý trong thực tế.

Thời gian qua, với việc Chính phủ Việt Nam chấp nhận một số khuyến nghị liên quan đến chống phân biệt đối xử của các quốc gia trong phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc (trong phiên UPR lần thứ 2 năm 2013 của Hội đồng Nhân quyền tại Geneva) đã đặt ra yêu cầu và cơ sở cho việc xúc tiến nghiên cứu hòa thiện khuôn khổ pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng một đạo luật khung về bình đẳng, chống mọi hình thức phân biệt đối xử với mọi nhóm xã hội ở nước ta. Xét trên lĩnh vực nhân quyền, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và xây dựng một đạo luật riêng về phòng,chống phân biệt đối xử không chỉ giúp Việt Nam hoàn thành cam kết với cộng đồng quốc tế mà còn là cơ hội để thúc đẩy các quyền con người của mọi người dân một cách thực chất nhất.

Trong bối cảnh trên, việc nghiên cứu một cách đầy đủ về pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở trên thế giới và ở Việt Nam là vô cùng cần thiết trong thời điểm hiện nay, có ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì thế, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam” làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích của luận văn là phân tích làm rõ phạm vi, cách thức và mức độ điều chỉnh của pháp luật hiện hành của Việt Nam với các dạng phân biệt đối xử, qua đó đề xuất những quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

Về đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam điều chỉnh các dạng phân biệt đối xử trong mối quan hệ với thực tiễn trong nước và so sánh với các quy định có liên quan của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.

Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến phòng, chống phân biệt đối xử.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam và pháp luật quốc tế về bình đẳng, chống phân biệt đối xử.Tác giả vận dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội, bao gồm tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh..để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu đặt ra .

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong việc nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ pháp luật hiện hành về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng là một tài liệu tham khảo tốt cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về vấn đề này tại Học viện Khoa học Xã hội và các cơ sở đào tạo pháp luật khác.

7. Bố cục của luận văn: Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục thành ba chương:

+ Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử.

+ Chương 2: Pháp luật hiện hành về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam.

+ Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA PHÁP LUẬT

VỀ PHÒNG, CHỐNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ

1.1 Khái quát về vấn đề phân biệt đối xử trong xã hội loài người

1.1.1. Nhận thức về phân biệt đối xử

– Khái niệm phân biệt đối xử: Phân biệt đối xử là những hành động hoặc cách cư xử khác biệt một cách không công bằng, nhằm mục đích hoặc gây ra hậu quả là loại trừ một cá nhân hoặc một nhóm người khỏi một mối quan hệ hay một cơ hội nào đó, hay dẫn đến sự kỳ thị, phỉ báng hoặc trừng phạt bất công cá nhân hoặc nhóm người đó. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử vi phạm nhân phẩm và các quyền cơ bản của con người được pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ. Các hành vi phân biệt đối xử có thể diễn ra ở các cấp độ khác nhau, trên mọi lĩnh vực, từ chính trị, dân sự đến kinh tế, xã hội, văn hóa, ở mọi môi trường từ gia đình, cộng đồng, nơi làm việc, nơi học tập, cả trên phạm vi quốc gia và quốc tế.

– Chủ thể của sự phân biệt đối xử: Chủ thể gây ra sự phân biệt đối xử có thể là pháp nhân (bao gồm các Nhà nước, cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp) hoặc thể nhân. Trong nhiều trường hợp, chủ thể của sự phân biệt đối xử còn là một cộng đồng hay nhóm người.

1.1.2. Lịch sử và thực trạng các dạng phân biệt đối xử trên thế giới hiện nay

Về mặt lịch sử, những khác biệt về sinh học từ lâu đã bị lạm dụng ở một số nền văn hóa để chứng minh cho sự tồn tại cho những chủng tộc có địa vị “cao” và “thấp” và bởi vậy, phân nhóm con người theo chủng tộc. Học thuyết của Charles Darwin về sự phát triển và chọn lọc tự nhiên đã được sử dụng để chứng minh “mặt khoa học” của các khái niệm về sự ưu trội chủng tộc. Các hình thức phân biệt đối xử và chủ nghĩa chủng tộc được thể hiện rất rõ trong chế độ đẳng cấp của Ấn Độ, cũng như trong những quan niệm của người Hy Lạp và Trung Hoa về sự thống trị văn hoá.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, sự phân biệt dựa trên chủng tộc, sắc tộc, dân tộc, cũng như tôn giáo, giới tính, xu hướng giới tính… hiện vẫn là một trong những vi phạm quyền con người phổ biến nhất trên thế giới.

1.1.3. Nguyên nhân và hậu quả của phân biệt đối xử

– Nguyên nhân của phân biệt đối xử

Trước hết, xuất phát điểm của những định kiến và sự kỳ thị, phân biệt đối xử trong xã hội loài người là những định kiến về văn hóa dẫn tới quan niệm có những chủng tộc, dân tộc, nhóm người, cá nhân nhất định là thấp kém hơn.

Ở một số quốc gia, khung pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử chưa có hoặc chưa đầy đủ; cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật chưa có hoặc chưa hiệu quả…

Ngoài ra, một nguyên nhân nữa là do công tác tuyên truyền, vận động về các vấn đề liên quan đến nhóm người bị kỳ thị, phân biệt đối xử ở các quốc gia còn chưa thực sự sâu rộng và phát huy hiệu quả trong việc tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân.

Một bộ phận lớn người dân, tổ chức vẫn chưa có cái nhìn đầy đủ, khái quát và đúng đắn về vấn đề này, dẫn tới có các hành vi phân biệt đối xử không đáng có.

– Hậu quả của phân biệt đối xử

Phân biệt đối xử không chỉ dẫn đến sự mất an ninh về kinh tế và xã hội mà còn ảnh hưởng đến sự tự trọng, tự quyết và nhân phẩm của những người bị phân biệt đối xử. Sự phân biệt chủng tộc, vi phạm quyền của các cá nhân thuộc về các nhóm dễ bị tổn thương, các dân tộc thiểu số hay những người lao động nhập cư đều có thể là nguyên nhân của những xung đột xã hội, và trong những trường hợp nghiêm trọng (ví dụ như phân biệt đối xử về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo) còn là nguy cơ phá hoại hoà bình và an ninh quốc tế.

Phân biệt đối xử có thể xem nó vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của đói nghèo. Kỳ thị và phân biệt đối xử là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc người bị kỳ thị không được hòa nhập vào các hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cộng đồng. Kỳ thị và phân biệt đối xử cũng gây ra tỷ lệ thất nghiệp cao và dẫn đến trình độ học vấn thấp đối với người bị kỳ thị. Đồng thời, đó cũng là nguyên nhân khiến nhiều người mất cơ hội kết hôn và sinh con trong khi đây là những vấn đề rất quan trọng về mặt văn hoá.

Trên phạm vi rộng, có thể thấy sự kỳ thị, phân biệt đối xử có thể gây ra hận thù, chiến tranh, khủng bố, xung đột chủng tộc, dân tộc, tôn giáo… vv…. dẫn tới những hậu quả không mong muốn đối với sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

1.2 Sự cần thiết, ý nghĩa và các biện pháp phòng, chống phân biệt đối xử

1.2.1. Khái niệm phòng, chống phân biệt đối xử

– Khái niệm phòng, chống phân biệt đối xử:

Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học, kết hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tình trạng phân biệt đối xử trong thời gian vừa qua, khái niệm phòng, chống phân biệt đối xử có thể được định nghĩa như sau: “Phòng, chống phân biệt đối xử là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện của nhận thức và hành vi phân biệt đối xử. Đây đồng thời là hoạt động của toàn xã hội trong việc tìm ra các nguyên nhân phát sinh, từ đó ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ ý thức, hành vi phân biệt đối xử ra khỏi đời sống xã hội.”

1.2.2. Sự cần thiết phải phòng, chống phân biệt đối xử

Về phương diện cá nhân, phòng, chống phân biệt đối xử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với việc bảo đảm cho mọi cá nhân được sống trong nhân phẩm, và được hưởng thụ các quyền con người một cách bình đẳng như được luật pháp quốc tế và quốc gia ghi nhận. Theo nghĩa đó, phòng, chống phân biệt đối xử cũng chính là một biện pháp cơ bản để bảo đảm thực thi các quyền con người.

Về phương diện cộng đồng, phòng, chống phân biệt đối xử đóng vai trò quan trọng để ngăn ngừa và xóa bỏ những nguy cơ gây ra với cộng đồng từ sự hận thù, khủng bố, nổi loạn…Ở một góc độ khác, sự phân biệt đối xử làm hạn chế hay ngăn cản một nhóm hay cá nhân nhất định có những đóng góp cho cộng đồng.

Về phương diện quốc tế, phân biệt đối xử, đặc biệt trên cơ sở chủng tộc, dân tộc, tôn giáo…đã và đang gây ra những xung đột gay gắt giữa nhiều quốc gia, thậm chí là giữa “các nền văn minh”.

Chính vì những lí do cơ bản kể trên, có thể thấy được sự cần thiết hơn bao giờ hết của những biện pháp phòng, chống sự phân biệt đối xử trong mọi lĩnh vực trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.

1.2.3. Các biện pháp phòng, chống phân biệt đối xử trên thế giới

– Xây dựng các điều ước và cơ chế quốc tế nhằm ngăn chặn và xử lý những hình thức phân biệt đối xử trên tất cả các lĩnh vực và khuyến khích, yêu cầu các nước tham gia ký kết thực hiện. Về vấn đề này, Liên hợp quốc hiện là tổ chức quốc tế đi tiên phong. Bên cạnh Liên hợp quốc, nhiều tổ chức quốc tế khác như ILO, UNESCO, EU…. cũng đã ban hành những điều ước quốc tế chống phân biệt đối xử trên một số lĩnh vực.

Xét ở cấp độ quốc gia, nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã áp dụng các biện pháp sau để phòng, chống phân biệt đối xử:

– Ban hành Luật riêng về phòng, chống mọi hình thức phân biệt đối xử hoặc luật về phòng, chống phân biệt đối xử trên một số lĩnh vực cụ thể .

– Tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế và trong nước.

– Tổ chức các hoạt động truyền thông, vận động phòng, chống phân biệt đối xử

– Triển khai thực hiện các hoạt động phòng, chống phân biệt đối xử:

Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam
Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam

1.3 Pháp luật quốc tế về phòng, chống phân biệt đối xử

1.3.1. Phòng, chống phân biệt đối xử trong luật nhân quyền quốc tế

Ngay tại Điều 2 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 đã khẳng định rằng: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.

Ngoài ra, cũng không có bất cứ sự phân biệt nào với một người mà dựa trên địa vị chính trị, pháp lý hoặc quốc tế của quốc gia hoặc lãnh thổ mà người đó xuất thân, dù đó là lãnh thổ độc lập, uỷ trị, quản thác, chưa được tự quản hay đang phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác về chủ quyền.”

Trên cơ sở đó, có thể thấy, vấn đề phòng, chống việc phân biệt đối xử luôn được pháp luật quốc tế quan tâm và đặt lên hàng đầu. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho các công ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia trong việc xây dựng các nội dung liên quan đến việc phòng, chống việc phân biệt đối xử.

1.3.2. Phòng, chống phân biệt đối xử trong các công ước của ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế ILO được thành lập nhằm mục tiêu thúc đẩy công bằng xã hội và bảo vệ các quyền lao động và quyền con người. Đến nay, ILO đã thông qua tổng cộng 185 Công ước và 194 khuyến nghị. Trong số các công ước Công ước trên, có 8 Công ước được coi là Công ước cơ bản, tập trung vào 4 lĩnh vực: Tự do lập hội và tổ chức; Chống lao động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em; chống phân biệt đối xử.Với những công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO, có thể thấy sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế về vấn đề phòng, chống sự phân biệt đối xử với mọi đối tượng.

1.3.3. Phòng, chống phân biệt đối xử trong các công ước của UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hiệp quốc, hoạt động với mục đích “thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dụckhoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lýluật phápnhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộcnam nữngôn ngữtôn giáo“.

1.4. Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử của một số quốc gia

1.4.1 Phòng, chống phân biệt đối xử trong Hiến pháp của một số quốc gia

Ở đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay, vấn đề phòng chống phân biệt đối xử luôn được quan tâm và quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong Hiến pháp. Các nước lớn và có trình độ phát triển cao như Anh, Mỹ, Úc…, vấn đế phòng chống phân biệt đối xử luôn được quan tâm hàng đầu và nêu cụ thể trong các bản Hiến pháp của Quốc gia mình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử, kèm theo đó là các cơ chế bảo đảm cho việc phòng, chống tình trạng này trên thực tế.

1.4.2. Phòng, chống phân biệt đối xử trong luật của một số quốc gia

* Phòng, chống phân biệt đối xử trong pháp luật nước Mỹ.

Mỹ là một trong những quốc gia tiên phong trong vấn đề bảo vệ nhân quyền và phòng, chống sự phân biệt đối xử. Trên cơ sở đó, Mỹ đã ban hành rất nhiều đạo luật để kiểm soát và phòng, chống tình trạng phân biệt đối xử ở các lĩnh vực cụ thể khác nhau.

*Phòng, chống phân biệt đối xử trong pháp luật nước Canada.

Luật Nhân quyền, ban hành năm 1985, ngăn cấm phân biệt đối xử vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay nguồn gốc dân tộc, màu da, tôn giáo, tuổi, giới tính, định hướng giới tính, tình trạng hôn nhân, thân thế gia đình, khuyết tật và nhữ ng người bị kết tội và đã được tuyên bố trắng án.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Với những nội dung được nêu trong chương 1, ta có thể thấy được vấn đề phân biệt đối xử được hình thành từ rất lâu đời ngay trong nhận thức của con người. Sự phân biệt đối xử được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bởi những chủ thể khác nhau. Dù được thực hiện bởi ai hay với phương thức nào, ta đều thấy được hậu quả nặng nề của phân biệt đối xử đối với cá nhân bị phân biệt nói riêng và sự phát triển chung của xã hội nói chung.

Trên cơ sở xác định được hậu quả của phân biệt đối xử và sự cần thiết phải có các biện pháp phòng chống, các tổ chức quốc tế đã đưa ra những công ước liên quan đến vấn đề này như tuyên ngôn nhân quyền, các công ước của ILO, UNESCO…. theo đó, các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đã và đang phát triển như Mỹ, Ba Lan… và một số tổ chức xã hội, doanh nghiệp…đều đã ban hành những chính sách, luật nhằm phòng, chống có hiệu quả tình trạng phân biệt đối xử trong xã hội.

Chương 2

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

VỀ PHÒNG, CHỐNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ Ở VIỆT NAM

2.1. Khái quát thực trạng phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Về dân tộc, chủng tộc

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với những đặc điểm riêng mà nhiều quốc gia khác không có. Hiện nay, cả nước có 54 dân tộc anh em. Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc….

Tuy nhiên, trên thực tế, cần thấy rằng ở Việt Nam sự định kiến, phân biệt đối xử giữa các dân tộc là có và đã tồn tại lâu đời trong lịch sử, từ khi có sự tiếp xúc giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số khác. Trong bối cảnh hiện đại, định kiến đối với các dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại, tuy không nặng nề nhưng vẫn cần có biện pháp ngăn ngừa liên tục để để phòng nó gây cản trở tới sự phát triển của toàn thể dân tộc.

2.1.2. Về tôn giáo, tín ngưỡng

Vấn đề tôn trọng tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay khá tiến bộ và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Phần lớn các chính sách đều đảm bảo sự tự do tôn giáo, tín ngương của người dân. Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng cũng được nhân dân tôn trọng, tình trạng phân biệt đối xử về tôn giáo, tín ngưỡng vẫn còn tồn tại nhưng rải rác trong một bộ phận nhỏ của xã hội.

Báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Anh năm 2013 về các vấn đề thực hiện và đảm bảo nhân quyền ở Việt Nam đã đưa ra nhận định: “Có một số bằng chứng cho thấy chính phủ Việt Nam đang mở rộng không gian bày tỏ ý kiến về tôn giáo, nhưng lại rất cứng rắn với những thành viên nhóm tôn giáo mà họ tin là tham gia phong trào chính trị hoặc biểu tình.”

2.1.3. Về tài sản và vị thế xã hội

Theo một kết quả khảo sát của Chương trình phát triển LHQ (UNDP) về an sinh xã hội tại Việt Nam cho thấy nhóm giàu nhất chiếm 20% tổng số hộ gia đình nhận được 40% lợi ích từ an sinh xã hội, trong khi đó, nhóm nghèo nhất chỉ nhận được chưa tới 7%.

Ngoài các thước đo về mặt kinh tế, sự phân tầng xã hội qua sự phân hóa giàu nghèo còn dẫn tới sự phân biệt và bất bình đẳng trong ở trình độ học vấn, tỉ lệ đi học, biết chữ, mức độ tiếp cận và được chăm sóc y tế, mức độ tham gia lãnh đạo, quản lý… 

2.1.4. Về giới

Các quyền con người của phụ nữ thường bị vi phạm bởi những quy tắc, lề thói hoặc định kiến của xã hội. Vì vậy, đôi khi có một sự miễn cưỡng trong thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong áp dụng những điều luật hiện hành.

“Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn về kinh tế, song có dấu hiệu cho thấy tình trạng bất bình đẳng và chênh lệch về kinh tế giữa nam và nữ đang gia tăng.” Đó là lời nhận định của Điều phối viên Thường trú Liên Hợp Quốc John Hendra tại lễ công bố Báo cáo Phát triển con người về Giới của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Có thể thấy rõ điều này thông qua các số liệu do LHQ cung cấp về ba khía cạnh bất bình đẳng giới ở Việt Nam: quyền lực kinh tế, tiếng nói chính trị và các quyền hợp pháp.

Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong việc xóa bỏ những rào cản phân biệt về giới ở Việt Nam, nhưng trên thực tế, tình trạng này vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức (ngầm hoặc công khai) trong xã hội, các cơ quan Nhà nước và trong mỗi gia đình.

2.1.5. Về tình trạng sức khỏe

* Đối với người khuyết tật:

Hiện nay, nước ta có trên 5 triệu người khuyết tật, chiếm 6,3% tổng dân số. Gần 8% hộ gia đình Việt Nam có người khuyết tật và hầu hết đều là các hộ nghèo. Có tới 80% người khuyết tật sống phụ thuộc vào nguồn trợ cấp từ gia đình, xã hội thông qua Nhà nước và cộng đồng.[11]

Năm 2007 được sự tài trợ của Quỹ Ford, Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội (ISDS) đã tiến hành khảo sát 4 tỉnh thành ở Việt Nam và đưa ra một vài con số thống kê sau đây về quan điểm của cộng đồng về người khuyết tật – qua đó cho thấy sự phân biệt đối xử là rất lớn.

* Đối với người nhiểm HIV:

Qua các số liệu của nghiên cứu về chỉ số đánh giá mức độ kỳ thị với người nhiễm HIV ở Việt Nam do Mạng lưới người sống với HIV Việt Nam thực hiện cho thấy, người nhiễm HIV đang phải đối mặt với sự kỳ thị và phân biệt đối xử và đây không chỉ là thách thức đối với riêng người nhiễm HIV, khi dịch HIV/AIDS đang ở giai đoạn tập trung, chủ yếu lây truyền ở nhóm tiêm chích ma túy, nam tình dục đồng giới và phụ nữ mại dâm.

Có thể thấy, sự kỳ thị đối với các hành vi liên quan đến HIV và AIDS có tác động rất lớn đến người nhiễm HIV, có thể khiến họ cảm thấy không an toàn trong xã hội, hình thành tâm lý bị cách ly, cô lập và tình trạng trở nên trầm trọng hơn khi xuất hiện sự tự kỳ thị của chính bản thân người nhiễm HIV.

2.1.6. Về xu hướng tình dục (LGBT)

Với dân số khoảng 90 triệu người, Việt Nam có ít nhất 1,65 triệu người đồng tính thuộc độ tuổi 15-59. Theo Viện nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường (iSEE), phân biệt đối xử đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam hiện nay rất nghiêm trọng. Đặc biệt là qua lời nói với 95% người đồng tính nam được hỏi đã từng nghe người khác nói người đồng tính là không bình thường. Bên cạnh đó, khi bị phát hiện là người đồng tính 20% mất bạn, 15% bị gia đình chửu mắng hoặc đánh đập; Nghiêm trọng hơn, 4,5% đã từng bị tấn công vì là người đồng tính, 1,5% nói bị đuổi học, 4,1% đã từng bị đuổi ra khỏi chỗ ở và 6,5% bị mất việc vì là người đồng tính.Nhiều người chuyển giới bị từ chối tuyển dụng vì thể hiện giới của họ khác với giới tính ghi trong chứng minh thư. Có 13% người chuyển giới bị đuổi việc khi họ bị phát hiện ra là người chuyển giới.

Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam
Pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử hiện nay ở Việt Nam

2.1.7. Về những yếu tố khác

Vấn đề phân biệt vùng miền ở một bộ phận xã hội không phải là vấn đề mới. Nhiều ở thành thị miệt thị người ở nông thôn, người ở tỉnh này miệt thị người tỉnh khác. Quê hương là gốc rễ, nguồn cội và là niềm tự hào của mỗi người. Thế nhưng trong xã hội hiện nay vẫn tồn tại một bộ phận người có hành động chê bai, kì thị những vùng quê khác. Thậm chí có những người miệt thị cả quê hương, nơi sinh ra và lớn lên của chính mình.

Không chỉ trong vấn đề lao động, việc làm mà ngay trong cuộc sống hằng ngày, sự phân biệt đối xử, đánh giá chủ quan, phiến diện về vùng miền vẫn diễn ra phổ biến, là một vấn đề rất đáng lo ngại trong xã hội Việt Nam hiện nay.

2.2. Khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về phòng, chống phân biệt đối xử

Thực hiện chủ trương nhất quán của Nhà nước, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế quan trọng, trong đó có các công ước về nhân quyền. Công ước quốc tế về nhân quyền quan trọng đầu tiên Việt Nam kí kết là Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (Việt Nam kí Công ước này ngày 27/11/1981 và phê chuẩn tháng 2/1982).

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá năm 1966 (Việt Nam gia nhập 2 công ước này ngày 24/9/1982). Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 2 trên thế giới trở thành thành viên Công ước quốc tế về quyền trẻ em sau khi kí Công ước này tháng 1/1990 và phê chuẩn ngày 20/2/1991. Việt Nam cũng đã phê chuẩn 2 nghị định thư bổ sung Công ước quốc tế về quyền trẻ em (Nghị định thư không bắt buộc về trẻ em trong xung đột vũ trang và Nghị định thư không bắt buộc về chống sử dụng trẻ em trong mại dâm, tranh ảnh khiêu dâm). Ngoài ra Việt Nam còn là thành viên của một số công ước khác như: Công ước quốc tế về xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1966 và Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội Apacthai năm 1973 (Việt Nam gia nhập 2 công ước này ngày 9/6/1981).

Nhìn chung, có thể thấy hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay đã quy định khá đầy đủ về các quyền con người (từ Hiến pháp, luật, cho tới các văn bản dưới luật), tạo cơ sở pháp lý cho việc tôn trọng, bảo đảm và thực thi các quyền con người, hạn chế sự phân biệt đối xử trong xã hội.

2.2.1. Về dân tộc, chủng tộc

Như đã nêu trên, Chính phủ Việt Nam đã ký kết tham gia Công ước Quốc tế về xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc, trong đó khẳng định sự cần thiết phải xóa bỏ nhanh chóng nạn phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và biểu hiện.

2.2.2. Về tôn giáo, tín ngưỡng

Quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng theo Điều 24 của Hiến pháp mới là dành cho tất cả mọi người, không giống như quy định của Hiến pháp năm 1992 chỉ giới hạn ở công dân Việt Nam.

Như vậy có thể thấy rằng, Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật.

2.2.3. Về tài sản và vị thế xã hội

Tuy nhiên, mặc dù đã có được sự quan tâm, đầu tư để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nghèo, đảm bảo sự cân bằng trong xã hội. Nhưng trên thực tế, trong người dân Việt Nam hiện nay, tâm lý phân biệt đối xử giàu nghèo, địa vị xã hội luôn là “vấn đề muôn thuở”. Người Việt luôn có tâm lý ghét người giàu, khinh người nghèo. Đâu đâu cũng có thế bắt gặp những câu chuyện “cười ra nước mắt”, thể hiện sự phân biệt giàu nghèo khá rõ ràng và phổ biến ở Việt Nam. Người Việt coi doanh nhân không cao quý bằng thầy thuốc, thầy giáo, thầy bói, coi họ là “con buôn’. Và ngược lại, trong việc hưởng thụ các dịch vụ, những người giàu có luôn được ưu tiên và tôn trọng hơn….

2.2.4.Về giới

Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới được ghi nhận tại Điều 6 Luật bình đẳng giới năm 2007 là sự cụ thể hóa quy định Điều 63 Hiến pháp năm 1992 một lần nữa khẳng định phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng giới với nhau về vị trí,vai trò trong tất cả các quan hệ của đời sống xã hội, gia đình. Mọi hành vi nhằm hạn chế, loại trừ. Không công nhận, không coi trọng vai trò vị trí của phụ nữ hay nam giới đều bị nghiêm cấm, nếu vi phạm sẽ bị xử lí theo pháp luật. Đồng thời, đảm bào thực hiện quyền bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, gia đình và cá nhân.

2.2.5. Về tình trạng sức khỏe

– Đối với người khuyết tật: Nhìn chung, pháp luật Việt Nam hiện nay đã có sự quan tâm thực sự tới việc phòng, chống sự phân biệt đối xử đối với người khuyết tật, thể hiện qua hệ thống các quy định, chính sách cụ thể. Đồng thời, các quy định của Công ước không mâu thuẫn và phù hợp với các quy tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam trong việc chăm sóc, bảo vệ NKT. Tuy vậy, Công ước cũng đưa ra một số điều kiện chăm sóc cao hơn pháp luật Việt Nam, đặc biệt trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng, giải trí, tiếp cận pháp luật, tham gia các hoạt động chính trị và cộng cồng. Do vậy cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng nâng cao hơn nữa các điều kiện chăm sóc để đảm bảo vừa phù hợp với Công ước vừa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

– Đối với người nhiễm HIV: Vấn đề kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS, được đề cập chung chung trong Pháp lệnh về phòng chống và kiểm soát virus HIV/AIDS do ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành tháng 5/1995; và Nghị định số 34/CP hướng dẫn thực hiện pháp lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ ban hành vào tháng 06/1996, như sau:

2.2.6. Về xu hướng tình dục (LGBT)

Việt Nam trở thành nước dẫn đầu Đông Nam Á về việc bảo về quyền lợi của người đồng tính. Tuy nhiên, Luật 2014 vẫn quy định “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8). Như vậy, những người đồng giới tính vẫn có thể lấy nhau, nhưng sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.

2.3. Cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đã có một số quy định cụ thể để bảo đảm thực thi pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử. Tuy nhiên, những quy định này phần lớn nằm rải rác ở các nghị định, thông tư hay các văn bản luật hướng dẫn thi hành.

Tóm lại, đa phần các biện pháp bảo đảm thực hiện việc phòng chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay đều dừng lại ở việc xử phạt hành chính. Tuy nhiên, cơ sở để tiến hành việc xử phạt còn rất “mơ hồ”, thiếu rõ ràng, cụ thể dẫn tới nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu áp dụng của các cá nhân, tổ chức.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Qua nội dung chương 2, có thể thấy rõ tình trạng phân biệt đối xử đang diễn ra khá phổ biến, trên nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức khác nhau ở Việt Nam hiện nay. Sự phân biệt đối xử này diễn ra không chỉ trong phạm vi một hoặc một nhóm người mà có xu hướng diễn ra trên diện rộng, điều đặc biệt hơn nữa là ngay cả những người bị kỳ thị, phân biệt đôi khi cũng không xác định được quyền của bản thân mình, dẫn tới việc tạo điều kiện cho sự phân biệt đối xử vẫn tiếp diễn.

Trước thực trạng phân biệt đối xử đó, Việt Nam đã có những “động thái” thể hiện thái độ tích cực trong việc phòng, chống sự phân biệt đối xử. Mà bằng chứng là những quy định cụ thể nằm rải rác trong rất nhiều ngành luật, và được khẳng định rõ nét trong Hiến pháp 2013. Ngoài ra, trong một số vấn đề mang tính toàn cầu và Việt Nam có tham gia ký kết vào các điều ước, công ước Quốc tế về phòng, chống phân biệt đối xử như phòng, chống phân biệt đối xử đối với người khuyết tật, người nhiễm HIV, phòng, chống phân biệt đối xử về giới (vấn đề bình đẳng giới)… bằng sự nỗ lực và tích cực của mình, Việt Nam đã ban hành các luật độc lập để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trên như Luật Người khuyết tật. Luật phòng chống HIV/AIDS, Luật Bình đẳng giới….. góp phần không nhỏ vào việc xóa bỏ những quan điểm phân biệt đối xử, đảm bảo quyền và lợi ích, sự công bằng cho các chủ thể trên.

Tuy nhiên, qua rà soát, đánh giá chung, cũng có thể thấy được rằng, mặc dù đã có sự quan tâm nhưng hoạt động phòng chống sự phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều thiếu sót. Cơ chế bảo đảm thực hiện còn lỏng lẻo, khả năng ảnh hưởng đến nhận thức xã hội chưa cao…. đòi hỏi cần phải có sự quan tâm đúng mức, hiệu quả hơn nữa từ các cấp lãnh đạo cho đến toàn xã hội, thông qua việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay

Như đã nêu trên, khuôn khổ pháp luật về quyền con người ở Việt Nam, mà cụ thể là trong việc phòng chống sự phân biệt đối xử, mặc dù đang từng bước được kiện toàn nhưng có thế thấy hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, một số lĩnh vực chưa theo kịp với sự thay đổi của cuộc sống, chậm được sửa đổi, bổ sung. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật và việc tuyên truyền pháp luật về quyền con người đến các ngành, các cấp, các địa phương vẫn còn hạn chế, khiến cho việc triển khai còn khó khăn, bất cập. Bản thân người dân chưa hiểu biết đầy đủ về các quy định của pháp luật để thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ và hiệu quả. Việc kiểm tra đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng có những vi phạm chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.

Từ thực trạng đó, có thể thấy yêu cầu ngày càng cao của việc hoàn thiện pháp luật về phòng chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay, đó là đòi hỏi tất yếu và cần có sự triển khai kịp thời, đồng bộ từ trung ương đến địa phương.

3.2. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay

Một lần nữa có thể khẳng định rằng, hoàn thiện pháp luật về phong, chống phân biệt đối xử là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực này cần phải được tiến hành một cách khoa học, hợp lý, trên cơ sở thực tiễn xã hội. Trên cơ sở đó, theo tác giả, việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam cần được triển khai theo hướng:

  • Cần căn cứ vào và để làm hài hòa hơn nữa pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế về chống phân biệt đối xử.
  • Ưu tiên giải quyết những vấn đề cấp thiết về phân biệt đối xử đặt ra ở Việt Nam, đồng thời tính đến những yếu tố tiềm tàng xảy ra trong những năm tới xuất phát từ bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng, toàn diện vào quốc tế và khu vực.
  • Quán triệt các chính sách có liên quan của Đảng, Nhà nước như chính sách về bình đẳng dân tộc, giới, chính sách xã hội, chính sách về tôn trọng, bảo vệ nhân quyền…

3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay

Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta về vấn đề phòng chống việc phân biệt đối xử vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.

Vì vậy, để hoàn thiện pháp luật phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay, theo quan điểm của tác giả, cần thiết phải lưu ý những nội dung sau:

Thứ nhất, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về tinh thần và nội dung của bản Hiến pháp năm 2013, các điều khoản cụ thể của bản Hiến pháp này cũng như các quy định của các Công ước Liên hợp quốc về quyền con người mà Việt Nam là thành viên để từ đó, nhận thức và quán triệt đầy đủ các quy định của Hiến pháp và Công ước về quyền con người trong việc xây dựng và sửa đổi các quy định pháp luật tương thích với Hiến pháp 2013 và các cam kết của Việt Nam trong các Công ước về quyền con người mà đã tham gia.

Thứ hai, khẩn trương tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các đạo luật hiện hành, đặc biệt là các đạo luật đã nêu ở trên nhằm kịp thời khắc phục những lỗ hổng pháp lý.

Thứ ba, khẩn trương soạn thảo và ban hành Luật phòng, chống phân biệt đối xử.

Thứ tư, Phát huy vai trò của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội trong giám sát việc thực hiện Báo cáo rà soát định kỳ phổ quát (UPR), nhất là thực hiện các khuyến nghị của cộng đồng quốc tế về vấn đề phòng, chống phân biệt đối xử .

Trong đó, việc xây dựng Luật phòng, chống phân biệt đối xử là một yêu cầu chính đáng và cần thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Để xây dựng pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam, cần tiến hành một cách đồng bộ, có khoa học và có kế hoạch cụ thể theo các bước sau:

– Bước 1: Nghiên cứu làm rõ thực trạng và đặc điểm của những hình thức kỳ thị, bị phân biệt đối xử trong xã hội trong xã hội ta hiện nay.

– Bước 2: Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tiến hành các nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở thực tế cần có cho Luật phòng, chống phân biệt đối xử, từ đó bổ sung Luật phòng, chống phân biệt đối xử vào chương trình làm luật.

– Bước 3: Tổ chức lấy ý kiến góp ý của các chủ thể liên quan, đặc biệt là các nhóm xã hội có nguy cơ bị phân biệt đối xử, đối với các nội dung Luật phòng, chống phân biệt đối xử cho ban soạn thảo và ban thẩm tra khi Luật được xây dựng và thảo luận thông qua.

Bên cạnh các nội dung trên, để hoàn thiện pháp luật phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam, nhất thiết còn cần phải có các quy định liên quan đến việc giám sát và bảo đảm đảm thực hiện. Cụ thể:

Thứ nhất, liên quan đến việc giám sát: Để việc phòng chống phân biệt đối xử có khả năng thực thi trên thực tế, được mọi cá nhân tổ chức nghiêm chỉnh chấp hành thì việc cần thiết là phải thành lập một cơ quan độc lập chuyên giám sát về tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử.

Thứ hai, liên quan đến các điều khoản về tiến trình pháp lý: Các cá nhân hoặc tổ chức đại diện cho cá nhân (nếu được cá nhân đó đồng ý) đều có quyền đưa vụ việc ra trước cơ quan điều tra độc lập về chống phân biệt đối xử hoặc cơ quan nhân quyền quốc gia. Khi một ai khiếu kiện mình bị phân biệt đối xử thì người bị khiếu kiện lĩnh trách nhiệm đưa ra bằng chứng chứng minh mình vô tội.

Tiến hành các hoạt động nhằm thay đổi nhận thức của người dân.

Đồng thời, Chính phủ Việt Nam cần tích cực thực hiện chủ trương tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc có liên quan đến quyền con người; tham gia tích cực vào công việc của Hội đồng Nhân quyền.

KẾT LUẬN

Yêu thương, đùm bọc, chia sẻ khó khăn, bảo vệ quyền lợi ích và những giá trị cơ bản của con người là giá trị mang tính chất nhân văn của dân tộc ta từ xưa đến nay. Trên cơ sở sự kế thừa và phát huy những nét đẹp truyền thống của người Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn xác định phòng, chống sự phân biệt đối xử, tăng cường tình đoàn kết trong toàn xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước cũng như sự nghiệp phấn đấu vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Chính vì thế, khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, Đảng và nhà nước luôn coi vấn đề phòng, chống phân biệt đối xử trong xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng.

Trên cơ sở đó,trong những năm qua, hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống phân biệt đối xử ở nước ta đã đạt được những kết quả đáng kể, đáng biểu dương và khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng bộc lộ không ít những thiếu sót, hạn chế, sự lỏng lẻo trong quản lý, quan tâm chưa đúng mức và kịp thời của các cấp lãnh đạo….

Thật vậy, để tăng cường hoạt động phòng, chống sự phân biệt đối xử, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay cần không ngừng được hoàn thiện và phát triển theo hướng kịp thời rà soát, bổ sung, sửa đổi văn bản pháp luật hiện hành phù hợp với Hiến pháp 2013 và các Công ước Quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết, ban hành thêm các văn bản mới, cần thiết nhằm khắc phục tình trang chậm cụ thể hóa các điều khoản trong các văn bản sống. Đặc biệt, cần quan tâm, đầu tư và xem việc ban hành Luật phòng, chống phân biệt đối xử là một trong những hoạt động trọng tâm, cấp thiết trong thời gian tới của hoạt động lập pháp ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, cần chú trọng đến cơ chế đảm bảo thực hiện luật một cách chặt chẽ. Từ việc phân tích thực trạng phân biệt đối xử trong một số lĩnh vực thực tế tại Việt Nam, những hạn chế, tồn tại của hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định liên quan đến việc phòng, chống phân biệt đối xử ở Việt Nam. Trong đó, việc xây dựng Luật phòng, chống phân biệt đối xử được coi là nòng cốt, giải pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật, thực hiện xã hội hóa hoạt động phòng, chống phân biệt đối xử là trọng tâm và nâng cao nguồn đầu tư cho hoạt động phòng, chống phân biệt đối xử là đòn bẩy, cùng một số giải pháp cụ thể khác.

Việc xây dựng và hoàn thiện pháp về phòng, chống phân biệt đối xử ở nước ta hiện nay phải được thực hiện một cách đồng bộ, các giải pháp mang tính định hướng, cơ bản và các biện pháp cụ thể cần được đặt trong môi quan hệ qua lại mật thiết với nhau, phù hợp với tình hình thực tiễn của xã hội, có như thế mới phát huy tốt hiệu quả điều chỉnh của công cụ pháp luật trong việc phòng, chống phân biệt đối xử, góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của xã hội…

Vấn đề quan tâm đến những nhóm người yếu thế trong xã hội, bảo đảm và thực hiện các quyền bình đẳng, phòng, chống phân biệt đối xử luôn là trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức và cộng đồng xã hội. Đây cũng là yếu tố thể hiện rõ nét nhất tinh thần nhân đạo cũng như mục tiêu mà Việt Nam đang hướng tới “xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HANH CHINH\NGUYEN THI PHUONG THANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *