Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam

Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.” Bảo vệ nhân phẩm, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các tổ chức xã hội và do nhiều ngành luật điều chỉnh, trong đó có luật hình sự.

Trẻ em là những công dân nhỏ tuổi, là tương lai của đất nước nên càng phải được luật hình sự quan tâm đặc biệt. Do sự phát triển chưa đầy đủ về chất, về tâm, sinh lý, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ và khả năng tự bảo vệ mình nên các em rất dễ bị tổn thương về mọi mặt. Trong những năm trở lại đây, với sự gia tăng của các tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em, mà nổi cộm là hiếp dâm trẻ em thì việc bảo vệ trẻ em khỏi những loại tội phạm này càng được các nhà làm luật hình sự quan tâm. Thể hiện ở các quy định của pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm trẻ em, tập trung là quy định tại Điều 112 BLHS năm 1999. Để có thể áp dụng đúng trên thực tế thì việc hiểu đúng quy định của pháp luật là một việc vô cùng cần thiết.

Đất nước ta đang ở trong thời khắc lịch sử là Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 01/01/2014. Theo đó, quyền được bảo vệ của trẻ em đã ghi nhận tại Điều 37 của Hiến pháp thể hiện trẻ em là mầm non tương lai của đất nước. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản, tham gia ký kết các công ước quốc tế nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em Việt Nam.

Theo thống kê của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (thuộc Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội), tính trung bình 05 năm gần đây, mỗi năm có khoảng 900 em bị xâm hại tình dục. Trong đó, riêng số vụ hiếp dâm trẻ em chiếm đến 70% – 80%. Nhiều vụ có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, nhiều vụ thể hiện sự suy thoái hết sức nghiêm trọng về đạo đức. Đáng báo động là tình trạng tội phạm hiếp dâm trẻ em gần đây thường gắn với các loại tội phạm khác khác như là cướp – giết – hiếp. Tội phạm hiếp dâm trẻ em diễn ra phức tạp trên phạm vi cả nước, trong đó có tỉnh Quảng Nam.

Tỉnh Quảng Nam là trung tâm văn hóa – kinh tế – chính trị của khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Với điều kiện thuận lợi là khu kinh tế mở Chu Lai và hai di sản văn hóa thế giới là Hội An và Mỹ Sơn. Bên cạnh những thuận lợi mà thiên nhiên đã ban tặng, nhưng cũng đặt ra cho Quảng Nam những thách thức nhất định trong công tác quản lý địa bàn, quản lý con người. Một trong những thách thức đó chính là sự gia tăng nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội, trong đó có tội phạm hiếp dâm trẻ em làm ảnh hưởng đến hình ảnh “một tỉnh Quảng Nam đáng sống” theo mục tiêu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Nam đề ra.

Trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Quảng Nam đã không ngừng tăng cường các giải pháp nhằm đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội hiếp dâm trẻ em. Nhiều giải pháp phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ đã được các lực lượng chức năng triển khai có hiệu quả, góp phần ngăn chặn loại tội phạm này. Tuy nhiên, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội này còn chưa đáp ứng với yêu cầu phòng, chống tội phạm. Vì vậy, gây dư luận không tốt trong xã hội, ảnh hưởng đến hình ảnh và mục tiêu phát triển của tỉnh Quảng Nam.

Trước đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc nghiên cứu một tội phạm cụ thể trong luật hình sự Việt Nam dưới góc nhìn thực tiễn tại một địa phương có ý nghĩa quan trọng không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn áp dụng nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế định này trong BLHS Việt Nam. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” nhằm đánh giá những ưu điểm mà Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã đạt được để từ đó học tập, rút kinh nghiệm; đồng thời cũng đánh giá những mặt hạn chế, thiếu sót của nó để đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Để đạt được mục đích này, đề tài có các nhiệm vụ sau đây:

– Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm trẻ em. Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội hiếp dâm trẻ em theo Điều 112 của BLHS.

– Trình bày những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá hoạt động định tội danh đối với tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam qua các năm từ 2010 đến 2014.

– Trình bày những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và đánh giá hoạt động quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam qua các năm từ 2010 đến 2014.

– Nhận xét, đánh giá một số các quy định của BLHS năm 1999 về Tội hiếp dâm trẻ em, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm trẻ em nói chung và quy định của BLHS năm 1999 về Tội hiếp dâm trẻ em nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng của việc nghiên cứu là  Tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999. Luận văn có mục đích chính là làm rõ các quy định của BLHS năm 1999 về tội hiếp dâm trẻ em, tập trung vào Điều 112 BLHS năm 1999 đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này.

a. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

b. Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu các quy định của pháp luật về tội hiếp dâm trẻ em, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 đến năm 2014.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

a. Phương pháp luận: Lý luận của chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở tham khảo các bài viết, các chuyên đề về tội hiếp dâm trẻ em được đăng tải công khai trên các phương tiện thông tin điện tử.

b. Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp nhiều phương pháp như: Phân tích, tổng hợp trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh…

6. Ý nghĩa của đề tài

Đề tài đã khái quát được lịch sử hình thành và quá trình hoàn thiện của Điều 112 BLHS, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt.

Tại chương 2 và chương 3 của luận văn, trên cơ sở lý luận tác giả đã nghiên cứu và phân tích hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam (từ năm 2010 đến năm 2014). Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Quảng Nam nói riêng và các tỉnh khác có điều kiện tương tự nói chung có thêm những cơ sở khoa học để từ đó thực hiện tốt hơn các nội dung trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trẻ em.

Kết quả nghiên cứu trong luận văn này sẽ là một tài liệu làm cơ sở cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật sử dụng tham khảo trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy. Đề tài có thể được các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án, vận dụng trong quá trình giải quyết vụ án đối với tội hiếp dâm trẻ em.

7. Cơ cấu của đề tài

Luận văn gồm 3 phần:

Mở đầu

Nội dung: Có 3 chương:

– Chương 1: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam.

– Chương 2: Định tội danh tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

– Chương 3: Quyết định hình phạt tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Kết luận

Ngoài 3 phần nêu trên, còn có lời cam đoan, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1

TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999.

1.1.1. Khái niệm,đặc điểm của tội hiếp dâm trẻ em.

a. Khái niệm tội hiếp dâm trẻ em

Dưới góc độ pháp lý hình sự, tội phạm Hiếp dâm trẻ em là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, có hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do về thể chất và tư duy, quyền và lợi ích hợp pháp khác của trẻ em.

Nghiên cứu khái niệm về tội phạm nói chung theo Điều 8 BLHS năm 1999, chúng ta có thể đưa ra khái niệm tội phạm hiếp dâm trẻ em như sau: Tội phạm hiếp dâm trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi.

b. Các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm trẻ em

Điều 112 BLHS quy định tội hiếp dâm trẻ em như sau:

1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

a) Có tính chất loạn luân;

b) Làm nạn nhân có thai;

c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Có tổ chức;

b) Nhiều người hiếp một người;

c) Phạm tội nhiều lần;

d) Đối với nhiều người;

đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

e) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ mười ba tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Khách thể của tội hiếp dâm trẻ em

Tội phạm xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự và nhân phẩm của trẻ em, đến sự phát triển lành mạnh cả về thể chất và tinh thần của trẻ em, xâm phạm đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em. Trong nhiều trường hợp còn xâm hại đến sức khỏe và có thể nguy hiểm đến tính mạng của trẻ em, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.

Mặt khách quan của tội hiếp dâm trẻ em

Trong mặt khách quan của tội hiếp dâm trẻ em chỉ có dấu hiệu hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc duy nhất được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm này.

Chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em

Chủ thể của tội phạm phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự và phải thỏa mãn các điều kiện về năng lực TNHS và độ tuổi.

Chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em chỉ có thể là nam giới. Phụ nữ có thể là đồng phạm tội hiếp dâm trẻ em với vai trò người giúp sức, xúi giục hoặc tổ chức.

Mặt chủ quan của tội hiếp dâm trẻ em

Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Với ý nghĩa là một mặt của thể thống nhất tội phạm, mặt chủ quan không tồn tại độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các nội dung chủ yếu là động cơ, mục đích và lỗi.

Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1.1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội hiếp dâm trẻ em

Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1985.

Cách mạng thành công, nhà nước mới được thành lập rất cần có pháp luật mà không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự nói riêng, trong đó có những quy định về tội phạm hiếp dâm trẻ em nên nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 47 – SL ngày 10-10-1945 tạm thời giữ lại các luật lệ tại miền Bắc – Trung – Nam Bộ cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật thống nhất trong toàn quốc.

Chương 2

ĐỊNH TỘI DANH TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TỪ

THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Một số vấn đề lý luận về định tội danh

2.1.1. Khái niệm định tội danh và các đặc điểm của định tội danh

Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm định tội danh,  tôi đồng ý với quan điểm cho rằng định tội danh là “Việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” .

2.1.2. Phân loại định tội danh

Căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh và hậu quả của việc định tội danh, khoa học luật hình sự chia định tội danh thành hai loại: Định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức.

2.1.3. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh

Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Định tội danh đúng sẽ có ý nghĩa chính trị – xã hội, đạo đức và pháp luật rất lớn và ngược lại.

2.1.4. Các yếu tố làm căn cứ trong hoạt động định tội danh

– Định tội danh theo các yếu tố cấu thành tội phạm: Là hoạt động định tội danh dựa trên các yếu tố cấu thành tội phạm. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thế nhưng mỗi yếu tố lại có ý nghĩa riêng và có thể tách ra nghiên cứu một cách độc lập tương đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác.

2.2. Thực tiễn định tội danh tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Quảng Nam

Theo thống kê của TAND tối cao, trong nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người từ năm 2010 đến nay, tội hiếp dâm trẻ em đứng thứ ba, chỉ sau tội cố ý gây thương tích và tội giết người. Điều đáng nói, số lượng các bị cáo bị các cấp tòa án đưa ra xét xử về các tội xâm hại tình dục trẻ em trong những năm qua cũng gia tăng mạnh mẽ, ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự văn hóa – xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội hiếp dâm trẻ em: Đó là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng bắt buộc đối với tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 112 Bộ luật Hình sự. Trường hợp này chỉ có một người hiếp một người mà nạn nhân đã đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi và không có các tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 112 của BLHS.

Định tội danh đối với cấu thành tội phạm tăng nặng của tội hiếp dâm trẻ em: Thể hiện qua các nội dung quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật.

Định tội danh theo khoản 2 Điều 112 của Bộ luật Hình sự: Quy định tại khoản này như sau: “Có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai; gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; tái phạm nguy hiểm”.

Định tội danh theo khoản 3 Điều 112 của Bộ luật Hình sự: Định tội danh theo khoản 3 Điều 112 của BLHS khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: “Có tổ chức; nhiều người hiếp một người; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát”.

Định tội danh theo khoản 4 Điều 112 của Bộ luật Hình sự: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em…”. Ở độ tuổi này, trẻ em chưa đủ điều kiện về nhận thức để có thể bày tỏ đúng đắn ý chí của mình về tình dục nên mọi hành vi giao cấu với các em ở lứa tuổi này đều coi là hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân.

2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, định tội danh tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam cho ta thấy những hạn chế, bất cập Trong việc áp dụng và qua quá trình nghiên cứu quy định về tội Hiếp dâm trẻ em trong Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009,

Chương 3

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM

TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt

3.1.1. Quyết định hình phạt và các đặc điểm của quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án. Cho tới nay chưa có một văn bản pháp luật hình sự nào xác định khái niệm quyết định hình phạt. Qua nghiên cứu có nhiều tác giả đưa ra khái niệm quyết định hình phạt đó là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.

3.1.2. Các nguyên tắc của hoạt động quyết định hình phạt

Các nguyên tắc quyết định hình phạt tuy có những đặc điểm riêng đặc trưng cho quá trình quyết định hình phạt nhưng chúng vẫn nằm trong thể thống nhất với các nguyên tắc của luật hình sự. Các nguyên tắc này vừa có tính độc lập tương đối vừa có mối liên hệ qua lại chặt chẽ với nhau, đan xen nhau định hướng cho Tòa án quyết định hình phạt đúng đắn đối với người phạm tội.

3.1.3. Các căn cứ quyết định hình phạt

Các căn cứ của quyết định hình phạt ngoài việc phải được quy định trong pháp luật hình sự thì còn có thể do giải thích luật mà có buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt vì như vậy sẽ đảm bảo việc áp dụng hình phạt cho bị cáo không những đáp ứng được sự chặt chẽ, chính xác trên cơ sở quy định của BLHS, việc tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt của Tòa án có tính bắt buộc mà còn có thể áp dụng thống nhất trong đường lối xử lý một số loại án nhất định của Tòa án.

Theo quy định của Bộ luật Hình sự có các căn cứ sau:

Căn cứ thứ nhất – các quy định của Bộ luật Hình sự.

Khi quyết định hình phạt, trước hết Tòa án phải dựa vào các quy định của Bộ luật Hình sự. Nếu không coi các quy định của BLHS là một căn cứ quyết định hình phạt. Từ đó, không quy định căn cứ này trong BLHS thì có thể dẫn đến tình trạng Tòa án quyết định hình phạt tùy tiện, đồng thời bị cáo có thể chịu một hình phạt không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và như vậy, công bằng xã hội không thể đạt được. Việc quy định căn cứ các quy định của BLHS với tính chất là một căn cứ quyết định hình phạt trong BLHS là cần thiết bởi nó sẽ tạo cơ sở pháp lý giúp cho việc quyết định hình phạt được chính xác và thống nhất trong phạm vi cả nước. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì cho rằng “Các quy định của Bộ luật Hình sự bao gồm tất cả các quy định trong Bộ luật Hình sự như quy định về lỗi, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, quy định về các dấu hiệu pháp lý của tội phạm cụ thể” [23. tr. 240].

Căn cứ thứ hai – tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Theo GS. TS Võ Khánh Vinh thì cho rằng khi quyết định hình phạt, Tòa án vẫn phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. “Bởi vì, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được nhà làm luật cân nhắc và thể hiện khi quy định tội phạm, quy định chế tài và khung chế tài đối với tội phạm. Do vậy, tất yếu trong quá trình xây dựng luật cũng quy định là khi quyết định hình phạt Tòa án phải cân nhắc cả tính chất lẫn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện” [23. tr. 244].

Căn cứ thứ ba – nhân thân người phạm tội

Để đảm bảo hình phạt đã tuyên phù hợp với khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của người phạn tội thì Tòa án phải dựa vào căn cứ tiếp theo là nhân thân người phạm tội. Bởi vì nhân thân người phạm tội không chỉ phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà còn phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ.

Căn cứ thứ tư – các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong các tình tiết để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hơn nữa, nhiều tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự lại thuộc về nhân thân người phạm tội. Tuy nhiên, luật hình sự Việt Nam vẫn coi các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là căn cứ quyết định hình phạt độc lập bên cạnh các căn cứ khác nhằm mục đích buộc Tòa án phải cân nhắc các tình tiết này (nếu có) trong mối liên hệ với toàn bộ vụ án để giúp cho việc vận dụng đúng căn cứ thứ hai và thứ ba, từ đó quyết định hình phạt cho người phạm tội được chính xác, hạn chế tình trạng tùy tiện trong áp dụng luật.

3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội hiếp dâm trẻ em tại tỉnh Quảng Nam 

 Qua thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt tại tỉnh Quảng Nam Tác giả thấy rằng, trong tổng số các vụ án hiếp dâm trẻ em đã xảy ra trên địa bàn tỉnh trong 5 năm qua (từ 2010 – 2014) đã được điều tra, truy tố, xét xử thì hầu hết các vụ án liên quan đến hiếp dâm trẻ em đều được các cơ quan có thẩm quyền quyết định hình phạt phù hợp, đã vận dụng đầy đủ các quy định của hệ thống pháp luật hình sự, các nguyên tắc quyết định hình phạt, vận dụng sự giải thích luật và đồng thời áp dụng các căn cứ trong hoạt động quyết định hình phạt.

3.2.1. Quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường

Quyết định hình phạt đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 1 Điều 112 BLHS

Khoản 1 Điều 112 BLHS quy định: “Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm”.

Quyết định hình phạt đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 2 Điều 112 BLHS

Khoản 2 Điều 112 BLHS quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm: có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai; gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; tái phạm nguy hiểm”.

Quyết định hình phạt đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 3 Điều 112 BLHS

– Hiếp dâm trẻ em có tổ chức (điểm a khoản 3 Điều 112 BLHS): Hiếp dâm trẻ em có tổ chức cũng giống như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, các dấu hiệu của phạm tội có tổ chức được quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Phạm tội có tổ chức bao gồm nhiều người cùng tham gia trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Đối với tội Hiếp dâm trẻ em có tổ chức thì không nhất thiết tất cả những người tham gia đều phải có hành vi giao cấu với nạn nhân.

Quyết định hình phạt đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 4 Điều 112 BLHS

Điều luật chỉ quy định một khung duy nhất và rất nghiêm khắc: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Trường hợp nạn nhân là trẻ em dưới 13 tuổi được pháp luật quy định như một trường hợp đặc biệt. Ở độ tuổi dưới 13 thì trẻ em chưa đủ điều kiện về nhận thức để có thể bày tỏ đúng đắn ý chí của mình về tình dục nên mọi hành vi giao cấu với các em ở lứa tuổi này đều coi là hành vi “Giao cấu trái ý muốn” của nạn nhân.

Quyết định hình phạt bổ sung được áp dụng đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em

Theo luật hình sự Việt Nam, hình phạt bổ sung là hình phạt được Tòa án tuyên kèm với hình phạt chính, có tác dụng hỗ trợ và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt chính. Mục đích chủ yếu của hình phạt bổ sung nhằm phòng ngừa người bị kết án phạm tội mới. Đối với tội hiếp dâm trẻ em, BLHS năm 1999 quy định hình phạt bổ sung và hình phạt chính ngay trong cùng điều luật. Khoản 5 Điều 112 BLHS dành riêng để quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội hiếp dâm trẻ em, quy định: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

3.2.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt (Điều 47, Điều 52, Điều 53, Điều 74 BLHS)

Theo BLHS năm 1999, quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt gồm: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội…

Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS là một trường hợp quyết định hình phạt giảm nhẹ đặc biệt. Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chỗ do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Tòa án có thể không lựa chọn và tuyên một hình phạt cho bị cáo trong giới hạn của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Khi quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS, ngoài việc tuân thủ các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường, Tòa án còn phải tuân thủ quy định của Điều 47 về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS

Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là quyết định hình phạt trong trường hợp giảm nhẹ đặc biệt. Tính chất đặc biệt thể hiện ở chỗ việc quyết định hình phạt cho bị cáo phải nhẹ hơn so với trường hợp phạm tội hoàn thành bởi vì mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn và như vậy, mức độ trách nhiệm hình sự phải thấp hơn. Trường hợp này được quy định tại Điều 52 BLHS. Theo đó, hình phạt áp dụng cho trường hợp chuẩn bị phạm tội thấp hơn so với trường hợp phạm tội chưa đạt.

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt. Tính chất đặc biệt thể hiện ở chỗ Tòa án quyết định hình phạt không chỉ cho một bị cáo mà cho nhiều bị cáo trong vụ án về một hoặc nhiều tội họ đã cùng phạm. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xem xét tổng thể tất cả các tình tiết có trong vụ án để từ đó quyết định hình phạt đúng cho từng người đồng phạm.

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt. Tính chất đặc biệt thể hiện ở chỗ, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được giảm nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương, mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án phải tuân thủ nguyên tắc tại Điều 69 và Điều 74 BLHS.

Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

3.2.3 Một số khó khăn, vướng mắc trong việc quyết định hình phạt từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Pháp luật hình sự hiện hành cùng với những quy định về tội hiếp dâm trẻ em đã và đang phát huy vai trò của nó. Trong những năm vừa qua, có nhiều vụ án đã được đua ra ánh sáng, người phạm tội đã phải chịu trách nhiệm hình sự một cách nghiêm khắc.

Về định khung hình phạt trong trường hợp nạn nhân chưa đủ 13 tuổi

Nếu trong trường hợp nạn nhân dưới 13 tuổi, dồng thời lại có những tình tiết mô tả tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 112 BLHS thì có cần áp dụng tình tiết tại Khoản 2, Khoản nữa không hay chỉ cần áp dụng Khoản 4 Điều 112?

Về việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với việc nhận thức nạn nhân là trẻ em

Về mặt chủ quan của tội phạm, hành vi hiếp dâm trẻ em được thực hiện theo lỗi cố ý trực tiếp của người phạm tội. Người phạm tội nhân thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mình trên cơ sở nhận thức được tính chất của hành vi khách quan và đối tượng tác động. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, việc chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội Hiếp dâm trẻ em nhìn chung khá phức tạp. Ở độ tuổi này nhiều em đã dậy thì, lại thêm đầy đủ về điều kiện dinh dưỡng, nên các em phát triển nhanh về thể chất, và do vậy bề ngoài các em có thể cao lớn như người đã thành niên, tác phong xử sự giống như người lớn (vì ở lứa tuổi các em là lứa tuổi đang bắt chước, tập làm người lớn). Mặt khác, bản thân nạn nhân có thể che giấu hoặc nói sai độ tuổi của mình làm cho người phạm tội lầm tưởng nạn nhân là người đã thành niên và thực hiện hành vi giao cấu.

Về đặc điểm giới tính của chủ thể của Tội hiếp dâm trẻ em

Hiện nay, việc xác định chủ thể của Tội hiếp dâm trẻ em vẫn theo Bản tổng kết 239/HS2 ngày 11/5/1967. Thông qua định nghĩa về giao cấu được nêu trong Bản tổng kết, có thể thấy chủ thể chủ động thực hiện hành vi giao cấu chỉ có thể là nam giới và nữ giới chỉ đóng vai trò thụ động:

Về một số tình tiết tăng nặng định khung

Về tình tiết “biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” (Điểm e, Khoản 3 Điều 112 BLHS)

Đây là tình tiết thuộc mặt chủ quan của tội phạm nên trong qua trình điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định ý thức chủ quan của can phạm. Về ý thức người phạm tội trong việc lây truyền HIV hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau.

Hiếp dâm có tính chất loạn luân

Vấn đề tương tự như ở mục 3.2 cũng được đặt ra với tình tiết tăng nặng hiếp dâm trẻ em có tính chất loạn luân. Trong trường hợp này, người phạm tội có bắt buộc phải biết rõ quan hệ huyết thống của mình với nạn nhân không? Vì nhiều trường hợp tuy là quan hệ cha con nhưng trên thực tế không cùng dòng máu, người mẹ đã mang thai đứa con với một người đàn ông khác.

3.3. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam như sau:

Thứ nhất, nên bổ sung vào khoản 1 Điều 52 BLHS quy định về khung hình phạt được áp dụng đối với phạm tội chưa đạt và khung hình phạt được áp dụng đối với chuẩn bị phạm tội.

Thứ hai, tại khoản 1 Điều 46 BLHS quy định các tình tiết giảm nhẹ từ điểm a đến điểm s, nhưng không phải mỗi điểm chỉ quy định một tình tiết giảm nhẹ.

Thứ ba, cần quy định mức hình phạt sao cho hợp lý giữa khoản 3 và khoản 4 để khi áp dụng Điều 47 BLHS có ý nghĩa đối với người phạm tội.

Thứ tư, trường hợp người phạm tội vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng thì nên có văn bản hướng dẫn cụ thể để Tòa án có phán quyết khách quan, đảm bảo quyền lợi cho bị cáo.

Thứ năm, cần quy định rõ ràng, hướng dẫn cụ thể về “Tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ” quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS. Đa số các bản án những năm gần đây hay sử dụng quy định này để áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo.

KẾT LUẬN

Hiếp dâm trẻ em là loại tội phạm xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự và nhân phẩm của trẻ em, đến sự phát triển lành mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần của trẻ em. Trong nhiều trường hợp còn xâm hại đến sức khỏe của trẻ em và ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.

Để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, tính mạng của trẻ em, trong thời gian qua, nhà nước ta đã kịp thời sửa đổi những quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em. Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời đã kế thừa các quy định của BLHS năm 1985 và hoàn thiện điều luật riêng quy định về tội hiếp dâm trẻ em, tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật đối với nhóm tội xâm phạm tình dục phụ nữ và trẻ em nói chung và tội hiếp dâm trẻ em nói riêng.

Qua nghiên cứu về tội hiếp dâm trẻ em, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (có sửa đổi năm 2009), chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tội hiếp dâm trẻ em như sau: Tội hiếp dâm trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi. Về dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em, trước hết phải kể đến khách thể của tội hiếp dâm trẻ em là xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ: Quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Đồng thời hành vi hiếp dâm trẻ em còn xâm phạm đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em, làm băng hoại các giá trị đạo đức xã hội, gây những tổn thương về sức khỏe và có trường hợp còn nguy hiểm đến tính mạng của trẻ em. Về hành vi khách quan của tội hiếp dâm trẻ em đó là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, hành vi dùng thủ đoạn khác và hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân là trẻ em. Lỗi của người phạm tội hiếp dâm trẻ em là lỗi cố ý. Người thực hiện hành vi hiếp dâm trẻ em phải thỏa mãn điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự và điều kiện về độ tuổi.

Những kết quả đạt được qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả nghĩ rằng nhất định nó sẽ góp phần hoàn thiện và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận của khoa học pháp lý hình sự, có thể vận dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội hiếp dâm trẻ em. Chắc rằng sẽ còn nhiều khiếm khuyết trong quá trình nghiên cứu. Vì vậy, rất mong các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn và đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tôi tiếp thu, rút kinh nghiệm khi bước vào những đề tài ở tầm cao hơn.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CUA NGUYEN\LUAN VAN NGUYEN HUNG VUONG\M

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *