Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Đây là những quyền cơ bản Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 20 thì: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [1]

Bộ luật hình sự với vai trò là công cụ hữu hiệu để để đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ tính mạng, thân thể của mọi công dân. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đã quy định các tại Chương XIV BLHS năm 2015 bao gồm 07 tội danh được quy định tại các điều từ 134 đến Điều 140 Bộ luật hình sự.

Trong thời đại kinh tế thị trường, tình hình tội phạm trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp do đó các cơ quan tư pháp, kiên quyết đấu tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế thì những năm gần đây nhóm tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe có xu hướng gia tăng trong đó tội cố ý gây thương tích đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe con người, gây bất ổn cho xã hội, là tội phạm thường xuyên diễn ra và là mối quan tâm nhức nhối cùa cả nước nói chung và trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng nói riêng.

Trong những năm qua, các Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình khi tích cực phát hiện, điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nhiều vụ án cố ý gây thương tích kịp thời, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa án gặp không ít những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định của BLHS trong hoạt động xét xử. Chính những lý do này dẫn đến việc định sai tội danh và quyết định hình phạt chưa công bằng và khách quan trong một số vụ án. Nhằm hạn chế tình trạng này và nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà trong việc giải quyết các vụ án nói chung cũng như các vụ phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các cơ quan tố tụng quận Sơn Trà đang cố gắng thực hiện trong tình hình hiện nay.

Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” để làm để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ.

  1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

+ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, các khái niệm, dấu hiệu pháp lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan.

+ Trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019, từ đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập, cũng như nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, bất cập này;

+ Đề xuất hệ thống giải pháp khoa học để góp phần hoàn quy định của pháp luật, nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 và thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật của Cơ quan THTT quận Sơn Trà với tội này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi về đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội này đối với đối tượng phạm tội của cơ quan tố tụng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

+ Phạm vi về chủ thể: Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng trong áp dụng pháp luật về tội danh này với người phạm tội.

+ Về địa bàn nghiên cứu: địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

+ Về thời gian: giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Cơ sở lý luận của luận văn trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm để làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, bình luận, so sánh thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu… trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu để tạo ra kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu các vụ án đã được khởi tố tại cơ quan Công an; những bản án đã xét xử của Tòa án nhân dân và các báo cáo sơ kết, tổng kết liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà. Đồng thời kết hợp, đánh giá các số liệu, tư liệu trong các bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố liên quan tới công tác phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà mà còn góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự về tội phạm cụ thể.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài là một công trình nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về tội cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn quận Sơn Trà. Bên cạnh đó, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn chuyên đề, nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục thì nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam.

Chương 2. Tình hình có liên quan và thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi con người. Có nhiều cách hiểu khác nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, sức khỏe được hiểu là tình trạng cơ thể bình thường, không có bệnh tật hoặc không có thương tật ảnh hưởng đến thể chất bình thường của con người. Quan điểm khác lại cho rằng: “Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng thái tâm lý, sự hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng chống lại bệnh tật[11, tr.206, 207].

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:

“Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả” [10, tr.835].

Xâm phạm sức khỏe con người là tác động bên ngoài làm cho người bị xâm hại mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó gây ảnh hưởng đến quá trình sinh hoạt làm việc bình thường của họ. Hành vi này xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của con người, đến quyền được bảo vệ về sức khoẻ của con người được pháp luật ghi nhận. Hành vi dùng sức mạnh vật chất bằng nhiều phương pháp tác động lên thân thể của con người làm cho họ có những thương tích. Thương tích này có thể là vết thương thẩm mỹ, nghiêm trọng hơn có thể mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay, cánh tay, bàn chân…để lại cơ thể không lành lặn. Hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người làm cho tình trạng sức khỏe của nạn nhân yếu đi không còn duy trì bình thường như trước. Tổn hại cho sức khỏe của người khác mặc dù không để lại vết thương hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân nhưng làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó.

Như vậy, có thể hiểu “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” là hành vi bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau tác động lên cơ thể của người khác làm cho họ mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực của họ.

Tác giả đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe dựa trên cơ sở các phân tích nêu trên các quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe của con người, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý”.

Những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

– Khách thể của tội phạm: khách thể trực tiếp chính là sức khỏe con người. Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến nên cũng như những tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS 2015 có quy định xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Bất kỳ ai xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người đều bị trừng trị thích đáng nên điều luật cũng quy định hình phạt nghiêm khắc nhất là chung thân, thể hiện thái độ của nhà nước với tội phạm này một cách kiên quyết.

– Mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình sự quy định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự bao gồm các yếu tố sau: hành vi khách quan; hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và hậu quả xảy ra trên thực tế. Trong đó, hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất, các dấu hiệu khác như: hậu quả, mối quan hệ nhân quả, công cụ, phương tiện phạm tội… chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan.

Tội cố ý gây thương tích được thể hiện qua hành vi dùng vũ lực có hoặc không sử dụng vũ khí hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể ngưòi khác gây tổn thương cho họ. Hành vi này có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện, vũ khí để phạm tội như đâm, chém, bắn…hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội như dùng tay chân đấm, đá hoặc có thể thông qua các phương tiện phạm tội khác như dùng xe lao vào người, thả súc vật cắn. hành vi khách quan của tội này thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.

Hậu quả của tội cố ý gây thương tích cho người khác là để lại vết thương và được xác nhận bằng kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân. Đây là thiệt hại gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất, là những thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác. Việc xác định có hậu quả xảy ra trên thực tế có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội, đảm bảo xét xử đúng người đúng tội và có vai trò quan trọng trong việc quyết định hình phạt.

Nếu tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11%, không gây cố tật thì không phải chịu TNHS. Tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 11% trở lên thị bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, có một số trường hợp tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe không đến 11% nhưng lại thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 thì hành vi đó vẫn bị truy cứu TNHS. Như vậy, hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp sau thì cũng phạm tội:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người

Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 được chia thành 4 tình tiết tương ứng với việc người phạm tội dùng “vũ khí”, “vật liệu nổ” (đây là hai tình tiết mới bổ sung), “hung khí nguy hiểm” và “thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người”. Về nội hàm của quy định thì “vũ khí” thuộc một trong các dạng của “hung khí nguy hiểm”, do vậy, so với quy định cũ, điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự mới chỉ có bổ sung thêm việc dùng “vật liệu nổ” là tình tiết định khung cơ bản. Tình tiết này, trước khi được sửa đổi năm 2017 thì điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định là “Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên”.

Một vấn đề nữa chúng ta cần lưu ý về sự thay đổi ở nội dung của tình tiết “dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” của quy định cũ với tình tiết “dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người” của quy định mới. Việc bổ sung từ “có khả năng” vào tình tiết này giải quyết dứt điểm vướng mắc trong thực tiễn trước đây là người phạm tội có “dùng thủ đoạn” nhưng thực tế sau khi tội phạm hoàn thành thì “chưa xảy ra hậu quả gây nguy hại cho nhiều người” – điều này dẫn đến thiếu thống nhất và tạo sự lúng túng trong áp dụng pháp luật, nhất là trong hoạt động tố tụng; quy định mới này xác định rõ là không cần chờ đến hậu quả “gây nguy hại cho nhiều người” xảy ra, mà chỉ cần chứng minh được “thủ đoạn” đó đã được thực hiện và “có khả năng” gây nguy hại cho nhiều người.

b) Dùng a – xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm

Hóa chất nguy hiểm được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 3 Thông tư 04/2012/TT-BCT quy định phân loại và ghi nhãn hóa chất do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành, bao gồm các đặc tính như dễ nổ, ăn mòn mạnh, oxy hóa mạnh.

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc không có khả năng tự vệ

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ. Đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự mới đối với cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để đáp ứng yêu cầu của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong tình hình hiện nay, được áp dụng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện từ ngày 01/01/2018. Tình tiết này là tổng hợp của 4 dấu hiệu định khung có tính chất nguy hiểm tương đương nhau được quy định chung trong cùng một điểm của điều luật, đó là: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phạm tội với phụ nữ mà biết là có thai, phạm tội với người già yếu và phạm tội với người không có khả năng tự vệ.

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. BLHS hiện hành đã cụ thể hóa quy định về giới hạn độ tuổi, trong đó thay thế thuật ngữ “trẻ em” trước đây bằng thuật ngữ xác định rõ độ tuổi là “người dưới 16 tuổi”. Quy định này tạo sự rõ ràng, thống nhất trong việc áp dụng quy định của BLHS. Xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ những người khó có khả năng tự vệ trước những hành vi xâm hại của tội phạm làm tổn hại lớn cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần cho đối tượng đặc biệt này. Việc xác định độ tuổi của người dưới 16 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 [36]. Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi là tình tiết khách quan nên chỉ cần xác định bị hại là người dưới 16 tuổi thì người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà không cần người phạm tội phải nhận thức được đối tượng mình thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người dưới 16 tuổi.

Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai. Phụ nữ có thai cũng là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, đây là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội “mà biết”, tức là phải xác định người phạm tội biết bị hại là người đang có thai mà vẫn thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với người đó mới áp dụng tình tiết tăng nặng này. Việc biết của người phạm tội có thể do bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được (thai đã lớn) hoặc biết được, nghe được từ các nguồn thông tin khác nhau về việc người phụ nữ đó đang mang thai.

Phạm tội đối với người già yếu. Đây không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội nên không đòi hỏi người phạm tội phải biết người mà mình xâm phạm là người già yếu, chỉ cần xác định người bị xâm phạm là người già yếu thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung tăng nặng này. Người già được nhắc đến trong Bộ luật hình sự 1999 được hiểu là người từ 70 tuổi trở lên (theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP) đến khi Bộ luật hình sự 2015 được ban hành thì đã không còn thuật ngữ người già mà chỉ còn người đủ 70 tuổi trở lên. Tuy nhiên, có thể suy ra, người già được xác định là người đủ 70 tuổi trở lên. Vì vậy, khi xem xét quyết định áp dụng tình tiết phạm tội đối với người già yếu, Tòa án phải căn cứ vào mỗi trường hợp cụ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe và độ tuổi của người bị hại tại thời điểm bị tội phạm xâm hại để quyết định áp dụng hay không. Học viên đồng tình với quan điểm cho rằng, “người già yếu phải là người từ đủ 70 tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng ốm đau hoặc không trong tình trạng ốm đau nhưng là người yếu”[40].

Phạm tội đối với người không có khả năng tự vệ. Đây cũng là tình tiết thuộc dấu hiệu khách quan nên không yêu cầu người phạm tội biết bị hại có phải là người không có khả năng tự vệ hay không. Quy định này cũng chưa có văn bản hướng dẫn có giá trị pháp lý của cơ quan có thẩm quyền.”

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình

Là những người có quan hệ ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, dạy dỗ đối với người thực hiện hành vi phạm tội, với việc quy định này nhằm đề cao giá trị đạo đức trong xã hội trước hành vi phạm tội.

đ) Có tổ chức

Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS thì người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn

Đây là quy định mới được bổ sung tại điểm e khoản 1 Điều 134. Việc bổ sung quy định này nhằm hướng tới việc đảm bảo nhân quyền, đảm bảo quyền và lợi cho công dân tốt hơn, đảm bảo sự nghiêm chỉnh trong thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng có nghề nghiệp đặc thù như bảo vệ, vệ sỹ …

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Người phạm tội lúc này đang bị tước một số quyền tự do như đang chấp hành án hình sự hoặc hành chính cần có thái độ tôn trọng pháp luật một cách cao nhất thì lại tiếp tục thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. BLHS năm 2015 đã thêm và sửa đổi như bổ sung các trường hợp “đang chấp hành án phạt tù”. Đồng thời sửa trường hợp đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thành đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho phù hợp với thực tế. So với Bộ luật hình sự năm 2015, tình tiết này cũng được sửa lại cho đầy đủ và rõ nghĩa.

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hoặc gây thương tích tổn hại sức khỏe cho sức khỏe của người khác do được thuê

Tình tiết này cơ bản giống với Điều 104 BLHS năm 1999 tuy nhiên có sự bổ sung thêm gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo nội dung Điều luật. Đây là trường hợp phạm tội được xem là nghiêm trọng hơn so với bình thường nên dù thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe gây ra dưới 11% thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 134.

i) Có tính tính chất côn đồ

Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995 giải thích “có tính chất côn đồ” là hành động của những tên:

– Coi thường pháp luật;

– Luôn phá rối trật tự trị an;

– Sẵn sàng và thích dùng vũ lực để uy hiếp người khác;

– Vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự người khác.

Hiện nay, Án lệ số 17/2018/AL có xác định yếu tố được đánh giá là “có tính chất côn đồ” là việc: “chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với nhau mà tội phạm đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của nạn nhân.”

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân

Quy định tại BLHS năm 1999 xác định đây là tình tiết tăng nặng do mục đích của người phạm tội là “để cản trở người thi hành công vụ”. Trên thực tế xét xử thì nhiều trường hợp chứng minh mục đích “để cản trở” này không thực sự rõ ràng, phần nhiều phụ thuộc vào lời khai của người phạm tội. Như vậy, cần chú ý 02 điểm mới phát sinh là: Điểm mới thứ nhất là không cần chứng minh người phạm tội gây thương tích cho người bị hại nhằm mục đích cản trở người thi hành công vụ hay không, chỉ cần người bị hại là người đang thi hành công vụ là đủ điều kiện để áp dụng và cũng không cần chứng minh hoạt động công vụ của người bị hại đang thi hành có liên quan đến người phạm tội hay không; điểm mới thứ hai là xác định rõ thời điểm người bị hại bị gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe là “đang” thi hành công vụ.

– Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm ở đây là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Người phạm tội thực hiện hành vi với mong muốn hay để mặc cho kết quả xảy ra, mong muốn cho người khác bị thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe do đó lỗi được xác định phải là lỗi cố ý. Dấu hiệu về động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

– Chủ thể của tội phạm.

Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có năng lực trách nhiệm hình sự đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Như vậy người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người đủ từ 14 tuổi trở lên, khi thực hiện hành vi phạm tội không bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng nhận thức, và có thể điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì nếu người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội phạm khác có liên quan

1.1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người đều có những dấu hiệu giống nhau như:

– Hậu quả chết người xảy ra, thực hiện do lỗi cố ý.

– Đều có hành vi khách quan như đánh, đâm, chém, bắn…

Trong Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS), tội giết người và tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người được quy định tại Điều 123 và Điều 134. Hai tội danh này có những điểm khác nhau như sau:

– Mục đích của hành vi phạm tội:

+ Tội giết người: Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân.

+ Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Người phạm tội thực hiện hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. Việc nạn nhân chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.

– Xác định mức độ, cường độ tấn công:

+ Tội cố ý gây thương tích làm chết người theo Khoản 4: cường độ tấn công, mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập.

+ Tội giết người: Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn công mạnh có thể gây ra hậu chết người cao hơn.

– Vị trí tác động trên cơ thể:

+ Tội giết người: Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng đầu, ngực, bụng…

+ Tối cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Thường là những vị trí không gây nguy hiểm chết người như vùng vai, tay, chân, v.v…

– Vũ khí, hung khí sử dụng và các tác nhân khác.

+ Xác định hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: Việc xác định vũ khí, hung khí tấn công như súng, dao, gậy…cũng là yếu tố quan trọng nhằm phân biệt hai tội này.

– Yếu tố lỗi:

+ Tội giết người: Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý bao gồm cả cố ý trực tiếp lẫn gián tiếp.

+ Tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra, tức là họ cố ý bởi hành vi của mình nhưng vô ý với hậu quả xảy ra.

– Trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả năng làm chết người mà vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra muốn sao cũng được, nếu hậu quả là gây thương tích thì định tội cố ý gây thương tích, nếu hậu quả là chết người thì người phạm tội phạm vào tội giết người.

1.1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm về phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, dựa trên các quy định về các tội phạm cụ thể, có thể hiểu phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là: trường hợp người bị kích động mạnh về tâm lý do hành vi trái pháp luật của người khác đối với mình hoặc đối với người thân thích của mình dẫn đến làm mất khả năng hạn chế và điều khiển hành vi mà thực hiện hành vi phạm tội đối với người đang có hành vi trái pháp luật nêu trên.

Hai tội phạm này có nhiều điểm giống nhau như sau:

+ Khách thể đều xâm phạm đến là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến mà cụ thể là quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người.

+ Hai tội đều đều đòi hỏi tỷ lệ thương tật nhất định mà nạn nhân gánh chịu vì đều là tội phạm có cấu thành vật chất.

+ Đều thực hiện với lỗi cố ý.

+ Chủ thể của tội phạm đều là chủ thể thường.

Tuy nhiên, giữa hai tội này có những điểm khác nhau cụ thể:

+ Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm trong khi tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì không, nếu có thì chỉ áp dụng xam là tình tiết giảm nhẹ.

+ Nạn nhân phải là người đã thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội còn nạn nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là bất kỳ ai.

+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì tỷ lệ thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% mới cấu thành tội phạm còn ở Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là từ 11% trở lên.

1.1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về phòng vệ chính đáng như sau: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là: hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Giữa hại tội này có một số điểm để phân biệt đó là:

+ Hậu quả của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì tỷ lệ thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% mới cấu thành tội phạm.

+ Chủ thể thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng do động cơ phòng vệ chính đáng nhưng đã vượt quá giới hạn cho phép.

+ Về phía nạn nhân: là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác. Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể.

1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự trong giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1.2.1.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1985

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa non trẻ vừa ra đời đã phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, vừa từng bước xây dựng xã hội mới. Đặc điểm của giai đoạn này là áp dụng pháp luật cũ của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới nhưng đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công bằng. Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là áp dụng pháp luật của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới với nguyên tắc đảm bảo dân chủ, công bằng. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành quả cách mạng là công cụ hữu hiệu nhất, đặc biệt đã thể hiện chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đây cũng là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam.

Nhiệm vụ nổi bật của pháp luật hình sự ở thời kỳ này là phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đi đến thắng lợi, trừng trị bọn việt gian phản động làm tay sai cho thực dân Pháp, bảo vệ chính quyền non trẻ, bảo vệ các quan hệ xã hội mới được thiết lập và duy trì. Trong điều kiện như vậy, nhà nước đã kịp thời ban hành một số văn bản pháp luật phục vụ cho những nhiệm vụ cấp bách. Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh tạm thời giữ lại các luật lệ tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật thống nhất trong toàn quốc quy định: “Những điều khoản trong các luật lệ cũ được tạm thời giữ lại do sắc lệnh này chỉ được thi hành khi nào không trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”. Theo nội dung của sắc lệnh, khi xét xử, Tòa án xét xử theo Luật hình cũ mà thực dân Phong kiến đề ra nhưng không được trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do vậy, ở giai đoạn 1945-1954, việc xét xử các tội phạm nói chung vẫn dựa theo luật hình cũ để xét xử. Đó là Bộ hình luật Bắc Kỳ năm 1923, Bộ hình luật Nam Kỳ năm 1912 và Bộ Hình luật Trung Kỳ năm 1933.

Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi. Cách mạnh Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, đất nước bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Do điều kiện kinh tế văn hóa xã hội ở miền Bắc đã có nhiều biến đổi về căn bản so với trước đó nên toàn bộ hệ thống pháp luật của chế độ cũ không được áp dụng nữa. Ngày 19/01/1955, Thủ tưởng Chính phủ đã ban hành Thông Tư số 442/TTg về việc trừng trị một số tội trên cơ sở tổng kết việc áp dụng luật lệ cũ và án lệ. Nội dung của Thông tư yêu cầu khi xét xử các tội phạm nói chung phải theo đường lối chính sách của Đảng. Thông tư này có hướng dẫn về tội cố ý gây thương tích.

Năm 1976, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL ngày 15 tháng 3 năm 1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976 văn bản này được áp dụng cho các nước và được sử dụng cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời và có hiệu lực). Tại Điều 5 của Sắc luật số 03 quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong đó có tội cố ý gây thương tích. Để nhận thức Sắc luật được đúng đắn và để việc áp dụng được thống nhất, ngày 15/04/1976 Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 03/BTP-TT hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL/1976 trong đó hướng dẫn cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Tóm lại, trước khi BLHS năm 1985 chưa ra đời thì việc quy định các tội phạm nói chung và trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở các văn bản quy dưới luật nên giá trị pháp lý của những văn bản đó chưa cao đồng thời các quy định còn quá chung chung, không cụ thể rõ ràng dẫn đến việc áp dụng khó thống nhất, việc xét xử gặp nhiều vướng mắc và do vậy cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

Với sự quan tâm của nhà nước, quá trình pháp điển hóa ở Việt Nam được đẩy mạnh trong giai đoạn 1982-1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời của một bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội phạm và hình phạt – Bộ luật Hình sự năm 1985. Sau nhiều ngày tháng dự thảo, ngày 27/06/1985 Quốc Hội đã thông qua BLHS 1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Trong bộ luật này, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm được quy định tại chương II với những chế tài hết sức nghiêm khắc. Điều 109 BLHS năm 1985 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác như sau:

1- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của người khác;

b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

c) Có tính chất côn đồn hoặc tái phạm nguy hiểm;

3- Phạm tội gây cố tật nặng dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm.

4- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản 2, ở khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm” [6].

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 3/ DUONG CAO CUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *