Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam từ thực tiễn

Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam từ thực tiễn

Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam từ thực tiễn huyện An Lão, Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong gần 90 năm qua cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đã không ngừng đổi mới, mở rộng những hình thức tổ chức, các tên gọi khác nhau trong mỗi giai đoạn cách mạng nhằm để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đọan lịch sử của đất nước và đã có nhiều thành quả, những nhân tố quyết định cho sự nghiệp thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Xuất phát từ những đặc điểm của nước ta, là một nước chỉ có duy nhất một Đảng cầm quyền, không đa nguyên, đa đảng nên nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước của nước ta ở trạng thái phát triển không có đối kháng. Chính vì những lý do đó mà nguy cơ chủ quan, tiềm ẩn những rủi ro mà Đảng ta phải gánh chịu, đó là tệ quan liêu, tham nhũng, độc đoán, cửa quyền của cán bộ công chức nhà nước, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân… chính vì những lý do đó đã làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng bị giảm sút, uy tín của cán bộ công chức bị phai nhạt.

Do vậy, vấn đề cấp bách hiện nay là cần phải xem lại hệ thống kiểm soát quyền lực, vai trò giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam nhằm giới hạn quyền lực, tránh xu lướng lạm quyền, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Đứng trước tình thế cấp bách như vậy, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp phải nâng cao vai trò giám sát của mình theo quy định của pháp luật.

Từ khi có Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (1999); Hiến pháp năm 2013 ghi nhận vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam; Quyết định số 217/QĐ-TW ngày 12/12/2013 về việc ban hành quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các Đoàn thể chính trị – xã hội…thì phạm vi giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp đã được mở ra ở tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhằm nâng cao vị thế của Mặt trận, mang lại những thành quả thiết thực cho nhân dân. Ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định, trong thời gian qua cũng đã bám sát các quy định trên, đã và đang thực hiệt tốt, mang lại những kết quả khả quan, nhưng trong quá trình triền khai hoạt động cũng còn những hạn chế, nội dung và phương thức thực hiện chưa phát huy hết khả năng vốn có của mình.

Đứng trước tình hình khó khăn như vậy, tại Đại hội Đại biểu Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, tỉnh Bình Định lần thứ X, nhiệm kỳ 2019-2024 đã nhấn mạnh: Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp trong huyện cần phải tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Công tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp trong huyện vẫn còn những hạn chế nhất định, nhiều lĩnh vực giám sát chưa được xây dựng kế hoạch, công tác phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp trong huyện và các tổ chức thành viên chưa chặt chẽ, đồng bộ, công tác giám sát còn rời rạc, từng hội đoàn thể nào tự thực hiện giám sát từng nội dung đó, lĩnh vực giám sát còn hẹp nên hiệu quả pháp lý và công tác thuyết phục chưa cao.

Từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, học viên chọn đề tài “Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam từ thực tiễn huyện An Lão, Bình Định”, trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân sẽ góp ý kiến của mình, nhằm nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, tỉnh Bình Định nói riêng và công tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam nói chung.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 

3.1. Mục đích nghiên cứu 

Mục đích tổng quát của đề tài là xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, Bình Định và trên cả nước nói chung, đồng thời hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước nhằm góp phần xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, làm cho bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động ngày càng có hiệu lực, quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội theo pháp luật nhà nước, thể hiện được quyền lực của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Đánh giá thực trạng của công tác giám sát và đưa ra những kết quả và hạn chế của công tác giám sát từ thực tiễn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp của huyện An Lão, tỉnh Bình Định.

– Làm sáng tỏ cơ sở lý luận hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

– Từ kết quả nghiên cứu của hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, tỉnh Bình Định, đề xuất những giải pháp mang tính khoa học để góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giám sát.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 

4.1. Đối tượng nghiên cứu 

Đề tài nghiên cứu các quan niệm khoa học, hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam; vị trí, vai trò, chức năng của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, Bình Định; thực tiễn hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, Bình Định đối với một số đề án, dự án, chủ trương, chính sách trong quá trình xây dựng và phát triển.

4.2. Phạm vi nghiên cứu 

– Về không gian:

Luận văn nghiên cứu về hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, Bình Định trên cơ sở Hiến Pháp 2013, Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 1999, Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị, Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 2015 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

– Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện giấm sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện An Lão, Bình Định từ năm 2014 – 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 

5.1. Phương pháp luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực Nhà nước, về dân chủ; vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam về công tác giám sát, tham gia xây dựng Đảng, xây dưng chính quyền.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp hệ thống

– Phương pháp so sánh

– Phương pháp phân tích tổng hợp…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện An Lão, Bình Định.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập lý luận cho đội ngũ cán bộ Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc trong việc thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc.

7. Kết cấu của luận văn 

Gồm 3 phần: phần mở đầu, phần kết luận và phần nội dung, riêng phần nội dung được chia thành 3 chương:

– Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam

– Chương 2. Thực trạng giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tại huyện An Lão, Bình Định

– Chương 3. Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn huyện An Lão, Bình Định

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ

GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Để đưa ra cách hiểu về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là gì, trước hết cần làm rõ một số khái niệm sau:

  • Giám sát là gì?

Giám sát là thuật ngữ được dùng nhiều trong các văn bản của cơ quan Đảng và Nhà nước.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: “giám sát là một hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những quy định chung nào đó”.

Từ điển Luật học định nghĩa: “giám sát được hiểu là sự theo dõi, quan sát hoạt động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh” [32, tr.389].

Xét về cấu trúc, giám sát được thực hiện bởi hai loại chủ thể: giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước (giám sát trong hệ thống nhà nước) và giám sát của các chủ thể xã hội (giám sát từ bên ngoài vào hệ thống nhà nước).

Hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội được gọi là giám sát chính trị – xã hội. Giám sát chính trị – xã hội phân biệt với giám sát nhà nước ở chỗ: chủ thể giám sát chính trị – xã hội là nhân dân trực tiếp tham gia giám sát hoặc thông qua các tổ chức do mình ủy nhiệm. Giám sát chính trị – xã hội không mang tính quyền lực nhà nước, đối tượng giám sát xã hội là các cơ quan quyền lực nhà nước, phương thức giám sát chính trị – xã hội cũng linh loạt, năng động và khách quan hơn giám sát nhà nước vì nó là giám sát từ bên ngoài vào hệ thống nhà nước.

Mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, từ các định nghĩa này, có thể thấy những đặc trưng duy nhất của giám sát: Là hoạt động phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng trong một hệ thống, cấu trúc xã hội xác định.

Mục đích là nhằm phòng ngừa, uốn nắn những sai phạm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện và đảm bảo cho hệ thống vận hành đạt hiệu quả cao.

Trong hệ thống xã hội, hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, giám sát được thực hiện bởi nhiều cấp độ chủ thể khác nhau: Giám sát của Đảng, giám sát của Nhà nước, giám sát của nhân dân và giám sát của xã hội.

Từ những phân tích trên, có thể nêu định nghĩa. Giám sát là hình thức giám sát của các chủ thể ngoài nhà nước thông qua các tổ chức xã hội hoặc bằng hình thức giám sát trực tiếp của công dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, của đảng cầm quyền nhằm đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân.

Từ khái niệm trên, có thể rút ra các đặc điểm giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:

Tại khoản 2, Điều 25, Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm 2015 đã nêu “Giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mang tính xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. [14, tr.9]

Hoạt động giám sát được thực hiện bởi hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội và hoạt động giám sát của cơ quan Nhà nước. Hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội gọi là giám sát xã hội, chủ thể giám sát xã hội là các đảng chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội, báo chí, công dân. Đảng cầm quyền là chủ thể xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và trực tiếp lãnh đạo Nhà nước. Phương thức giám sát xã hội được thực hiện thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các đoàn thể… bằng hình thức giám sát gián tiếp (thông qua đại diện) hoặc giám sát trực tiếp. Giám sát xã hội là sự bổ sung khách quan cho cho hính thức giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước và hệ thống. Hoạt động giám sát phải được thực hiện theo nguyên tắc phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thành viên của Mặt trận.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta là những thiết chế tổ chức vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội và tính nhân dân.

Thứ nhất, tính chính trị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể – xã hội

– Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập và lãnh đạo.

– Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tính chính trị cần được xác định rõ nét trong quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị.

Thứ hai, tính chất xã hội của ủy ban Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức đoàn thể xã hội

– Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, là nơi tập hợp quần chúng, hiệp thương ý chí nguyện vọng của quần chúng nhân dân.

– Các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội là các tổ chức tự nguyện, tập hợp, đoàn kết và đại diện cho ý chí, lợi ích của các hội viên, đoàn viên. Đồng thời, các đoàn thể chính trị – xã hội này là tổ chức bảo vệ lợi ích hợp pháp, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của các đoàn viên, hội viên, vì sự phát triển của cộng đồng và xã hội.

Các tổ chức chính trị – xã hội là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đồng thời cũng là thành viên của hệ thống chính trị.

Các tổ chức chính trị – xã hội có quan hệ với Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là mối quan hệ hợp tác, chủ động và bình đẳng trong công tác phối hợp thể hiện: Độc lập với nhau về công tác tổ chức, do các tổ chức thành viên đều có điều lệ, có con dấu riêng và đại diện cho lợi ích của từng tổ chức, nhưng chung quy lại, tất cả các tổ chức thành viên đều hoạt động vì lợi ích chung, lợi ích của đất nước, của dân tộc, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

– Uỷ ban Mặt trận giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với các tổ chức thành viên. Các tổ chức đoàn thể với tư cách là thành viên của Mặt trận có quyền yêu cầu Uỷ ban Mặt trận bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, yêu cầu Uỷ ban Mặt trận cùng cấp tổ chức hiệp thương để phối hợp với các thành viên có liên quan nhằm hưởng ứng sáng kiến của mình về các cuộc vận động nhân dân thực hiện chương trình của Mặt trận. Mặt khác, Uỷ ban Mặt trận trong mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức thành viên thực hiện việc cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban mình cho các thành viên; đôn đốc các thành viên thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết dân tộc và tham gia công tác Mặt trận.

– Trong cơ cấu thành phần Uỷ ban Mặt trận, người đứng đầu các đoàn thể chính trị – xã hội, thông qua hiệp thương, được cử vào Uỷ ban Mặt trận, nếu trong thực tiễn hoạt động làm trái những quy định và điều lệ của Mặt trận thì tuỳ mức độ sai phạm mà bị khiển trách, cảnh cáo hoặc thôi công nhận là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

1.1.2. Vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Vị thế, vai trò của Ủy ban Mặt trận tổ Quốc Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các văn kiện, cương lĩnh xây dựng đất nước… Thời gian gần đây Đảng, Nhà nước ta ngày càng khẳng định vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam với quy mô, hình thức rộng hơn, được quy định trong các văn bản như:

Tại khoản 1, Điều 9 Hiến pháp năm 2013 khẳng định vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ngày càng rộng hơn, phù hợp với yêu cầu đổi mới của đất nước. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Tại Điều 1. Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm 2015 quy định: “Kế thừa vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Đứng trước tình hình hình đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước đã nhận thức đúng đắn cần phải nâng cao vị thế, vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, cần phải ban hành các văn bản như Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm 2015, Quyết định 217/QĐ-MTTW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị và một số văn bản khác… đã tạo cơ sở pháp lý cho Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên nâng cao hơn nữa vai trò giám sát xã hội của mình, qua đó khẳng định Mặt trận là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là nơi tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Thứ nhất, tham gia xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh

Trong thực tế hiện nay, yêu cầu cấp bách và khách quan cần phải đặt ra là phải khắc phục được những tồn tại, khuyết điểm trong tổ chức và hoạt động của Đảng, những hạn chế, khuyết điểm đó thể hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau mà có lúc, có nơi Đảng chưa thực hiện tốt trong phong cách lãnh đạo, trong rèn luyện phẩm chất cán bộ, đảng viên và các vấn đề kinh tế – xã hội. Để khắc phục được những hạn, chế tồn tại đó thì Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên có vai trò rất to lớn, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là nơi tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, và thông qua đó, Đảng, Nhà nước mới gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống xã hội của nhân dân, qua đó các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được kiểm nghiệm qua thực tiễn và thông qua thực tiễn Đảng sẽ có định hướng đúng đắn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của mình, khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm trong Đảng.

Để công tác lãnh đạo của Đảng được vận hành thông suốt, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, Đảng phải xây dựng được cho mình bộ máy tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Mặt trận và các tổ chức thành viên thông qua hoạt động của mình sẽ góp phần phát huy sức mạnh bộ máy tổ chức Đảng như:

– Mặt trận và các tổ chức thành viên phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng và bảo vệ Đảng, vận động nhân dân giám sát các tất cả các hoạt động của cấp ủy Đảng tại địa phương để kịp thời phát hiện những hạn chế, khuyết điểm của tổ chức cơ sở Đảng ở cơ sở; tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt, việc tốt. Qua đó, Mặt trận và các tổ chức thành viên sẽ giáo dục chính trị, tư tưởng cho các đoàn viên, hội viên, phát hiện và bồi dưỡng những nhân tố điển hình, ưu tú giới thiệu cho Đảng để kết nạp, góp phần làm tăng số lượng và chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng.

Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách… các đường lối, chủ trương, chính sách ấy phải xuất phát từ nhu cầu lợi ích chính đáng của nhân dân thông qua kiểm nghiệm thực tiễn đời sống xã hội, thực tiễn sẽ chứng minh được tính đúng đắn, hiệu quả từ các chủ trương, đường lối của Đảng. Mặt trận và các tổ chức thành viên phản ánh những tâm tư, nguyện vọng, những vấn đề bức xúc của nhân dân trong thực tiễn đời sống ở địa phương để Đảng có những định hướng đúng đắn trong việc ban hành các chủ trương, đường lối phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội để lãnh đạo có hiệu quả;

Mặt trận và các tổ chức thành viên sẽ tổ chức các cuộc họp lấy ý kiến của nhân dân đối với những chủ trương, chính sách lớn, liên quan đến đại bộ phận đời sống xã hội của nhân dân, để cho các tầng lớp, giai tầng trong xã hội được tham gia góp ý, từ đó Đảng kịp thời điều chỉnh, bổ sung vào chủ trương, chính sách của mình trước khi ban hành.

Sau khi các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành. Mặt trận và các tổ chức thành viên có nhiệm vụ đưa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật vào đời sống xã hội thông qua các cuộc tuyên truyền bằng các hình thức, hình ảnh trực quan sinh động phù hợp với từng địa bàn khu dân cư, như tổ chức hội họp, các ngày hội, ngày lễ lớn của địa phương, các diễn đàn, các cuộc thi, thông qua đó Mặt trận và các tổ chức thành viên tích cực tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện tốt các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tế đời sống của nhân dân.

Các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được kiểm nghiệm trong đời sống xã hội thì Đảng sẽ rút ra được những kinh nghiệm và hạn chế trong việc đưa ra quyết sách của mình về một vấn đề náo đó.

Với vai trò của mình, Mặt trận là liên minh chính trị, là cơ sở quần chúng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mặt trận không đứng ngoài cuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội mà luôn luôn cùng Đảng khắc phục những khó khăn, hạn chế của Đảng, Nhà nước, chăm lo, phát triển tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng những hành động, những việc làm cụ thể.

Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng” và “giữ chặt mối liên hệ với quần chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng mà nhờ đó Đảng thắng lợi”.

Thông qua mối liên hệ giữa Đảng phải giữ nguyên tắc với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng ngày càng được củng cố, phát triển, sức mạnh của Đảng được tăng cường…Nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước để cùng Đảng xây dựng và bảo vệ Nhà nước.

Thứ hai, vai trò của Mặt trận Tổ Quốc đối với việc phát huy sức mạnh tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, sức mạnh của nhân dân là nền tảng cho sức mạnh của Nhà nước, nó được hình thành và được phát triển liên tục của khối đại đoàn kết toàn dân, thể chế Nhà nước của nhân dân.

Ngày nay, thể chế Nhà nước của nhân dân, sức mạnh của Nhà nước, quan hệ và hoạt động đang đặt ra những vấn đề cấp bách như:

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta phải được thực hiện tốt hơn, quá trình dân chủ hóa tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phải được tăng cường, Nhà nước quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, đề cao dân chủ.

Đổi mới phong cách làm việc của đổi ngũ cán bộ công chức, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.

Để cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và cơ chế quản lý mới thành pháp luật cụ thể, xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội … thì Bộ máy Nhà nước phải khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, xây dựng một bộ máy Nhà nước trong sạch, tinh gọn mới có đủ điều kiện để thực hiện.

Tăng cường thực hiện mối quan hệ hợp tác quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên thế giới trên nguyên tắc hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống lại mọi âm mưu và những hành động chống phá Nhà nước của các thế lực thù địch, tăng cường và củng cố quốc phòng – an ninh.

Nhà nước phải giữ mối liên hệ, phối hợp tốt với Mặt trận và các tổ chức thành viên, thông qua Mặt trận và các tổ chức thành viên để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tham gia xây dựng chính quyền.

Mặt trận và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đảng ta đã đổi mới định hướng và ý thức đầy đủ hơn về Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, nhân dân làm chủ tất cả các mặt của đời sống xã hội, vấn đề làm chủ của nhân nhân có mối quan hệ mật thiết với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Mặt trận và các tổ chức thành viên đã tiến hành những hình thức để thu hút, tổ chức nhân dân tham gia xây dựng chính quyền như:

Một là: tham gia tổ chức bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân góp phần nâng cao sức mạnh của Nhà nước: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam sẽ tổ chức hội nghị để hiệp thương, thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng để giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội; ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp ở địa phương phối hợp với Ủy ban Nhân dân và Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập và tham gia các tổ phụ trách bầu cử cùng cấp để tổ chức bầu cử; chủ trì các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, báo cáo giữa ứng cử viên trong bầu cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp; Mặt trận và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia chất vấn ứng cử viên, tham gia đi bỏ phiếu đầy đủ trong ngày bầu cử. Đồng thời Mặt trận và các tổ chức thành viên ở địa phương tham gia giám sát quá trình bầu cử, để phát hiện và uốn nắn những sai sót kịp thời trong quá trình bầu cử.

Hai là, tham gia vào hoạt động tư pháp cùa Nhà nước, phát huy sức mạnh của cơ quan tư pháp: Mặt trận tổ Quốc Việt Nam các cấp tham gia vào hoạt động tư pháp bằng các hình thức như: Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp phối hợp với các tố chức thành viên tổ chức hiệp thương, giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn để làm Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Viện Kiểm Sát, Công an, Tòa án, các cơ quan tư pháp của Nhà nước để tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành pháp luật, xây dựng pháp luật và phòng ngừa, tránh các hành vi vi phạm pháp luật.

Ba là, Tham gia vào hoạt động hành pháp của Nhà nước, phát huy sức mạnh của hệ thống các cơ quan quản lý hành chính: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam phối hợp với Chính phủ, tham gia thảo luận các chủ trương lớn trong các kỳ họp của Chính phủ, cùng Chính phủ tổ chức và chỉ đạo các phong trào thi đua yêu nước của nhân dân liên quan đến các vấn đề kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng trong phạm vi cả nước, tham gia giám sát mọi hoạt động của Chính Phủ. Ở địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc các cấp phối hợp với Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân cùng cấp củng cố chính quyền nhân dân, phát huy quyền làm của của nhân dân; tham gia giám sát mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước ở địa phương, giám sát cán bộ, công chức trong việc thực hiện phạm vi, chức trách của mình tại các cơ quan, đơn vị, tại nơi cư trú; Mặt trận và các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy tinh thần khối đại đoàn kết toàn dân, cùng nhau đấu tránh chống phá mọi âm mưu diễn biến hòa bình, chống phá của các thế lực thù địch, tham gia hòa giải các tranh chấp, mẫu thuẫn nhỏ trong địa phương, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền.

Mặt trận và các tổ chức thành viên vận động, tổ chức nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia xây dựng chính sách, pháp luật.

Nhà nước điều hành, quản lý xã hội với những hình thức, chính sách khác nhau, nhưng công cụ mà Nhà nước quản lý chủ yếu là pháp luật, kế hoạch, chính sách trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Mặt trận và các tổ chức thành viên tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành các chính sách của pháp luật, đưa các chính sách, các kế hoạch đó vào đời sống của nhân dân địa phương, vận động nhân dân tham gia xây dựng, góp ý các chính sách, kế hoạch của Nhà nước, góp phần xây dựng và củng cố Nhà nước.

Mặt trận và các tổ chức thành viên phối hợp với Hội Đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân Dân cùng cấp xây dựng các kế hoạch, chính sách nhà nước thông qua các kỳ họp Hội đồng Nhân dân, cuộc họp Ủy ban Nhân dân để tham gia thảo luận, đóng góp ý phù hợp với tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của người dân. Đồng thời, tổ chức các cuộc họp dân, các cuộc tiếp xúc cử tri với Đại biểu Quốc Hội, Đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp … để các đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của người dân, phản ánh tại các kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp và Đại biểu quốc hội phản ánh tại các kỳ họp Quốc hội.

Ngoài ra, Mặt trận và các tổ chức thành viên còn tham gia xây dựng pháp luật. Thông qua các buổi họp dân, các diễn đàn, các cuộc họp, hội nghị của Mặt trận và các tổ chức thành viên, với tinh thần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân tham gia góp ý vào các dự thảo văn bản luật, văn bản dưới luật như pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ; tham gia sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Mặt trận và các tổ chức thành viên thay mặt nhân nhân phản ánh những ý kiến, góp ý với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ về dự thảo xây dựng các pháp lệnh, các dự án luật…

Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức thành viên vận động, tổ chức nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ, tham gia giám sát Nhà nước.

Mặt trận và các tổ chức thành viên thông qua hoạt động giám sát xã hội của mình, giám sát tất cả các mặt của đời sống xã hội, giám sát việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn, giám sát thẩm quyền thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của các bộ, công chức Nhà nước. Qua đó, phát hiện những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của các cơ quan chuyên môn, của cán bộ, công chức, kịp thời phản ánh với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Cơ quan Chính Phủ, khi ban hành các văn bản, chính sách lớn, có liên quan đến quyền, và lợi ích của nhân dân thì phải gửi dự thảo lấy ý kiến đến cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, và các cơ quan Chính phủ phải có trách nhiệm giải trình, chất vấn khi Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam có ý kiến tham gia.

Lãnh đạo các cơ quan Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho Mặt trận và các tổ chức thành viên, cơ quan thanh tra tham gia giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân.

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh, huyện hướng dẫn Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các xã, thị trấn thành lập Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng để tiến hành giám sát tất cả hoạt động của chính quyền địa phương ở cơ sở.

Cán bộ công chức “Là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân”. Mặt trận và các tổ chức thành viên có trách nhiệm giám sát tất cả mọi hoạt động của cán bộ, công chức và thông qua giám sát, Mặt trận và các tổ chức thành viên sẽ phát hiện những việc làm sai trái, những hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, kịp thời kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp hàng năm phải báo cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình, Đại biểu Quốc hội bầu trong một tỉnh, thành phố thành lập đoàn đại biểu Quốc hội, để giữ mối liên hệ chặt chẽ với cơ quan chính quyền địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc các cấp, Đại biểu quốc hội các vấn đề liên quan đến Đại biểu Quốc hội. Nếu đại biểu Quốc hội có thể không hoàn thành nhiệm vụ của mình thì Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam hoặc cử tri đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bãi nhiệm đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội.

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thông qua hoạt động giám sát của mình đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và củng cố chính quyền, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận và các tổ chức thành viên vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào quần chúng, cùng Nhà nước thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững.

Để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình và thực thi pháp luật, hiểu biết pháp luật thì Mặt trận và các tổ chức thành viên phải tổ chức tuyên truyền, đưa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.

Phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện có hiệu quả việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện các chính sách vay vốn xóa đói giảm nghèo, các chính sách dân tộc, tôn giáo…

Mặt trận và các tổ chức thành viên thường xuyên tổ chức những cách làm hay, những mô hình lớn để nhân rộng trong phạm vi cả nước, đặc biệt là các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động như người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới ở khu dân cư… nhằm xóa bỏ những hủ tục lạc hậu và xây dựng đất nước ngày càng văn minh.

1.2. Nội dung giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam

Tại khoản 2, Điều 26 Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam sửa đổi năm 2015 quy định “Nội dung giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam là việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, quyền và trách nhiệm vủa Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam” .

Tại khoản 2, Điều 4 quy chế giám sát quy định “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vẫn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.

Tại khoản 2, Điều 26 Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam sửa đổi năm 2015 và tại khoản 2, Điều 4 quy chế giám sát. Quyết định số 217/QĐ-TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị quy định phạm vi giám sát rộng hơn 2 văn bản trên.

Giám sát xã hội có nội dung rất rộng, liên quan đến tất cả những lĩnh vực, những vấn đề của đời sống cộng đồng (giai cấp, dân tộc, quốc gia): Từ khâu hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật đến khâu tổ chức thực hiện; từ lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến an ninh, quốc phòng; từ đối nội đến đối ngoại; từ tổ chức bộ máy, con người đến công việc của con người và bộ máy; từ tầm vĩ mô đến trung, vi mô.

Ở nước ta hiện nay, nội dung này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI và XII.

1.3. Trình tự, thủ tục giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam

Căn cứ các cơ sở pháp lý của các văn bản như: Thông tri số 23/TTr-MTTW-BTT ngày 21/07/2017; Nghị quyết liên tịch số 403 ngày 15/6/2017; Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 2015… quy định trình tự, thủ tục giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các cấp giám sát bằng hình thức tổ chức đoàn giám sát được thực hiện theo các bước sau:

Bước 1: Xây dựng kế hoạch giám sát, thu thập thông tin, tài liệu chuẩn bị cho công tác giám sát

Căn cứ vào Khoản 2, Điều 6 Nghị quyết liên tịch số 403. Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp tiến hành xây dựng kế hoạch thành lập đoàn giám sát; căn cứ vào nội dung, đối tượng, phạm vi cần giám sát, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp mời các cơ quan liên quan đến nội dung cần giám sát để làm thành viên đoàn giám sát, nội dung được gíam sát và kế hoạch giám sát gửi cho thành viên tham gia đoàn giám sát nghiên cứu trước.

Sau đó các thành viên tham gia đoàn giám sát và Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp căn cứ vào nội dung, phạm vi và đối tượng cần được giám sát, tiến hành nghiên cứu kỹ các văn bản, nghị quyết liên quan đến nội dung cần được giám sát; thu thập thông tin, tài liệu, ý kiến, kiến nghị của nhân dân, tiến hành tổng hợp, theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng để trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng trong quá triền tiến hành giám sát.

Bước 2. Ban hành và thông báo quyết định thành lập đoàn giám sát

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp ban hành quyết định thành lập đoàn giám sát dựa trên kế hoạch giám sát của mình.

Chậm nhất là 15 ngày, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp tiến hành gửi kế hoạch giám sát, quyết định thành lập đoàn giám sát và nội dung cần được giám sát cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.

Trước 7 ngày đoàn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp tiến hành giám sát, thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát phải gửi báo cáo bằng văn bản cho đoàn giám sát.

Bước 3. Đoàn giám sát làm việc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát

Tại Điều 8, Nghị quyết liên tịch số 403 ngày 15/6/2017, quy định rõ thủ tục, trình tự của đoàn giám sát làm việc với các cơ quan, tổ chức.

Trong quá trình giám sát, thành viên đoàn giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp nếu có phát hiện ra những sai phạm, những hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng được giám sát, kịp thời báo cáo với cơ quan có thẩm quyền giải quyết, xử lý, uốn nắn những sai phạm, để góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân.

Bước 4. Báo cáo kết quả giám sát và kiến nghị sau giám sát.

Tại Điều 9, Nghị quyết liên tịch số 403 ngày 15/6/2017 quy định rõ báo cáo kết quả giám sát và kiến nghị sau gíam sát.

Bước 5. Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị sau giám sát

Việc đôn đốc, theo dõi các kiến nghị sau giám sát là khâu cuối cùng và là khâu quan trọng nhất trong quá trình giám sát xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp.

Qua theo dõi, nếu thấy các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chưa trả lời các ý kiến, kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp, trong quá trình tổ chức gíam sát thì Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp có thể kiến nghị lên cấp trên trực tiếp của cơ quan có thẩm quyền, để trả lời các kiến nghị hoặc chỉ đạo các cơ quan cấp dưới phải xem xét giải quyết. Ngoài ra, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cùng cấp có thể phản ánh các ý kiến, kiến nghị đó vào thông báo Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền tại các kỳ họp Hội đồng nhân dân gần nhất.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam

1.4.1. Yếu tố chính trị

Để phát huy vai trò của Mặt trận và các tổ chức thành viên thì công tác giám sát là một hoạt động quan trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao vi thế của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, qua giám sát sẽ phát hiện được những ưu thế, chỉ ra những khuyết điểm, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa chữa, khắc phục, bổ sung vào những chủ trương, chính sách, qua đó phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Để thực hiện tốt công tác giám sát của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam phải phối hợp tốt với các tổ chức thành viên cùng cấp, đảm bảo công tác giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên phải khách quan, công khai, minh bạch đối với các cơ quan, tổ chức hặc cá nhân, không làm ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và công giám sát phải mang tính xây dựng, xác đúng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Thực hiện công tác giám sát, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên sẽ có dịp đóng góp những kiến nghị, đề xuất của mình trong công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh. Đồng thời dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng Sản Việt Nam, là một Đảng duy nhất lãnh đạo, thì bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn những nguy cơ chủ quan, cửa quyền, duy ý chí là điều không thể tránh khỏi.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 3/ LE THI MY

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *