Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Hiệp Đức

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Hiệp Đức

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xã, phường, thị trấn gọi chung là cấp xã, là chính quyền cấp thấp nhất ở cơ sở. Đây là cấp chính quyền có quan hệ trực tiếp đến từng người dân là cầu nối chuyển tải mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Cấp xã là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân, là nơi nhân dân trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của mình.

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. HĐND xã, phường, thị trấn gọi chung là HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp xã.

Tại Điều 113 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do Luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật địa phương và thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân” [39, tr.29].

Qua thực tiễn hoạt động cho thấy vị trí, vai trò của HĐND các cấp ngày càng được nâng lên góp phần quan trọng cùng nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế, xã hội của địa phương. Hoạt động của HĐND có sự thay đổi, phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, từng bước bắt kịp với nhịp độ phát triển của địa phương cũng như của cả nước.

Vấn đề thực hiện các chủ trương của Đảng về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở trong những năm qua, quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương nói chung trong đó nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã nói riêng đã đạt được những kết quả quan trọng góp phần xây dựng chính quyền ngày càng vững mạnh, vị trí vai trò của HĐND cấp xã ngày càng được khẳng định và thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 nhằm tạo cơ sở pháp lý để tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, bảo đảm cho chính quyền địa phương hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bộ máy hành chính nhà nước được thông suốt từ Trung Ương đến cơ sở; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của chính quyền địa phương. Việc ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã kế thừa những ưu điểm và khắc phục những hạn chế của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003.

Cùng với chủ trương đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở trong những năm qua, quá trình đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương nói chung trong đó có nội dung đổi mới tổ chức và hoạt độn của HĐND cấp xã nói riêng đã dạt được những thành tựu quan trọng góp phần xây dựng chính quyền địa phương ngày càng vững mạnh, vị trí vai trò của HĐND xã ngày càng được khẳng định và thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.

Hiệp Đức là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã là việc cần thiết góp phần tích cực trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân đồng thời giải quyết vấn đề gây bức xúc trong nhân dân. Qua thực tiễn cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được HĐND cấp xã của huyện Hiệp Đức vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Chất lượng hoạt động của HĐND chưa phản ánh rõ nét qua các kỳ họp, năng lực, trình độ và nhận thức của đại biểu HĐND chưa xứng tầm với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và nguyện vọng của cử tri.

Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phương thức tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung cũng như HĐND cấp xã nói riêng qua đó đưa ra một số giải pháp hy vọng có thể góp phần và công cuộc đổi mới, hoàn thiện bộ máy cơ quan quyền lực mà Nhà nước ta đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay nên tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài có mục đích nghiên cứu hệ thống các văn bản quy định của pháp luật về tổ chức HĐND và việc thực hiện các quy định về tổ chức và hoạt động của HĐND. Trên cơ sở nghiên cứu tổng kết, luận giải làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài đề xuất các kiến nghị, quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của HĐND ở nước ta hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tiến hành phân loại, đánh giá khách quan khoa học về tổng quan tình hình nghiên cứu và xác định những vấn đề kế thừa, những vấn đề cần phải nghiên cứu theo mục đích, nhiệm vụ của luận án.

Nghiên cứu những lý luận cơ bản về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã trong hệ thống bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, làm rõ về vị trí, vai trò, tính chất, quan niệm, mô hình HĐND hợp lý; khái niệm, đặc điểm về tổ chức và hoạt động HĐND; đánh giá tính thống nhất, toàn diện, khách quan, khả thi và kỹ thuật lập pháp của tổ chức và hoạt động của HĐND hiện hành; trình bày, phân tích được các mô hình tổ chức chính quyền địa phương nói chung, Hội đồng địa phương nói riêng ở một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm có thể áp dụng vào Việt Nam.

Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt động HĐND ở nước ta trên cơ sở khảo sát thực trạng tổ chức của HĐND các cấp ở nước ta từ năm 1945 đến nay. Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và chỉ ra những tồn tại, hạn chế về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã cần giải quyết từ góc độ thể chế cũng như góc độ thực tiễn pháp lý và chính trị.

Nghiên cứu, đề xuất những quan điểm và giải pháp khoa học đúng đắn, hợp lý nhằm đổi mới, hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của HĐND ở nước ta hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức bộ máy và hoạt động của HĐND cấp xã ở huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức và hoạt động của HĐND 12 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

– Phạm vi thời gian: Luận văn khảo sát đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã của huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2004-2015 theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã giai đoạn 2016-2021.

5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp lý luận

Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước mà cụ thể là chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa; bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, tiếp tục hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện, bảo đảm nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua Quốc hội, HĐND, các cơ quan khác của Nhà nước và cả hệ thống chính trị.

* Phương pháp nghiên cứu

Căn cứ vào cơ sở phương pháp luận như đã nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:

Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống và hiện đại của khoa học luật như phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, lịch sử, điều tra xã hội học, hệ thống hoá, mô hình hoá, phỏng vấn chuyên sâu.

Phương pháp phân tích được sử dụng trong chương 1, 2 và 3 của luận văn để làm sáng tỏ các mô hình chính quyền địa phương cơ sở, các yếu tố cấu thành chính quyền cơ sở ở địa phương, trong nghiên cứu cơ cấu tổ chức và hoạt động HĐND các cấp, các thời kỳ phát triển của HĐND, các thành tựu và những tồn tại, hạn chế của HĐND các cấp ở Việt Nam hiện nay.

Phương pháp so sánh dùng để tìm ra các điểm giống và khác nhau giữa các mô hình tổ chức chính quyền địa phương các cấp và xác định những thay đổi trong tổ chức của HĐND các cấp ở các giai đoạn khác nhau. Phương pháp này cũng được sử dụng để xác định những điểm giống và khác nhau giữa đô thị và nông thôn, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn.

Phương pháp thống kê được sử dụng để tìm hiểu trình độ của đại biểu HĐND, số Chủ tịch HĐND kiêm Bí thư cấp uỷ đảng cùng cấp, số Trưởng, Phó Trưởng Ban HĐND hoạt động chuyên trách, số Nghị quyết chuyên đề, số lượng chất vấn và trả lời chất vấn, các ý kiến đồng quan điểm trong điều tra xã hội học, các ý kiến trái chiều…

Phương pháp lịch sử được dùng để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã ở nước ta, quá trình thay đổi của các đơn vị hành chính lãnh thổ ở nước ta.

Phương pháp hệ thống hoá được dùng để nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp qua từng thời kỳ và từng địa phương, đồng thời sử dụng để đánh giá mức độ tác động qua lại giữa các cơ cấu tổ chức HĐND với nhau.

Phương pháp mô hình hoá được dùng để trình bày kết quả nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của HĐND phù hợp với nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị kinh tế – hành chính đặc biệt trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Phương pháp diễn giải và quy nạp được áp dụng nhằm lý giải và rút ra những kết luận cần thiết sau mỗi lần nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu lý luận: thu thập, phân tích, xử lý, tổng hợp tư liệu để xác định những nội dung cốt lõi của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận án góp phần bổ sung, làm phong phú, hoàn chỉnh thêm các luận chứng khoa học về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, chính quyền địa phương và HĐND nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã thuộc huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam để các cơ quan có thẩm quyền ban hành các cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của HĐND; Qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh của từng địa phương.

Bên cạnh đó, luận văn có giá trị tham khảo đối với các hoạt động nghiên cứu lý luận về chính quyền địa phương nói chung và tổ chức của HĐND nói riêng ở nước ta hiện nay tại các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo khoa học pháp lý, chính trị và hành chính.

Nhất là, luận án cũng góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho HĐND các cấp trên phạm vi toàn quốc có thể nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn để đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động của mình.

7. Kết cấu luận văn

Với đối tượng, phạm vi và mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày nêu trên, luận văn được cơ cấu gồm: ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung gồm 03 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Yêu cầu, quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.1.1. Khái niệm Hội đồng nhân dân cấp xã

Cơ quan Nhà nước ở địa phương được thành lập trên cơ sở các đơn vị hành chính – lãnh thổ hoặc theo hệ thống dọc từ Trung Ương đến các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Đặc điểm chung của hệ thống các cơ quan này là phạm vi hoạt động chỉ trên địa bàn của các địa phương, trong từng đơn vị hành chính – lãnh thổ nhất định. Trong bộ máy Nhà nước ta hiện nay, Chính quyền cơ sở đóng vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đảm bảo hiệu quả triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng và những quy định của Nhà nước tại địa bàn cơ sở.

Chính quyền cấp xã là tổ chức nhà nước gần dân nhất nên không chỉ là nơi đảm bảo pháp luật được tôn trọng và thực hiện đầy đủ mà là nơi tạo điều kiện thiết thực để phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân ở tại địa phương, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mọi công dân đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân ổn định đời sống vật chất và tinh thần trong phạm vi xã, phường, thị trấn. Chính quyền cấp xã do hai bộ phận cấu thành: HĐND cấp xã và UBND cấp xã. Như vậy, HĐND xã, phường, thị trấn là bộ phận cấu thành không thể thiếu và tách rời của chính quyền địa phương của nước ta hiện nay. Có thể thấy quy định như vậy nhằm để phân định cho phù hợp với từng đặc điểm, vị trí địa lý của từng vùng miền và được thể hiện tại Điều 111 Hiến pháp năm 2013 đó là: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định.” [39, tr.28]

Và tại Điều 113 Hiến pháp năm 2013 quy định: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. [39, tr.29]

Do đó, Nhà nước ta là nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thiết lập nên bộ máy nhà nước chính quyền cơ sở và thực hiện quyền làm chủ của mình được thông qua các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân được thực hiện thông qua việc nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương; bầu ra các cơ quan đại diện của nhân dân. Nhân dân thông qua việc bầu cử theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín để bầu ra Quốc hội và HĐND các cấp. Các đại biểu dân cử là những người đại diện cho nhân dân và sử dụng quyền lực chính trị mà nhân dân đã ủy thác, giao phó.

Có thể thấy, trong hệ thống chính quyền địa phương, HĐND cấp xã được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân; có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trên các lĩnh vực tại địa phương đồng thời có trách nhiệm giám sát toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước tại địa phương. Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân các cấp hình thành bộ máy cơ quan nhà nước ở địa phương nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ở từng địa phương, theo từng đơn vị hành chính, lãnh thổ. Hội đồng nhân dân cấp xã do nhân dân trong xã bầu ra, là cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phương, được nhân dân ủy quyền để thay mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng nhất của địa phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội trên địa bàn và thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Với vị trí quan trọng được xác lập như vậy, HĐND là thiết chế quan trọng tạo nên hệ thống cơ quan nhà nước ở địa phương, có vị trí, vai trò rất lớn trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trên địa bàn theo thể thống nhất chung của bộ máy nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân.

Trong khoa học pháp lý và thực tiễn hoạt động, HĐND cấp xã có thể được nhận diện từ những khía cạnh khác nhau nhưng về cơ bản, căn cứ vào nhận thức chung về HĐND đã được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng như căn cứ vào tính đặc thù của từng địa phương, có thể nêu khái niệm HĐND cấp xã như sau:

Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, bao gồm các đại biểu do nhân dân trong xã tín nhiệm và trực tiếp bầu ra để đại diện cho nhân dân toàn xã quyết định các vấn đề kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh tại địa phương theo quy định của pháp luật đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân trong xã và chính quyền nhà nước cấp trên.

1.1.2. Đặc điểm của Hội đồng nhân dân cấp xã

Qua khái niệm nêu trên có thể nhận thấy đặc điểm của Hội đồng nhân dân cấp xã như sau:

Thứ nhất, HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là cơ quan đại diện của nhân dân, là một bộ phận cấu thành thiết chế đại diện quyền lực nhà nước, HĐND cấp xã là cơ quan ở địa phương do cử tri địa phương bầu theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Là cơ quan đại diện cho ý chí, quyền làm chủ của nhân dân tại địa phương.

Thứ hai, HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là cơ quan quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương về phát triển kinh tế, xã hội, lĩnh vực an ninh quốc phòng, việc thực hiện và chấp hành pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân và chính quyền nhà nước cấp trên. Thông qua từng đại biểu HĐND xã sẽ thay mặt nhân dân thảo luận, bàn bạc, quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương tại các kỳ họp của HĐND cấp xã, quyết định các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và biện pháp triển khai thi hành pháp luật tại địa phương và việc chấp hành này của HĐND xã được thể chế hóa thành các Nghị quyết của HĐND. Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân trong xã về những quyết định của mình, HĐND cấp xã chịu trách nhiệm trước cơ quan Nhà nước cấp trên. HĐND cấp xã có những đặc điểm khác biệt so với HĐND cấp huyện, tỉnh đó là về cơ cấu tổ chức, số lượng đại biểu, ngoài ra vấn đề quan trọng khác nhau nữa là ở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như phạm vi, tầm ảnh hưởng của các Nghị quyết HĐND. Từ các Nghị quyết HĐND của cấp trên, HĐND cấp xã sẽ xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm cụ thể hóa để quyết định các biện pháp tổ chức triển khai thực hiện tại địa phương sao cho không trái với các văn bản của cơ quan nhà nước cũng như Nghị quyết của HĐND cấp trên. Ngoài ra, hoạt động của HĐND cấp xã còn chịu sự giám sát của HĐND cấp huyện.

Thứ ba, HĐND cấp xã bao gồm đại biểu HĐND cấp xã do cử tri bầu theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đó là theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. HĐND cấp xã phải phản ánh trung thực, khách quan và bảo vệ mọi quyền, lợi ích chính đáng của cử tri nơi bầu ra mình. Quan tâm đến tất cả các thông tin liên quan đến cử tri để hiểu rõ những vấn đề mà cử tri đang mong đợi để hình thành chương trình hoạt động của đại biểu HĐND. Đại biểu HĐND cấp xã là đại diện tiêu biểu cho tiếng nói chung của mọi tầng lớp nhân dân trong xã, đại diện cho trí tuệ tập thể của cử tri.

Thứ tư, HĐND xã là cấp gần dân nhất, cấp nhỏ nhất trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. HĐND cấp xã là cơ quan đại diện cho ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, HĐND không chỉ là nơi đảm bảo để pháp luật được thượng tôn và thực hiện nghiêm, đầy đủ mà còn là nơi tạo điều kiện thiết thực để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình tại địa phương, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của công dân đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân ổn định đời sống cả về mặt vật chất cũng như tinh thần trong từng địa phương đó.

Thứ năm, HĐND cấp xã được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Các quyết định của HĐND cấp xã phải được đa số các đại biểu nhất trí và biểu quyết tán thành, nhất là việc bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND cấp xã, thành viên UBND cấp xã hay biểu quyết thông qua các Nghị quyết của HĐND. Các Nghị quyết này phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, đây là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã.

1.1.3. Vai trò của Hội đồng nhân dân cấp xã

Từ khi Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thôn qua và có hiệu lực thi hành, cùng với sự hoàn thiện hệ thống bộ máy nhà nước từ Trung Ương đến địa phương, HĐND cấp xã nhanh chóng được hình thành và phát triển. HĐND cấp xã đã liên tục hoàn thiện và khẳng định được vai trò của mình trong hệ thống chính trị. HĐND cấp xã là nơi phản ánh trực tiếp cuộc sống của nhân dân trên địa bàn cấp xã, tổ chức, quản lý tất cả các hoạt động và phong trào của nhân dân; đại diện cho ý chí, tâm tư, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, được thể hiện ở các vai trò sau:

Thứ nhất, HĐND cấp xã là một thiết chế đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đây là vai trò rất quan trọng bởi vì quyền làm chủ của nhân dân được phát huy hay không là phụ thuộc vào tính đại diện của HĐND cấp xã. HĐND cấp xã cũng là thiết chế đại diện cho quyền lực của nhân dân trong một đơn vị hành chính lãnh thổ, thông qua HĐND cấp xã quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tối đa, bởi vì HĐND cấp xã do nhân dân tại địa phương bầu ra để thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân.

Hai là, HĐND cấp xã là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân, vừa triển khai thực hiện các chính sách pháp luật của nhà nước tại cơ sở vừa đại diện cho ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trực tiếp phản ánh những ý kiến, yêu cầu chính đáng của nhân dân địa phương đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chính quyền nhà nước cấp trên. Trên cơ sở đó, UBND cấp xã, các cơ quan liên quan và chính quyền cấp trên có những biện pháp, giải pháp, giải quyết thỏa đáng và kịp thời những vấn đề mà nhân dân kiến nghị, đề xuất đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, ổn định cuộc sống góp phần xây dựng địa phương phát triển. HĐND cấp xã là cấp gần dân, sát dân nhất nên mọi tâm tư, nguyện vọng đều được phản ánh kịp thời để HĐND, từng đại biểu HĐND cấp xã chuyển tải nguyện vọng của nhân dân lên cấp trên từ đó tạo được sự kết nối giữa nhân dân với Nhà nước.

Ba là, HĐND cấp xã tổ chức việc thực hiện các quyết định của cơ quan Nhà nước cấp trên; có vai trò điều hòa và phối hợp thực hiện nhiệm vụ, hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước trực thuộc địa phương cũng như cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn. HĐND cấp xã căn cứ vào Hiến pháp, Luật, các văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước cấp trên để ra Nghị quyết về các biện pháp bảo đảm triển khai thực hiện thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương trên các lĩnh vực như: kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, các biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành tất cả các nhiệm vụ mà cấp trên giao phó, làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.

Bốn là, HĐND cấp xã thực hiện chức năng giám sát đối với UBND cấp xã, các ngành chuyên môn, các tổ chức xã hội và mọi công dân trên địa bàn. Qua thực tiễn cho thấy, hoạt động giám sát của HĐND cấp xã là công cụ quan trọng góp phần làm cho hoạt động của các cơ quan điều hành minh bạch, rõ ràng, hiệu quả.

Năm là, HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương trên một phạm vi lãnh thổ nhất định mọi cá nhân, tổ chức phải có trách nhiệm thi hành, tính quyết định của HĐND thông qua Nghị quyết, là cơ sở pháp lý để mọi tổ chức, cá nhân trên địa bàn phải tuân thủ chấp hành.

Như vậy, có thể thấy HĐND cấp xã có vai trò rất quan trọng, theo quy định hiện hành của pháp luật thì vai trò HĐND cấp xã là vai trò không thể phủ định. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng, vừa củng cố sức mạnh của bộ máy Nhà nước cấp cơ sở, vừa phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường sức mạnh của cả hệ thống chính trị ở địa phương.

1.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã

Theo quy định tại Điều 32, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, tổ chức HĐND cấp xã gồm đại biểu HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND. HĐND cấp xã được cấu thành bởi các đại biểu HĐND và tùy thuộc vào dân số của từng địa phương, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Thường trực HĐND cấp xã gồm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và các Ban của HĐND, trong đó Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách. Để thành lập một cơ quan HĐND cấp xã thì trước hết là bầu ra đại biểu HĐND cấp xã, theo quy định tại Điều 32 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì số lượng đại biểu HĐND ở xã, phường, thị trấn được quy định như sau:

“1. Hội đồng nhân dân xã gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở xã bầu ra.

Việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân xã được thực hiện theo nguyên tắc sau đây:

a) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ một nghìn dân trở xuống được bầu mười lăm đại biểu;

b) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên một nghìn dân đến hai nghìn dân được bầu hai mươi đại biểu;

c) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên hai nghìn dân đến ba nghìn dân được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên ba nghìn dân thì cứ thêm một nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu;

d) Xã không thuộc quy định tại các điểm a, b và c khoản này có từ bốn nghìn dân trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên bốn nghìn dân thì cứ thêm hai nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu”. [32, tr.5]

Thường trực HĐND cấp xã do HĐND cùng cấp bầu ra và được Thường trực HĐND cấp huyện phê chuẩn, Thường trực HĐND cấp xã bao gồm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách, không có ủy viên thường trực như HĐND cấp huyện và tỉnh.

Hội đồng nhân dân xã được cơ cấu thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế – xã hội. Ban của Hội đồng nhân dân xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên của Ban, số lượng Ủy viên các Ban của Hội đồng nhân dân xã do Hội đồng nhân dân xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân xã hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm.

Cũng giống như nhiệm kỳ của HĐND các cấp, nhiệm kỳ của mỗi khóa HĐND cấp xã là năm kể từ kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa đó đến kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa sau. Nhiệm kỳ của Thường trực HĐND cấp xã theo nhiệm kỳ của HĐND cấp xã, khi HĐND hết nhiệm kỳ thì Thường trực HĐND tiếp tục làm việc cho đến khi HĐND khóa mới bầu ra Thường trực HĐND cấp xã khóa mới.

Chủ tịch HĐND cấp xã ở mỗi đơn vị hành chính không giữ chức vụ đó quá hai nhiệm kỳ liên tục.

1.3. Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.3.1. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã

Chức năng của HĐND cấp xã có thể hiểu là những mặt hoạt động cơ bản nhất của HĐND cấp xã để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của HĐND cấp xã, phản ánh vị trí pháp lý của HĐND cấp xã và được quyết định bởi vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã. Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nên HĐND cấp xã có các chức năng cơ bản sau:

* Chức năng ra Nghị quyết:

Tại Điều 10 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003: “Khi quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết và giám sát việc thực hiện các nghị quyết đó: những nghị quyết về các vấn đề mà pháp luật quy định thuộc quyền phê chuẩn của cấp trên thì trước khi thi hành phải được cấp trên phê chuẩn. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, Ủy ban nhân dân ra quyết định, chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó”.[34, tr.4]

Tại Điều 33 Luật Tổ chức chính quyền năm 2015 quy định:

“1. Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã.

2. Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã.

4. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án của xã trong phạm vi được phân quyền.”[32, tr.19]

Có thể nhận thấy rằng, HĐND các cấp nói chung và HĐND cấp xã nói riêng ban hành các nghị quyết nhằm quản lý các mặt của đời sống xã hội ở địa phương. HĐND cấp xã ra các Nghị quyết về: phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, thông tin, thể dục thể thao, khoa học công nghệ, tài nguyên môi trường tại địa phương, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền.

Nội dung và phạm vi Nghị quyết của HĐND cấp xã tùy thuộc vào nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã do Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản quy phạm pháp luật khác có quy định về phân cấp cho HĐND xã quyết định. Các Nghị quyết của HĐND cấp xã là những văn bản dưới luật chứa đựng các nội dung, chính sách và các nhiệm vụ của hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương hoặc là những văn bản quy phạm pháp luật. Do đó các Nghị quyết HĐND ban hành phải có tính hợp lý, hợp pháp có nghĩa là phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng địa phương nhưng không được trái với các quy định của Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

Nghị quyết của HĐND cấp xã về hình thức phải đảm bảo đúng thể thức, được trình bày rõ ràng, đúng văn phạm Tiếng Việt, không sử dụng những từ đa nghĩa, khi cần thiết phải giải thích những thuật ngữ trong Nghị quyết.

* Chức năng giám sát của HĐND cấp xã:

Theo quy định tại khoản 5, Điều 33 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015: “Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp”.[32, tr.20]

Giám sát là chức năng quan trọng của HĐND, vì vậy để thực hiện chức năng giám sát thì bản thân HĐND cấp xã phải có năng lực và khả năng giám sát, có hình thức và phương pháp giám sát một cách hợp lý, khoa học. Đặc biệt trong những năm qua HĐND các cấp rất quan tâm đến việc thực hiện chức năng giám sát nhằm góp phần thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các Nghị quyết của HĐND, nhất là trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Chức năng giám sát của HĐND cấp xã được thực hiện bởi hoạt động giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu HĐND. Tại Điều 57, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, giám sát của HĐND được thông qua các hoạt động cụ thể sau:

“Xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và các báo cáo khác theo quy định tại Điều 59 của Luật này.

Xem xét việc trả lời chất vấn của những người bị chất vấn quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 5 của Luật này.

Xem xét quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Giám sát chuyên đề.

Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu”[38, tr.26]

Dựa vào kết quả giám sát, HĐND cấp xã có quyền ra Nghị quyết việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người chất vấn khi thấy cần thiết, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thành viên của UBND cấp xã. Trong những trường hợp cần thiết có thể giao cho HĐND và đại biểu HĐND cấp xã giúp HĐND giám sát việc thi hành pháp luật, Nghị quyết của HĐND và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất.

Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát phải tuân theo các nguyên tắc đó là chính xác, khách quan, công khai minh bạch và đúng pháp luật trong quá trình triển khai thực hiện giám sát. Chủ tịch HĐND, đại biểu HĐND, các Ban của HĐND có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước liên quan, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội cung cấp những tài liệu thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Khi phát hiện có sai phạm thì có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức đó xem xét xử lý theo thẩm quyền của pháp luật quy định.

1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã

HĐND cấp xã thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn theo sự phân quyền được quy định trong các luật, phân cấp quản lý của chính quyền cấp trên, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy quyền chủ động, sáng tạo của địa phương.

Theo quy định tại Điều 33, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 thì nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã bao gồm:

Thứ nhất, trong tổ chức và bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật, gồm: Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã; Quyết định các biện pháp để thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp; quyết định việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã.

Thứ hai, trong xây dựng chính quyền, gồm có: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND cấp xã, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên UBND cấp xã; Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Bãi nhiệm đại biểu HĐND xã và chấp nhận việc đại biểu HĐND xã xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu.

Thứ ba, quyết định, thông qua các nội dung trong lĩnh vực kinh tế, tài nguyên, môi trường, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, lao động và thực hiện chính sách xã hội; quyết định các vấn đề trong công tác dân tộc, tôn giáo, lĩnh vực quốc phòng, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, như: thông qua kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội trung hạn và hằng năm của xã trước khi trình UBND cấp huyện phê duyệt; Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định, chủ trương đầu tư chương trình, dự án trên địa bàn xã trong phạm vi được phân quyền.

Thứ tư, Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND xã; giám sát hoạt động của Thường trực HĐND xã, UBND xã, Ban của HĐND xã; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của UBND xã.

Các nghị quyết của HĐND cấp xã ban hành theo các quy định tại Điều 33, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 không chứa quy phạm pháp luật, trừ các nghị quyết được ban hành theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 mới chứa quy phạm pháp luật.

1.3.3. Phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã

* Phương thức hoạt động tập thể thông qua các kỳ họp của HĐND

Đây là phương thức hoạt động quan trọng nhất của HĐND cấp xã. Tại đây các đại biểu HĐND tập trung thảo luận dân chủ các vấn đề quan trọng nhất của địa phương. Thông qua các kỳ họp của HĐND mà ý chí, nguyện vọng của nhân dân được hình thành nên các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Tại các kỳ họp HĐND, các vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp xã được quyết định, chức năng giám sát của HĐND cấp xã được thực hiện.

Kỳ họp của HĐND cấp xã được tổ chức thường lệ mỗi năm hai kỳ họp và ngoài kỳ họp thường lệ của HĐND có thể tổ chức kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường.

* Phương thức hoạt động của Thường trực HĐND cấp xã

Thường trực HĐND cấp xã chủ trì, phối hợp với UBND cùng cấp chuẩn bị dự kiến chương trình kỳ họp, báo cáo, đề án, dự thảo Nghị quyết trình HĐND cấp xã xem xét thông qua trên cơ sở căn cứ vào Nghị quyết HĐND cấp xã, đề nghị của đại biểu HĐND cấp xã.

Thường trực HĐND cấp xã quyết định triệu tập kỳ họp HĐND cấp xã, công khai dự kiến chương trình kỳ họp, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri ở địa phương để báo cáo tại kỳ họp HĐND. Tổng hợp ý kiến chất vấn của đại biểu HĐND giữa hai kỳ họp, đôn đốc các ban ngành gửi tài liệu kỳ họp đúng theo quy định của pháp luật.

Chủ tọa kỳ họp HĐND cấp xã do Thường trực HĐND cấp xã điều khiển các phiên họp theo chương trình đã được HĐND cấp xã thông qua. Dự kiến các vấn đề đưa ra thảo luận tại phiên họp của HĐND. Điều hành chất vấn và trả lời chất vấn, chỉ đạo tiếp thu ý kiến đại biểu và sửa đổi, bổ sung dự thảo Đề án, Nghị quyết. Điều hành để HĐND biểu quyết thông qua dự thảo Nghị quyết.

Hoạt động kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở của Thường trực HĐND cấp xã đối với UBND cùng cấp trong việc thực hiện Nghị quyết của HĐND cấp xã. Thường trực HĐND cấp xã yêu cầu UBND báo cáo trực tiếp hoặc bằng văn bản về tình hình thực hiện Nghị quyết của HĐND, thi hành các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện Nghị quyết HĐND. Tổ chức giám sát việc thực hiện Nghị quyết HĐND, khi có dấu hiệu sai phạm có trong việc thực hiện Nghị quyết HĐND, Thường trực HĐND có quyền yêu cầu UBND cùng cấp xem xét, xử lý và báo cáo kết quả với Thường trực HĐND trong thời gian do Thường trực HĐND quy định. Thường trực HĐND cấp xã phối hợp với UBND cùng cấp giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết HĐND.

Thường trực HĐND cấp xã thường xuyên giữ mối liên hệ với đại biểu HĐND: Thường trực HĐND có văn bản đôn đốc đại biểu HĐND cấp xã, cá nhân phụ trách từng đơn vị bầu cử tổ chức tiếp xúc cử tri, thu thập ý kiến, nguyện vọng của cử tri và báo cáo với cử tri về hoạt động của HĐND và thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Phối hợp với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp theo dõi tổng hợp ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND cùng cấp để chuyển đến cơ quan nhà nước, tổ chức liên quan nghiên cứu giải quyết. Ngoài ra, Thường trực HĐND cấp xã giữ mối quan hệ và phối hợp công tác với đại biểu HĐND cấp trên.

* Phương thức hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã

Đại biểu HĐND cấp xã là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân trên địa bàn xã, gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của nhà nước, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách và tham gia vào việc quản lý nhà nước. Đại biểu HĐND cấp xã có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kỳ họp của HĐND, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Tại các kỳ họp HĐND cấp xã, đại biểu HĐND cấp xã phải nghiên cứu các vấn đề mà HĐND sẽ quyết nghị và tích cực tham gia thảo luận, phát biểu ý kiến về nội dung các dự thảo Nghị quyết của HĐND đồng thời phản ánh các ý kiến của cử tri với HĐND, thực hiện quyền chất vấn của mình.

Đại biểu HĐND cấp xã phải phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri theo lịch. Tham gia tiếp dân định kỳ theo lịch, nhận và chuyển đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo dõi, đôn đốc việc giải quyết và giám sát việc giải quyết, thông báo kết quả giải quyết đến người khiếu nại, tố cáo biết. Trong thời gian giữa hai kỳ họp HĐND cấp xã, đại biểu HĐND cấp xã có nhiệm vụ liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình và chịu sự giám sát của cử tri.

1.4. Quan hệ của Hội đồng nhân dân cấp xã với các cơ quan khác của nhà nước, với tổ chức đảng và với các tổ chức xã hội khác

* Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân dân cùng cấp

Mối quan hệ giữa HĐND cấp xã với UBND cấp xã được quy định tại Khoản 1, Điều 8, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015: “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”.[32, tr.3]

UBND cấp xã chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn xã.

* Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Đảng ủy cấp xã

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.[39, tr.2]

* Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Trong hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vị trí, vai trò hết sức quan trọng và được quy định tại Điều 9, Hiến pháp năm 2013:

“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. 

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị – xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động”.[39, tr.3]

Điều 15, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng quy định:

“Chính quyền địa phương tạo điều kiện để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội động viên Nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương.

Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan.

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa phương cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội cùng cấp.

Chính quyền địa phương có trách nhiệm lắng nghe, giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương”.[32, tr.6]

Mối quan hệ giữa HĐND cấp xã và MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên ở xã là quan hệ phối hợp. HĐND cấp xã phối hợp chặt chẽ với MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở địa phương xây dựng mối quan hệ làm việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Mỗi năm hai lần vào giữa năm và cuối năm, Chủ tịch HĐND cấp xã thông báo bằng văn bản đến Ủy ban MTTQ Việt Nam xã về tình hình hoạt động của HĐND cấp mình và nêu những kiến nghị của HĐND với MTTQ. Trong kỳ họp thường lệ của HĐND, Ủy ban MTTQ báo cáo về hoạt động của MTTQ xã tham gia xây dựng chính quyền về những ý kiến, kiến nghị đối với HĐND và với đại biểu HĐND cấp xã.

Mối quan hệ phối hợp HĐND và MTTQ đã được quy định tại Điều 116, Hiến pháp năm 2013:

“Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan”.[39, tr.29]

* Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với các cơ quan nhà nước cấp trên

Theo quy định của pháp luật thì:”Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và “do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Nhân dân thực thi quyền lực Nhà nước thông qua các cơ quan đại diện cho mình ở cả hai cấp: Trung ương và địa phương. Ở cấp Trung ương, Quốc hội:”là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”. Ở cấp địa phương:”HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. Như vậy, việc HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đã được Hiến định trong Hiến pháp 2013 (kể cả những Hiến pháp trước đây của nước ta). HĐND không phải là hệ thống ngành dọc và không có quy định HĐND cấp dưới trực thuộc HĐND cấp trên.

Tuy nhiên, theo nguyên tắc tổ chức nhà nước thì cơ quan cấp dưới phải phục tùng, thực hiện quyết định của cơ quan cấp trên. Hiến pháp 2013 cũng ghi rõ HĐND:”chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” nói chung và “Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã”.

Như vậy, HĐND cấp xã vừa chịu trách nhiệm trước HĐND và UBND cấp huyện (đây là hai thành tố hợp thành chính quyền địa phương cấp huyện).

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\LUẠT KINH TE\MAI THUY HANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *