Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
- Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trải qua quá trình lao động, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta đã sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần vô cùng to lớn và đáng tự hào. Nền văn học Việt Nam là một trong những bằng chứng tiêu biểu cho năng lực tinh thần sáng tạo ấy. Văn học Việt Nam bao gồm hai bộ phận là văn học dân gian và văn học viết. Tác phẩm văn học là nền tảng của văn học viết- là chặng đường đầu của nền văn học dân tộc Việt Nam. Những giá trị mà các tác phẩm văn học (TPVH) mang đến cho nhân loại là rất to lớn và toàn diện (trong sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh doanh, học tập, nghiên cứu khoa học, quản lý nhà nước…)
Những giá trị về tinh thần cũng như lợi ích kinh tế mà việc bảo hộ mang lại cho các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của các TPVH hết sức cần thiết và quan trọng.
Nếu cơ chế bảo hộ quyền tác giả được thực hiện tốt thì sẽ khuyến khích sự sáng tạo của các tác giả. Nhờ đó có thể bảo tồn, phát huy những giá trị, những nét tinh hoa văn hóa do các tác phẩm văn học mang lại, nhằm góp phần làm cho các tác phẩm văn học trở nên phong phú và đa dạng hơn. Ngược lại, nếu không được ghi nhận xứng đáng thì sẽ là rào cản làm hạn chế động lực sáng tạo và ứng dụng các tác phẩm văn học vào trong các quá trình sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh doanh, học tập, nghiên cứu khoa học….
Mặc dù ở Việt Nam quyền tác giả (QTG) đã được ghi nhận lần đầu tiên tại Nghị định 142/HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo hộ quyền tác giả và đến nay đã có hàng loạt văn bản có liên quan đã được ban hành gồm Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành. Việt Nam cũng là thành viên của một số các điều ước quốc tế về quyền tác giả nhưng vấn đề bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học vẫn còn nhiều bất cập.
Nhận thức của người dân về quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nói riêng vẫn còn thấp. Việc tuân thủ và thi hành pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Trong kỷ nguyên công nghệ số phát triển bùng nổ như vũ bão như hiện nay thì các phương tiện truyền thông đa dạng trở thành công cụ chủ yếu để chuyển tải kiến thức, thành tựu đến khắp nơi trên thế giới và đồng thời việc vi phạm QTG trở nên đa dạng và phức tạp hơn.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học vẫn chưa được coi trọng và được quan tâm đúng mức. Quyền tác giả của nhiều tác phẩm văn học vẫn còn bị xâm phạm trắng trợn và vẫn chưa có biện pháp thực thi hiệu quả nhằm ngăn chặn và đẩy lùi được những hành vi vi phạm, tạo rào cản cho hoạt động sáng tác văn học.
Giới luật học đã tiến hành một số nghiên cứu thuộc các thể loại khác nhau về bảo hộ QTG nói chung và QTG đối với một số đối tượng chuyên biệt nói riêng. Nhưng vấn đề bảo hộ QTG đối với TPVH tại địa bàn một thành phố lớn như Đà Nẵng vẫn chưa được nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm đề tài cho luận văn của mình.
- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật bảo hộ QTG đối với TPVH từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng nhằm xác định cơ sở cho các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm nổi bật những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và cơ sở pháp luật của Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả này.
Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại thành phố Đà Nẵng.
Trên cơ sở thực trạng bảo hộ, luận văn đề xuất phương hướng và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học nói chung và tại thành phố Đà Nẵng nói riêng.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học (văn học viết) mà không bao gồm các đối tượng khác của quyền tác giả.
Luận văn giới hạn đánh giá thực trạng pháp luật thông qua thực tiễn bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học (văn học viết) tại thành phố Đà Nẵng từ khi Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực.
- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ cơ lý luận
Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và pháp luật làm phương pháp luận nghiên cứu về bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm có thể đạt được mục đích nghiên cứu, thì các phương pháp chuyên ngành đều được áp dụng như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê.
- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Phân tích tổng thể lý luận và pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực trạng về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại thành phố Đà Nẵng sẽ đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả về việc bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học.
- Kết cấu của luận văn
Không tính phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, thì luận văn có kết cấu 03 chương:
Chương 1: Lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC VÀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC
1.1. Khái niệm, nội dung và đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (tại Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan).
Quyền tác giả, theo tiếng Anh thực chất là quyền sao chép, vì từ “copyright” được ghép từ “copy” (sao chép) và “right” (quyền) [32].
Quyền tác giả là độc quyền của một tác giả đối với tác phẩm của họ. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các tác phẩm – những sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa. Quyền này bảo vệ các quyền lợi của các cá nhân, của các tổ chức và lợi ích kinh tế của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả trong mối liên quan với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền này không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi, giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả chỉ được công nhận khi tác phẩm được tạo lập một cách độc lập và duy nhất dưới hình thức nhất định.
Ở mỗi quốc gia, pháp luật về quyền tác giả trao cho tác giả, chẳng hạn nhạc sỹ, nhà văn, người viết phần mềm, nhà thiết kế trang web và các tác giả sáng tạo khác sự bảo hộ pháp lý. Đối với các sáng tạo văn học của họ thì thường được gọi là “tác phẩm”. Theo khoản 7 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”[42]. Từ đó có thể rút ra là “tác phẩm văn học” (TPVH) là sản phẩm được sáng tạo trong lĩnh vực văn học thông qua hoạt động lao động bằng trí não của tác giả.
Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học là một nhóm độc quyền đối với tác phẩm của họ; trong số đó một số quyền chỉ có hiệu lực trong một thời hạn nhất định. Những quyền này cho phép tác giả kiểm soát việc sử dụng tác phẩm của mình theo nhiều cách khác nhau và nhận được tiền thù lao khi có người sử dụng tác phẩm của mình.
Hơn nữa, pháp luật về quyền tác giả cũng trao cho tác giả “quyền nhân thân” nhằm bảo vệ danh tiếng của tác giả và sự toàn vẹn của tác phẩm. Ngoài ra, đối với mỗi hình thức tác phẩm khác nhau thì có thời hạn bảo hộ khác nhau, tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Công ước Berne (Cư Berne) cho phép tác giả được hưởng quyền tài sản suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau đó[62].
Tuy nhiên, các quốc gia tuân thủ Công ước Berne được phép nâng thời hạn hưởng tác quyền dài hơn [62].
Đối tượng của QTG là những công trình sáng tạo – là thành quả lao động bằng hoạt động của trí não của một hay nhiều tác giả. QTG là một quyền năng rất quan trọng có liên quan thiết thực đến lợi ích của những người sáng tạo khoa học nói riêng và tác động đến cả xã hội nói chung [42], [1], [28].
Như vậy, hiểu một cách đơn giản quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản (Điều 19 và Điều 20 luật Sở hữu trí tuệ).
Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật [42]. Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ (SHTT) quy định các loại hình tác phẩm được bảo hộ ngoài tác phẩm văn học còn các tác phẩm khác như tác phẩm, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và các tác phẩm khác, bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác, tác phẩm báo chí, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh, tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, nghệ thuật dân gian,…. Những đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác gải thì được quy định tại điều 15 luật SHTT: “Tin tức thời sự thuần túy đưa tin; Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức cảu văn bản đó; Quy trình hệ thống, phương pháp, hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”.
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học [43, tr.12].
Khoản 7 Điều 4 Luật SHTT định nghĩa tác phẩm như sau: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Do vậy tác phẩm phải là những sáng tạo tinh thần của tác giả trong lĩnh vực văn học thể hiện dưới một phương tiện hay hình thức nhất định. Các tác phẩm để được bảo hộ quyền tác giả phải đáp ứng các yếu tố sau:
Thứ nhất, tác phẩm phải là thành quả của quá trình lao động trí tuệ mang tính chất sáng tạo và chủ thể của hoạt động sáng tạo này là các tác giả thông qua quá trình lao động trí óc, kinh nghiệm và các yếu tố hỗ trợ khác. Vì vậy, tác phẩm văn học hết sức phong phú và đa dạng, chứa đựng những giá trị tinh thần và giá trị kinh tế, công chúng đón nhận được nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định.
Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo tính nguyên gốc, tức là phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ bất kỳ một tác phẩm nào khác. Vì ở mỗi quốc gia, ý nghĩa chính xác về tính nguyên gốc là khác nhau trong pháp luật về quyền tác giả. Việc xác định tác phẩm “gốc” trong tác phẩm văn học dựa trên căn cứ thể hiện quá trình lao động sáng tạo của tác giả, những “chất riêng” do tác giả sáng tạo ra. Thực tế, có những trường hợp sao chép, mà tác phẩm gốc và tác phẩm sao chép tương tự nhau hoặc giống nhau song người bình thường không thể nhìn thấy được.
Mặc dù đã có tiêu chí xác định tác phẩm văn học mang tính nguyên gốc nhưng khi có tranh chấp, tác giả phải chứng minh tác phẩm được sáng tạo độc lập hoặc nếu có sử dụng tác phẩm của người khác thì phải chỉ rõ phần sử dụng này để có thể xác định tính nguyên gốc của tác phẩm của mình và bảo đảm quyền của tác giả khác.
Thứ ba, tác phẩm văn học chỉ được bảo hộ hình thức thể hiện như dưới dạng văn bản hay vật thể, chứ không bảo hộ ý tưởng. Tại khoản 1 điều 6 Luật SHTT có quy định :“Quyền tác giả phát sinh từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa” [37].
Bên cạnh đó, tác phẩm còn được thể hiện dưới dạng vật thể nhưng đa số các loại hình tác phẩm trên đều được sử dụng trong hoạt động xuất bản. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh và ổn định chính trị cũng như lợi ích chung của cộng đồng, nhà nước không bảo hộ những tác phẩm có nội dung: chống lại nhà nước, phá hoại đoàn kết toàn dân, tuyên truyền bạo lực, chiến tranh xâm lược; truyền bá tư tưởng văn hóa phản động, lối sống dâm ô đồi trụy, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mĩ tục; tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, đời tư của công dân và bí mật khác do pháp luật quy định; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự và nhân phẩm của công dân. Những tác phẩm có nội dung đó không được nhà nước bảo hộ và cũng không được sử dụng để xuất bản dưới bất kỳ hình thức xuất bản nào.
Ngoài ra, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học còn có quy định điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo được định hình dưới một hình thức nhất định. Tại điều 3 Công ước Berne cũng quy định rõ các nước thành viên tham gia nếu theo luật pháp nước mình quy định “coi sự tuân thủ các thủ tục như lưu chiểu, đăng kí, thông báo như là một điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ thì cũng phải coi đây là một điều kiện bảo hộ theo Công ước” [32].
Các tác phẩm văn học được bảo hộ không phụ thuộc vào việc công bố hoặc chưa công bố nếu như quốc gia có tác phẩm đó là thành viên của Công ước. Nếu là công dân hay cư dân của một nước là thành viên của Công ước Berne đã công bố tác phẩm của mình tại một trong số các nước thành viên của Công ước, thì tác phẩm văn học đấy sẽ tự động được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả theo quy định trong Công ước Berne ở tất cả các nước thành viên còn lại của Công ước này.
Ngoài ra, tác phẩm văn học đấy cũng sẽ được bảo hộ ở các nước thành viên khác giống như các nước đó bảo hộ các tác phẩm văn học của công dân nước mình. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bảo hộ quyền tác giả có tính chất lãnh thổ. Tác phẩm chỉ được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý được quy định bởi pháp luật về quyền tác giả của nước muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy, mỗi nước có hệ thống bảo hộ quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều đạo luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Quyền tác giả có tính chất lãnh thổ triệt để, tác phẩm chỉ được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng các điều kiện bảo hộ được quy định bởi pháp luật về quyền tác giả của nước muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy, mỗi nước có hệ thống bảo hộ quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều đạo luật quy định. Ngoài ra, quyền tác giả còn có những đặc điểm riêng sau:
Quyền tác giả chỉ được công nhận khi TPVH là sản phẩm của lao động trí não, sáng tạo hoặc có một phần công sức của tác giả và có tính chất duy nhất. Đối tượng của QTG là các TPVH luôn mang tính sáng tạo trực tiếp từ con người cụ thể mang dấu ấn cá nhân hoặc tập thể thông qua hoạt động của trí não và các yếu tố hỗ trợ khác tạo ra thành quả là các TPVH được thể hiện dưới hình thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tác các tác phẩm văn học và khi cá nhân tạo ra các TPVH đó phải do tác giả trực tiếp thực hiện thông qua hoạt động lao động bằng trí não của mình mà không phải sao chép từ các TPVH của người khác, (khoản 3 điều 14 luật SHTT). Cá nhân làm các công việc hỗ trợ đóng góp ý kiến, sửa chữa câu từ, cung cấp tư liệu, đưa ra ý tưởng để người khác sáng tạo không phải là tác giả (Khoản 3 điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan).
QTG có thể bị giới hạn về thời gian theo quy định của pháp luật như: quyền công bố, phổ biến các TPVH cũng như quyền cho người khác hoặc không cho người khác sử dụng TPVH của tác giả đồng thời là CSH QTG đối với TPVH và chỉ được bảo hộ trong thời hạn suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết và trong trường hợp TPVH có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết (Khoản 2, Điều 27 luật SHTT). QTG có thể bị giới hạn về không gian, một TPVH có thể được bảo hộ ở nước ngoài, nhưng không được bảo hộ ở Việt Nam vì không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật Việt Nam (PLVN) và ngược lại, một TPVH có thể được bảo hộ ở Việt Nam nhưng không được bảo hộ ở nước ngoài vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật nước ngoài [42]. QTG có thể không được công nhận, bảo hộ đối với một số TPVH có nội dung vi phạm đến chính trị, an ninh quốc gia, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục…[28, tr.47- tr.48]
TPVH phải đảm bảo tính nguyên gốc, có nghĩa là không phải đòi hỏi ý tưởng của TPVH mà là hình thức thể hiện của ý tưởng đó do chính tác giả lao động bằng hoạt động của trí não sáng tạo ra. Tính nguyên gốc không có nghĩa là không có tính kế thừa [35, tr.50] nhưng mang đặc trưng riêng biệt có tính sáng tạo với tính cách riêng của tác giả là tác phẩm được tác giả sáng tạo.
Pháp luật về QTG chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng TPVH khi nó được sáng tác ra và được thể hiện dưới hình thức nhất định, mà không bảo hộ ý tưởng sáng tác TPVH, không bảo hộ nội dung ý nghĩa giá trị của ý tưởng sáng tác. Sự định hình của một TPVH được hiểu là khi TPVH xác lập trên một đối tượng vật chất nào đó, ở một trạng thái bền vững hoặc ổn định đủ để có thể nhận biết trực tiếp thông qua các giác quan của con người hoặc gián tiếp qua máy móc, thiết bị hỗ trợ kỹ thuật mà con người có thể sao chép, nhân bản TPVH và truyền đạt cho người khác [4, tr.32].
QTG được xác lập dựa vào chính hành vi tạo ra TPVH của tác giả, không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục bất kể nào (khoản 1 điều 6 luật SHTT). Chủ thể khác được phép sử dụng TPVH được bảo hộ nếu việc sử dụng đó không nhằm mục đích thương mại, không ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai thác bình thường của TPVH, không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp khác của tác giả và CSH QTG [42].
1.1.3. Nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Nội dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, nằm đan xen ở các quy định của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật. Theo Điều 6 của Công ước Berne quyền nhân thân độc lập với quyền kinh tế của tác giả và cả sau khi quyền này đã được chuyển nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền nhân thân như được thừa nhận mình là tác giả của tác phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm tác giả. Việc quy định những quyền trên phụ thuộc vào pháp luật của từng quốc gia thành viên.
Luật SHTT cũng quy định nội dung của quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Việc xác định rõ nội dung quyền tác giả có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả biết được mình có một số hay tất cả các quyền tài sản và quyền nhân thân quy định trong Điều 19 và Điều 20 của Luật SHTT.
Quyền nhân thân bao gồm có quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn liền với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền gắn liền với nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao, không thể thừa kế và được bảo hộ vô thời hạn, chỉ có tác giả mới có đặc quyền này cho dù tác giả đồng thời hoặc không đồng thời là CSH QTG, bao gồm các quyền:
Thứ nhất là quyền được đặt tên cho TPVH, điều này có ý nghĩa trong việc cá biệt hóa TPVH, thường phản ảnh ý tưởng của tác giả giúp công chúng dễ dàng tiếp cận với ý đồ của tác giả trong TPVH và không có ý nghĩa pháp lý với việc bảo hộ QTG vì TPVH có thể được bảo hộ khi nó không có tên và quyền đặt tên không áp dụng cho trường hợp tác giả dịch TPVH từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Quyền đặt tên cho TPVH là quyền nhân thân chỉ thuộc về tác giả của TPVH kể cả khi tác giả sáng tác ra TPVH theo hợp đồng hoặc theo nhiệm vụ.
Thứ hai, đứng tên tác giả trong TPVH, điều này khẳng định TPVH là kết quả hoạt động sáng tạo của mình tác giả thường đứng tên trên TPVH đó (có thể dùng tên thật hoặc bút danh). Tác giả có quyền yêu cầu được nêu tên thật hoặc bút danh khi TPVH được công bố sử dụng.
Thứ ba, là quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm văn học. Đây là quyền nhân thân duy nhất gắn với các quyền tài sản và có thể chuyển giao quy định tại khoản 3 điều 19 luật SHTT. Thực chất, quyền này không hoàn toàn là quyền nhân thân mà là quyền tài sản, vì thông qua việc công bố TPVH của mình, tác giả thu được những lợi ích kinh tế nhất định. Quyền này thuộc về tác giả, nếu tác giả đồng thời là CSH QTG; quyền này thuộc về CSH QTG, nếu tác giả không đồng thời là CSH QTG. Quyền này chỉ được bảo hộ có thời hạn trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết, có thể được chuyển giao và có thể được thừa kế. Tuy nhiên, riêng quyền được nhận giải thưởng đối với TPVH không chỉ mang ý nghĩa vật chất, mà cả yếu tố tinh thần trong đó yếu tố tinh thần nổi trội hơn, vì vậy quyền này thuộc về tác giả đồng thời hay không đồng thời là CSH QTG [42],[52].
Thứ tư, là quyền bảo vệ toàn vẹn TPVH không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Điều này nhằm bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH nhằm tránh bị sai lệch nội dung. Trong các quyền nhân thân không thể chuyển giao thì quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH được coi là quan trọng nhất và chính vì quan trọng nhất thì trong thực tiễn nó cũng thường bị xâm phạm nhiều nhất. Tuy nhiêu cũng có một số các ngoại lệ như:
– Trích dẫn hợp lý các TPVH vì mục đích giảng dạy, TPVH không bị coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH.
– Sau khi TPVH được công bố, những người khác làm phái sinh, có những thay đổi mới về nội dung cũng như hình thức thể hiện so với ban đầu thì cũng không được coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự vẹn toàn của TPVH. Khoản 3 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan đã quy định: “Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại khoản 4 điều 19 của Luật SHTT là việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận với tác giả”[42].
Quyền tài sản của tác giả tại điều 20 Luật SHTT là một bộ phận của QTG. Quyền tài sản là tập hợp các quyền nhằm bảo vệ lợi ích được khai thác, tham gia vào quá trình sử dụng và khai thác các giá trị kinh tế TPVH của tác giả. Trong trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG, thì phạm vi các quyền tài sản của tác giả sẽ rộng hơn so với trường hợp tác giả không đồng thời là CSH QTG. Các quyền tài sản của tác giả đồng thời là CSH QTG có thể chuyển giao cho người khác thông qua các giao dịch pháp lý hoặc thông qua thừa kế và có thể bị tịch biên để thi hành nghĩa vụ. Các quyền tài sản này đều được bảo hộ có thời hạn (trong thời gian tác giả còn sống và 50 năm sau khi tác giả chết).
Tác giả mà đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm văn học được độc quyền sử dụng TPVH của mình, được quyền cấm mọi hành vi sử dụng tác phẩm văn học của mình. Điều này cũng có nghĩa tác giả đồng thời là CSH QTG là người có quyền cho phép người khác sử dụng TPVH của mình và hưởng lợi ích phân chia từ việc cho người khác sử dụng TPVH đấy và thường được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng sử dụng, chuyển giao, nhượng quyền khai thác các TPVH. Việc được hưởng nhuận bút, hưởng thù lao và những lợi ích vật chất khác liên quan đến TPVH của mình là hệ quả của quyền cho người khác sử dụng các TPVH của mình; pháp luật của nhiều nước quy định quyền được độc quyền sử dụng TPVH, cho hoặc không cho người khác sử dụng TPVH là quyền tài sản. Pháp luật của Việt Nam quy định quyền này là quyền tinh thần hay còn gọi là quyền nhân thân, nhưng lại áp dụng cách điều chỉnh như các quyền tài sản, có nghĩa là quyền này có thể chuyển giao được và chỉ được bảo hộ có thời hạn.
Đối với trường hợp tác giả không đồng thời là CSH QTG thì quyền nhân thân của tác giả hẹp hơn so với trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG gồm: các quyền nhân thân không gắn với tài sản và không thể chuyển giao và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc TPVH dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản của tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả gồm: được hưởng nhuận bút; được hưởng thù lao khi tác phẩm văn học của mình được sử dụng; được nhận giải thưởng đối với tác phẩm văn học mà mình là tác giả. Người có nghĩa vụ trả nhuận bút trong trường hợp này là chủ sở hữu QTG bất kể chủ sở hữu QTG trực tiếp sử dụng tác phẩm văn học hoặc cho phép người thứ ba sử dụng và CSH QTG có thu được tiền sử dụng từ người thứ ba hay không, thì CSH QTG vẫn luôn là người có nghĩa vụ trả tiền nhuận bút cho tác giả.
Trường hợp TPVH được trao giải thưởng, thì tác giả trực tiếp nhận giải thưởng (kể cả danh hiệu lẫn tiền thưởng, nếu có) từ cơ quan tổ chức trao giải thưởng, không qua người trung gian là CSH QTG vì giải thưởng chứa đựng yếu tố tinh thần chiếm ưu thế cao hơn yếu tố vật chất, nên quyền này thuộc về tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả có quyền tài sản: được hưởng lợi ích vật chất từ việc sử dụng TPVH tại điều 36 luật SHTT quy định: Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại điều 20 của Luật SHTT.
Chủ sở hữu quyền tác giả đương nhiên có độc quyền hoặc cho phép người khác thực hiện quyền này và sẽ được hưởng lợi ích từ người khác thông qua việc cho phép thực hiện quyền đó gồm:
– Làm tác phẩm văn học phái sinh như: dịch, biên dịch, biên soạn, tuyển chọn…Người không phải là CSH QTG khi làm TPVH phái sinh phải trả tiền nhuận bút, thù lao …cho CSH QTG gốc.
– Quyền sao chép tác phẩm văn học được quy định tại khoản 10 điều 4 Luật SHTT: “Là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử ’’[37] . Quyền sao chép thuộc QTG một lần nữa được hướng dẫn tại khoản 2 điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, theo đó “quyền sao chép quyền tác giả là một trong các quyền tài sản độc quyền thuộc QTG, do CSH thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử”. Nếu như trước đây, sao chép được hiểu là việc làm các bản sao dưới các hình thức vật chất hữu hình như văn bản, đĩa…thì quy định này đã mở rộng phạm vi quyền sao chép đến cả các hình thức điện tử có nghĩa là sẽ được số hóa thong qua các phương tiện kỹ thuật. Quy định này hoàn toàn phù hợp với khái niệm sao chép trong điều 9 Cư Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật qui định: “tác giả được hưởng độc quyền cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kì hình thức nào’’[45].
Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền được phân phối, được nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm văn học; Quyền này được xem là một trong những phương thức sử dụng TPVH một cách độc lập. Phân phối TPVH là việc đưa những vật thể hiện hoặc sao chép TPVH vào giao lưu dân sự thông qua các hợp đồng như mua bán, trao đổi, tặng cho…Đối tượng phân phối có thể là bản gốc hoặc bản sao của TPVH. Bên cạnh đó CSH QTG còn có quyền truyền đạt TPVH đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
CSH QTG có được những độc quyền khai thác, sử dụng những thành quả sáng tạo, đầu tư của họ vì những đóng góp của họ. Tuy nhiên điều này có thể là nguyên nhân gây cản trở cho sự tiếp cận của công chúng và vô hình ngăn chặn các giao lưu dân sự liên quan đến loại quyền tài sản đặc biệt này. Vì thế, để hài hòa lợi ích của chủ thể QTG và lợi ích cộng đồng trong việc tiếp cận, sử dụng TPVH.
PLVN có quy định các hạn chế của QTG đối với một số hành vi sử dụng, khai thác QTG như được sử dụng TPVH được công bố mà không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ thể quyền khi sử dụng TPVH được công bố (Điều 25, điều 26 Luật SHTT).
Do đó, bên cạnh việc quy định độc quyền sao chép cho CSH, pháp luật còn quy định những hạn chế QTG đối với quyền sao chép sao cho phù hợp với khoản 2 điều 9 Cư Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật quy định: “Luật pháp quốc gia thành viên có quyền cho phép sao in tác phẩm trong một vài trường hợp đặc biệt, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây thiệt hại bất chính cho những quyền lợi hợp pháp của tác giả”
Với các quyền trên, chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu tự mình thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện, trong trường hợp khi cho người khác thực hiện quyền, họ có thể được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, các lợi ích khác theo thỏa thuận. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không xin phép chủ sở hữu tác phẩm đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Bên cạnh việc tác giả được thừa nhận và bảo hộ quyền theo quy định, thì pháp luật cũng có những giới hạn về quyền tác giả. Việc giới hạn thể hiện ở chỗ pháp luật quy định những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng tác phẩm được công bố mà không xin phép, không phải trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, sử dụng tác phẩm được công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền (Điều 25 và Điều 26 Luật SHTT). Luật SHTT quy định về giới hạn quyền tác giả như vậy, một mặt là để đảm bảo tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không lạm dụng những đặc quyền dành cho họ, mặt khác đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với lợi ích của cộng đồng, bảo tồn và phát triển những giá trị chung ở mức độ hợp lý.
1.2. Lý luận bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
1.2.1. Định nghĩa bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Tại khoản 2 điệu 4 Luật STTT quy định Quyền tác giả: là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu [37]. Quyền tác giả đối với TPVH là quyền tài sản, tính chất vô hình nên chỉ có thể xác lập và nhận biết bằng pháp luật nên cần sự bảo hộ từ phía Nhà nước.
Thuật ngữ “bảo hộ”: là được “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất”[47, tr.31]. Do đó, bảo hộ quyền tác giả đối với TPVH là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng pháp luật ghi nhận, bảo đảm thực hiện và bảo vệ quyền tác giả của người sáng tạo, chủ sở hữu tác phẩm văn học.
QTG của tác phẩm văn học cũng tự động phát sinh khi TPVH được sáng tạo và thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ đã công bố hay chưa công bố đã đăng ký hay chưa đăng ký (Khoản 1 điều 6 luật SHTT). Nhưng để miễn giảm được nghĩa vụ chứng minh khi có tranh chấp về QTG xãy ra thì việc đăng ký bảo hộ QTG TPVH vẫn được khuyến khích thực hiện.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học mang ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm các mục đích như sau:
– Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học là nhằm loại trừ các hành vi khai thác, sử dụng bất hợp pháp các tác phẩm văn học của người khác mà không có sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm văn học đó.
– Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả đối với tác phẩm văn học do mình sáng tạo ra.
– Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học đồng thời mang ý nghĩa bảo vệ giá trị của các tác phẩm văn học đó.
– Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển sáng tạo của văn học nghệ thuật nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
– Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến các tác phẩm văn học có giá trị.
1.2.2. Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Nội dung bảo hộ bao gồm bảo hộ việc xác lập, thực hiện và thực thi QTG đối với TPVH.
QTG đối với TPVH được xác lập ngay từ khi TPVH được tạo ra và định hình dưới dạng vật chất nhất định, không cần phải thủ tục đăng ký bảo hộ. Tuy nhiên để “giảm thiểu nghĩa vụ chứng minh” khi có xãy ra tranh chấp thì việc đăng ký bảo hộ QTG vẫn là thủ tục được khuyến khích hiện nay. Việc xác lập bảo hộ QTG bằng hình thức đăng ký bảo hộ cho thấy tác giả (CSH) TPVH ý thức được vấn đề bảo vệ QTG đối với TPVH của chính mình, mặc dù không phải là thủ tục bắt buộc. Đăng ký QTH là việc mà tác giả (CSH) QTG nộp đơn và các hồ sơ kèm theo (đơn) cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi nhận và lưu giữ lại những thông tin về tác giả, tác phẩm, CSH QTG tác phẩm.
Xác lập quyền dựa trên các tiêu chí; trong đó để được bảo hộ QTG thì TPVH phải đảm bảo được tính nguyên gốc. Khái niệm “nguyên gốc” là khái niệm rất quan trọng nhưng lại không được quy định cụ thể trong luật mà chỉ được hiểu tính nguyên gốc liên quan đến hình thức thể hiện ý tưởng chứ không liên quan đến bản thân ý tưởng hay ý nghĩa bên trong nó. Tính nguyên gốc có nghĩa là TPVH được bảo đảm bằng sự sáng tạo ra một cách độc lập, trực tiếp từ lao động bằng trí não, đồng thời sẽ thể hiện được phong cách riêng của tác giả và không được sao chép từ bất cứ một TPVH nào khác.
Để được bảo hộ QTG, các TPVH phải được định hình dưới một dạng vật chất nhất định mà bằng các giác quan của con người hoặc bằng các phương tiện kỹ thuật có thể nhận biết được. Tác phẩm văn học sẽ không được bảo hộ dưới dạng ý tưởng, suy nghĩ … mà chỉ bảo hộ cách thức thể hiện ý tưởng dưới một dạng vật chất cụ thể mà bằng hình thức trực tiếp thông qua các giác quan hoặc gián tiếp qua các thiết bị hỗ trợ kỹ thuật mà công chúng biết đến sự tồn tại của các TPVH đó.
Thực hiện QTG đối với TPVH là việc thực hiện nội dung QTG bởi các chủ thể như tác giả, CSH QTG và các chủ thể được phép khai thác quyền tác giả. QTG đối với TPVH là một tập hợp các quyền của các chủ thể quyền đối với TPVH do họ sáng tạo ra hoặc sở hữu, các quyền này được pháp luật bảo hộ và thừa nhận gồm: quyền nhân thân và quyền tài sản được quy định tại điều 19 và điều 20 Luật SHTT, tại điều 20 và điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ – CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
Việc thực thi bảo hộ QTG đối với TPVH theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là Hiệp định TRIPs (Hiệp định về các khía cạnh thương mại của sở hữu trí tuệ và có hiệu lực tại Việt Nam ngày 01/01/1995) Hiệp định này bao gồm những nguyên tắc toàn diện nhất về thực thi quyền SHTT trên phạm vi toàn thế giới. Hiệp định TRIPs thể hiện bước phát triển rất rõ ràng với việc dành hẳn phần III với 21 điều (từ điều 41 đến điều 61) quy định về thực thi quyền SHTT. Để đảm bảo việc thực thi quyền SHTT theo quy định của Hiệp định Trips thì các quốc gia thành viên có thể áp dụng ba loại thủ tục là hành chính, dân sự và hình sự để đảm bảo đạt hiệu quả cho việc thực thi. Nhưng các thủ tục này phải được áp dụng một cách bình đẳng, công bằng, không được tốn kém nhằm tránh tạo sự cản trở trong hoạt động thương mại hợp pháp và chống lại sự lạm dụng các thủ tục đó (khoản 1, 2, Điều 41 Hiệp định TRIPs) [46].
E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\LUẠT KINH TE\LE TRUNG HIEU\SAU BAO VE