Thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn

Thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Duy Xuyên

Thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2019 của Tổng cục Thống kê, dân số Việt Nam vào khoảng 96.484.000 người, trong đó có 62.667.400 người sống ở khu vực nông thôn (chiếm tỷ lệ 64,95%). Những năm qua, mặc dù quá trình đô thị hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ, nhưng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở khu vực nông thôn còn khá lớn (37.672.900 người), chiếm 67,55% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước. Lao động nông thôn là lực lượng lao động tham gia hoạt động trong hệ thống các ngành kinh tế nông thôn như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Đây là lực lượng chủ yếu sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Với tầm quan trọng đó, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, thể hiện qua việc ban hành nhiều chính sách hỗ trợ như: chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, chính sách vốn vay hỗ trợ giải quyết việc làm, chính sách về đất đai, chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp, chính sách đào tạo nghề,… Qua đó đã tạo điều kiện hỗ trợ giải quyết việc làm cho lượng lớn lao động khu vực nông thôn. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song việc triển khai thực hiện chính sách vào thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập tại nhiều địa phương.

Duy Xuyên là huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Nam, có diện tích khoảng 308,75 km2 với khoảng 126.870 người, trong đó có 23.987 người sống ở khu vực thành thị và 102.883 người sống ở khu vực nông thôn. Số người trong độ tuổi lao động có khoảng 75.881 người, trong đó lực lượng lao động ở khu vực nông thôn có khoảng 61.727 người, chiếm 81,3% tổng số lực lượng lao động toàn huyện. Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp các ngành từ Trung ương đến tỉnh, huyện Duy Xuyên đã thực hiện khá tốt công tác giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện đã diễn ra mạnh mẽ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động, dẫn tới mất cân bằng cung – cầu lao động. Lực lượng lao động nông thôn chưa được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ khá cao, khoảng 41,9%, khiến cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp cho nhóm đối tượng này còn gặp nhiều khó khăn. Một số chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn khi triển khai vào thực tiễn gặp nhiều bất cập, hạn chế. Do vậy, cần thiết phải nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện, qua đó góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động nói chung, người lao động nông thôn nói riêng. Trước yêu cầu thực tiễn đó, học viên chọn đề tài: “Thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:

– Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn;

– Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách việc cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam;

– Xây dựng quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về thời gian: Nghiên cứu việc thực hiện các chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 – 2019.

– Không gian: Phạm vi khảo sát, nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại 13 xã và 01 thị trấn thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

– Nội dung: Vấn đề thực hiện chính sách việc làm cho người lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được viết dựa trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về giải quyết việc làm, trong đó có giải quyết việc làm cho lao động nông thôn; trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu, công trình khoa học có liên quan đến nội dung của luận văn này. Bên cạnh đó, luận văn còn được viết dựa trên cơ sở các Nghị quyết, chủ trương, quyết định, các báo cáo tổng kết, điều tra, thống kê, các chính sách… về việc làm, trong đó có vấn đề việc làm cho lao động nông thôn của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2035.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp nghiên cứu định tính: sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính nhằm phân tích thực trạng thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện. Trong đó, sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập số liệu thứ cấp từ các báo cáo kết quả, các cuộc tổng điều tra về xuất khẩu lao động, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm (Đề án 1956), cuộc điều tra về lao động việc làm, đào tạo nghề cho lao động, tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn huyện từ năm 2015 đến năm 2019; các phương pháp phân tích thống kê, mô tả: Dựa trên số liệu thứ cấp được thu thập, tác giả lập các bảng biểu sơ đồ, đưa ra nhận xét một cách tổng thể đối với số liệu được thu thập, trích dẫn các nguồn tham khảo… để làm rõ thực trạng tình hình thực hiện chính sách trên địa bàn huyện. Bên cạnh đó, luận văn kết hợp sử dụng phương pháp quan sát, ghi chép hiện trường, phỏng vấn sâu, nghiên cứu thực tế để làm cơ sở đánh giá sát thực tiễn.

Phương pháp nghiên cứu định lượng: Sử dụng phương pháp điều tra xã hội học khảo sát bằng bảng hỏi 60 cán bộ, công chức thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước liên quan đến vấn đề đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng, để đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tại địa phương. Kết hợp với phân tích kết quả, đối chiếu với tình hình, kết quả đạt được trong thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam để nhận diện bản chất vấn đề.

– Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu diễn giải, so sánh, quy nạp để làm cơ sở cho quá trình phân tích, nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; làm rõ thêm một số nội dung về vấn đề việc làm cho lao động nông thôn trong cơ chế, điều kiện kinh tế xã hội hiện nay của nước ta nói chung và của huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chuyên môn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam cũng như vận dụng cho các địa phương khác một cách hợp lý trong hoàn thiện thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn phản ánh thực trạng thực hiện chính sách và đề xuất các quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần như: Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Mục lục, Chú thích các chữ viết tắt, Danh mục các bảng, biểu đồ, Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu gồm ba chương, cụ thể như sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3. Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM

CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

1.1. Một số khái niệm cơ bản về thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn

1.1.1. Việc làm

Việc làm là vấn đề hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cuộc sống và sự phát triển của mỗi con người nói riêng và sự phát triển của xã hội nói chung. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển của xã hội thì nhà nước, các doanh nghiệp và toàn xã hội đều phải có trách nhiệm trong việc thực hiện các giải pháp nhằm GQVL, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Việc làm là một phạm trù lịch sử, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Việc mở rộng hay thu hẹp việc làm, phát huy hay kìm hãm năng lực tạo việc làm phụ thuộc vào yếu tố kinh tế – chính trị – xã hội của quốc gia, địa phương hay doanh nghiệp.

Khái niệm việc làm được nghiên cứu và đề cập dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, quan niệm về việc làm cũng được nhìn nhận một cách khoa học, đầy đủ và đúng đắn hơn.

Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận được tiền công hay hiện vật”.

Tại Việt Nam, quan niệm về việc làm được quy định rõ tại Điều 9, Chương II, Bộ Luật lao động sửa đổi bổ sung năm 2012 [20], cụ thể: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”.

Từ những quan niệm trên, khái niệm việc làm có thể được hiểu một cách đầy đủ như sau: “Việc làm là hoạt động lao động của con người nhằm mục đích tạo ra thu nhập đối với cá nhân, gia đình hoặc cho toàn xã hội, các hoạt động này không bị pháp luật cấm”.

1.1.2. Giải quyết việc làm

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Tại Việt Nam, trách nhiệm GQVL được quy định cụ thể tại Điều 9, Chương II, Bộ Luật lao động sửa đổi bổ sung năm 2012 [20]: “Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”.

GQVL cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới. GQVL là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. GQVL phải được xem xét ở cả phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò của các cơ quan QLNN.

GQVL nhằm khai thác triệt để tiềm năng của một con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy, GQVL phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Vì vậy, có thể hiểu giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm.

1.1.3. Nông thôn và lao động nông thôn

– Nông thôn: được hiểu là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn và được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã. Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất mà ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam. Theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giải thích thì: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã”. [2].

– Lao động: Theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”. Theo đó, lao động trước hết là một hành động diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, trong lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng với công cụ tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, đời sống con người, lao động là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người, nó là hoạt động rất cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Con người không thể sống khi không có lao động.

Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động. Sức lao động là năng lực của con người, nó bao gồm cả thể lực và trí lực, nó là yếu tố tích cực đóng vai trò trung tâm trong suốt quá trình lao động, là yếu tố khởi đầu, quyết định trong quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá có thể được ra đời hay không thì nó phải phụ thuộc vào quá trình sử dụng sức lao động.

Khi xã hội ngày càng phát triển, khái niệm lao động đã được mở rộng hơn nhiều so với bản chất ban đầu. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích cho con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân và cho xã hội. Lao động là điều kiện không thể thiếu được của đời sống con người, làm cho con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Lao động làm cho con người mang tính sáng tạo ngày càng cao. Người có nhu cầu về hàng hóa này là người sản xuất, còn người cung cấp hàng hóa này là người lao động. Giá cả của lao động là tiền công thực tế mà người sản xuất trả cho người lao động. Mức tiền công chính là mức giá của lao động vì đó là thước đo giá trị của phát triển sản xuất trong xã hội. Như vậy, lao động là nguồn gốc và động lực phát triển xã hội, không có lao động sẽ không thể có sự tồn tại của đời sống cá nhân cũng như xã hội loài người nói chung.

– Lao động nông thôn: là những người thuộc lực lượng lao động, tham gia hoạt động trong hệ thống các ngành kinh tế nông thôn như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong nông thôn. Đây là lực lượng chủ yếu sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Lao động nông thôn ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, LĐNT nước ta chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp với năng suất lao động thấp, phương thức sản xuất còn nhiều lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao. Mặt khác, LĐNT sống và làm việc rải rác trên địa bàn rộng. Do đó, việc tổ chức hợp tác lao động và việc đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp thông tin cho LĐNT là rất khó khăn.

Thứ hai, LĐNT ở nước ta đa số có trình độ văn hoá và chuyên môn thấp hơn so với khu vực thành thị, tỷ lệ LĐNT đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp. Theo tổng kết đánh giá 10 năm thực hiện xây dựng nông thôn mới của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến năm 2018 vẫn còn đến 87,18% LĐNT không được đào tạo; chỉ có 2,53% lao động có trình độ sơ cấp và 1,76% trình độ trung cấp (trình độ phù hợp nhất với LĐNT). Đáng chú ý là lao động có trình độ trung cấp giảm với tốc độ rất cao (12,3%/năm), lao động có trình độ cao đẳng chỉ chiếm 4,36% và lao động trình độ đại học chỉ chiếm 4,03%.

Thứ ba, LĐNT chủ yếu học nghề thông qua việc hướng dẫn của thế hệ trước hoặc tự truyền cho nhau nên lao động theo truyền thống và thói quen là chính. Điều đó làm cho LĐNT có tính bảo thủ nhất định, tạo ra sự khó khăn cho việc thay đổi phương hướng sản xuất và thực hiện phân công lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế nông thôn.

Thứ tư, LĐNT ở Việt Nam mang tính thời vụ rõ rệt, đặc biệt là các vùng nông thôn thuần nông. Do vậy, việc sử dụng lao động trong nông thôn kém hiệu quả, hiện tượng thiếu việc làm là phổ biến. Muốn GQVL và tăng thu nhập cho LĐNT thì phải bằng mọi biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa tính thời vụ bằng cách phát triển đa dạng ngành nghề trong nông thôn, thâm canh tăng vụ, xây dựng cơ cấu cây trồng, con vật nuôi một cách hợp lý.

Thứ năm, LĐNT ít có khả năng tiếp cận và tham gia thị trường kém, thiếu khả năng nắm bắt và xử lý thông tin thị trường, khả năng hạch toán hạn chế. Do đó, khả năng giao lưu và phát triển sản xuất hàng hoá cũng có nhiều hạn chế. Tập quán sản xuất của lao động nước ta nhìn chung vẫn nhỏ lẻ, manh mún, chủ yếu bị trói buộc trong khuôn khổ làng xã.

Với những đặc điểm như trên, LĐNT chủ yếu thuộc bộ phận dân số không có việc làm thường xuyên, hay còn gọi là thiếu việc làm hoặc bán thất nghiệp. Đặc biệt, trong những năm gần đây, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn do lao động tăng nhanh, do diện tích ruộng đất trên một lao động ngày càng giảm. Tình trạng đó không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của chính LĐNT mà còn ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn, gây lãng phí một nguồn lao động lớn ở nước ta.

1.1.4. Chính sách và thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn

– Chính sách được hiểu là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. “Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng, Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp công cụ thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã được xác định” (Đỗ Phú Hải, 2012). [15].

Vận dụng khái niệm chính sách công vào lĩnh vực GQVL, khái niệm chính sách việc làm có thể được hiểu như sau: Chính sách việc làm là tập hợp các quyết định liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ thực hiện để tạo việc làm cho người lao động nhằm đáp ứng cơ bản về nhu cầu cuộc sống của họ và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

– Thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn

Nhà nước đóng vai trò và chịu trách nhiệm chính trong vấn đề việc làm thông qua các công cụ QLNN. Một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để giải quyết các vấn đề của xã hội nói chung và tạo việc làm nói riêng đó là chính sách. Chính sách việc làm có thể hiểu là những biện pháp của Nhà nước tác động tới xã hội nhằm giải quyết các vấn đề về việc làm như: thất nghiệp, khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, hỗ trợ tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để tạo việc làm cho người lao động.

Theo đó, thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT có thể hiểu là việc triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước có liên quan đến vấn đề tạo việc làm cho LĐNT thông qua việc triển khai thực hiện các giải pháp nhằm đạt mục tiêu giải việc làm cho LĐNT đã đề ra.

1.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn

Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hoá chính sách nên các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao công tác tổ chức triển khai thực hiện chính sách. Để tổ chức, điều hành có hiệu quả công tác thực thi chính sách công, cán bộ, công chức nhà nước cần phải thực hiện nhiều nội dung quản lý khác nhau thông qua các bước tổ chức thực thi cơ bản sau đây:

1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Do quá trình tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT là quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện một cách chủ động hoàn toàn. Thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT là nhiệm vụ hết sức quan trọng, có sự tham gia của nhiều ngành, cơ quan từ Trung ương tới địa phương, do đó các cơ quan triển khai thực hiện chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

– Thứ nhất, lập kế hoạch tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực hiện; những dự kiến về cơ chế, trách nhiệm của cán bộ quản lý và công chức thực hiện; cơ chế tác động giữa các cấp thực hiện chính sách.

– Thứ hai, xác định kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực như dự kiến về các cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực hiện chính sách; các nguồn lực tài chính, các vật tư văn phòng phẩm…

– Thứ ba, xác định thời gian triển khai thực hiện thông qua dự kiến về thời gian duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.

– Thứ tư, lên kế hoạch kiểm tra thực hiện chính sách: là những dự kiến về tiến độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện.

– Thứ năm, xây dựng dự kiến những nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách bao gồm: nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện chính sách…

Sau khi được quyết định thông qua, kế hoạch thực thi chính sách mang giá trị pháp lý, được mọi người chấp hành thực hiện. Việc điều chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch quyết định.

1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách

Sau khi bản kế hoạch triển khai được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành triển khai tổ chức thực hiện theo kế hoạch. Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền, vận động người lao động ở nông thôn tham gia thực hiện chính sách. Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các đối tượng được hưởng lợi từ chính sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho người LĐNT hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách… để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.

Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách việc làm cho LĐNT cần được triển khai thực hiện một cách thường xuyên, liên tục để người LĐNT có thêm niềm tin vào chính sách và tích cực thực hiện chính sách. Phổ biến, tuyên truyền có thể thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú như: trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với người lao động, hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: hệ thống truyền thanh, truyền hình; sách, báo, tạp chí…

1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách

Bước tiếp theo sau bước tuyên truyền, phổ biến là phân công, phối hợp các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách theo kế hoạch được phê duyệt. Chính sách việc làm cho LĐNT được thực thi trên phạm vi rộng lớn, tối thiểu cũng là một địa phương, vì thế số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia bao gồm người lao động ở khu vực nông thôn, bộ máy tổ chức thực thi của nhà nước, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp… Không chỉ có vậy, các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách diễn ra cũng hết sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian, chúng đan xen nhau, thúc đẩy hay kìm hãm nhau theo quy luật… Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính sách việc làm cho LĐNT có hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Hoạt động phân công, phối hợp này phải được thực hiện một cách chủ động, sáng tạo để chính sách luôn được duy trì ổn định, đạt mục tiêu đề ra.

Trong phân công, phối hợp thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT ở cấp huyện thì Phòng LĐ-TB&XH thường được phân công là cơ quan chủ trì còn các cơ quan, ban ngành khác và Mặt trận các đoàn thể CT-XH của Huyện là các đơn vị phối hợp trong quá trình thực hiện.

1.2.4. Duy trì thực hiện chính sách

Duy trì thực hiện chính việc làm cho LĐNT là một trong những công việc hết sức quan trọng nhằm chuyển tải nội dung các chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề việc làm đến với người lao động, đặc biệt là LĐNT. Muốn vậy phải có sự đồng tâm, hợp lực của cả người tổ chức, người thực hiện và môi trường tồn tại. Nếu những yếu tố cơ bản này biến động theo chiều hướng tích cực thì sẽ rất thuận lợi trong việc duy trì thực hiện chính sách và ngược lại, nếu những yếu tố cơ bản này biến động theo chiều hướng tiêu cực, không thuận lợi thì việc duy trì thực hiện chính sách sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, các cơ quan nhà nước có liên quan và người thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT phải thường xuyên dự báo tình hình, kịp thời tham mưu, đề xuất cơ quan ban hành chính sách có những những giải pháp phù hợp, sử dụng công cụ quản lý hợp lý nhằm tác động kịp thời giúp cho chính sách việc làm cho LĐNT được duy trì ổn định, lâu dài.

1.2.5. Điều chỉnh chính sách

Điều chỉnh chính sách việc làm cho LĐNT được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách diễn ra rất năng động, linh hoạt. Vì vậy các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện có hiệu quả chính sách, miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính sách. Nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: Để chính sách tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu, hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế chứ không cho phép điều chỉnh mà làm thay đổi mục tiêu – nghĩa là làm thay đổi chính sách thì coi như chính sách đó bị thất bại.

1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Đây là việc nhất thiết phải tiến hành trong suốt quá trình triển khai thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT bởi: các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường ở các vùng, địa phương không giống nhau; mặt khác trình độ, năng lực tổ chức điều hành của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước không đồng đều. Qua kiểm tra, đôn đốc, các mục tiêu và biện pháp chủ yếu của chính sách để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức, mỗi đối tượng thực hiện chính sách tập trung chú ý những nội dung ưu tiên trong quá trình thực hiện. Kiểm tra, theo dõi sát sao tình hình tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT vừa kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách, vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện, giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện GQVL cho LĐND đạt mục tiêu chính sách đề ra.

1.2.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm quá trình tổ chức thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT là bước cuối cùng và là một trong những bước hết sức quan trọng trong quy trình thực hiện chính sách. Thực hiện bước này được hiểu là việc xem xét, kết luận về quá trình chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở và việc chấp hành của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách, bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp (người LĐNT) và gián tiếp từ chính sách (các cơ sở ĐTN, tư vấn giới thiệu việc làm…). Thước đo để đánh giá kết quả thực hiện của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách này là tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định về cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu GQVL cho LĐNT.

Qua việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT mới biết chính xác kết quả thực tiễn việc thực hiện. Qua đó đánh giá những kết quả cụ thể đã đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân, đồng thời rút ra được những bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách việc làm cho lao động nông thôn

1.3.1. Điều kiện tự nhiên

Thu nhập của LĐNT một phần rất lớn là thu từ nông nghiệp và các yếu tố về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, từ đó ảnh hưởng lớn đến thu nhập cũng như việc thực thi chính sách việc làm cho LĐNT. Các yếu tố điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách việc làm cho LĐNT gồm:

+ Vị trí địa lý: Đối với những vùng nông thôn ở cách xa các trung tâm kinh tế và văn hóa thì kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất thuần nông là chính, trình độ sản xuất hạn chế, bên cạnh đó việc tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa gặp nhiều khó khăn nên ảnh hưởng đến kết quả việc triển khai thực hiện chính việc làm cho LĐNT. Ngược lại, những vùng nông thôn gần các trung tâm đô thị, các trung tâm kinh tế và văn hóa sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các thông tin khoa học kỹ thuật, thuận lợi cho việc đầu tư mua sắm các tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất kinh doanh phát triển… thì việc triển khai thực hiện chính sách ở những khu vực này sẽ dễ dàng hơn.

+ Điều kiện về đất đai, địa hình: Đối với những vùng có địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiêu thì việc triển khai thực hiện các chính sách nhằm hỗ trợ tạo việc làm cho LĐNT được thuận lợi hơn như: chính sách khuyến khích tích tụ ruộng đất nhằm đưa cơ giới hóa và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ việc đi lại tiếp cận với thị trường và giao lưu sản phẩm hàng hóa… qua đó tạo nhiều cơ hội có việc làm cho người LĐNT. Ngược lại, những vùng trung du và miền núi có địa hình hiểm trở bị chia cắt, khó khăn trong việc phát triển giao thông và thủy lợi cũng như áp dụng các phương tiện sản xuất, các tiến bộ khoa học hiện đại… hạn chế trong quá trình phát triển sản xuất thì việc triển khai thực hiện các chính sách GQVL cho LĐNT gặp khó khăn.

+ Điều kiện khí hậu: Những nơi có điều kiện khí hậu, thủy văn thuận lợi thì năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp mang lại cao hơn, khi có chính sách hỗ trợ thì người LĐNT mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn. Ngược lại, đối với những nơi điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, thiên tai dịch bệnh thường xuyên xảy ra, hiệu quả sản xuất mang lại không cao thì mặt dù có chính sách hỗ trợ nhưng người LĐNT không dám đầu tư, dẫn đến việc triển khai thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT sẽ gặp nhiều trở ngại hơn.

1.3.2. Nhân tố thuộc về cơ chế chính sách

Chính sách và chất lượng chính sách của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến việc làm và thu nhập của người LĐNT. Theo đó, mặc dù LĐNT có quyền tự chủ khá lớn trên mảnh đất của mình, tuy nhiên nếu cơ chế chính sách của nhà nước không tốt và sát hợp với thực tiễn thì họ khó có khả năng hưởng lợi từ cơ chế chính sách trong thực hiện các dự án, mô hình phát triển sản xuất để GQVL. Mặt khác, nếu không có những chính sách của Nhà nước như: Chính sách về khuyến nông, khuyến lâm; chính sách đầu tư hỗ trợ thủy lợi hóa đất màu; chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn; chính sách hỗ trợ nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,… thì LĐNT cũng gặp phải rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, nếu chính sách được xây dựng chất lượng, phù hợp với đối tượng thụ hưởng là người LĐNT và sát với tình hình thực tiễn, thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Ngược lại, nếu chính sách chất lượng kém, không sát với tình hình thực tiễn và không phù hợp với đối tượng thụ hưởng thì khi triển khai thực hiện sẽ không đạt kết quả như mục tiêu chính sách đề ra. Do đó, các yếu tố về cơ chế chính sách của Nhà nước có tác động rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của LĐNT, từ đó ảnh hưởng đến kết quả giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn.

1.3.3. Nhân tố thuộc về nguồn lực tài chính

Nguồn lực tài chính có vị trí vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách việc làm cho LĐNT. Có thể kể đến một số lĩnh vực cần đầu tư nhằm thực hiện tốt công tác GQVL cho LĐNT, cụ thể như sau:

Trước hết là đầu tư trong lĩnh vực ĐTN cho LĐNT: nếu nguồn lực tài chính đảm bảo cho các khoản chi như: đầu tư mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, chi phí quản lý, các chế độ cho đội ngũ giáo viên và các hoạt động khác của các cơ sở dạy nghề… thì việc ĐTN cho LĐNT được diễn ra thuận lợi, người LĐNT tham gia học nghề có được điều kiện học tập tốt hơn, chất lượng sau đào tạo cao hơn, tạo điều kiện cho người LĐNT có nhiều có hội tìm được việc làm hơn.

Hai là, đầu tư nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi địa phương. Đây là lĩnh vực đầu tư khá hiệu quả nhằm thực hiện tốt chính sách việc làm cho LĐNT. Theo đó, trên cơ sở các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế của mỗi địa phương đã đề ra, nếu nguồn lực tài chính đầu tư đảm bảo các dự án phát triển kinh tế đi vào hoạt động, thì sẽ tạo cơ hội có việc làm cho người lao động nói chung và LĐNT nói riêng từ các chương trình dự án này.

Ba là, nguồn lực đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở sản xuất kinh doanh phát triển. Khi được đầu tư hỗ trợ về nguồn lực tài chính thì các cơ sở này mạnh dạng đầu tư mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hóa các ngành nghề… thu hút nhiều lao động tham gia sẽ tạo cơ hội GQVL cho LĐNT.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 1/HUYNH VAN DONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *